Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ NGÂN SÁCH XÃ
I. Ngân sách Nhà nước và hệ thống ngân sách
1. Khái niệm Ngân sách Nhà nước
Ngân sách Nhà nước là phạm trù kinh tế mang tính chất lịch sử, bao giờ
cũng gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và sự tồn tại phát triển của kinh tế
hàng hóa tiền tệ.
Sở dĩ ngân sách Nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước
là do khi Nhà nước ra đời đòi hỏi phải có nguồn lực để nuôi sống bộ máy Nhà
nước. Do đó đòi hỏi phải tập trung một bộ phần của cải xã hội vào tay Nhà nước
để phục vụ yêu cầu quản lý của Nhà nước. Đây là điều kiện cần để ngân sách
nhà nước ra đời.
Sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ hàng hóa tiền tệ là điều kiện đủ để
ngân sách nhà nước ra đời, bởi vì quan hệ hàng hóa tiền tệ phát triển sẽ tập trung
các nguồn thu, dự tóan thu chi được giá trị hóa và diễn ra nhanh hơn, phong phú
và linh hoạt hơn. Mặt khác sản xuất hàng hóa đã tạo ra khả năng ngày càng lớn
hơn cho việc tập trung của cải vào tay Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự
toán được cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm
để đảm bảo thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước .
- Thu ngân sách nhà nước : là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong
quá trình phân phối nhằm tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước.
- Chi ngân sách Nhà nước : là tập hợp các quan hệ kinh tế gắn liền với
quá trình sử dụng ngân sách Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng quản lý
kinh tế - xã hội của Nhà nước.
2. Bản chất và vai trò của ngân sách Nhà nước
2.1. Bản chất
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bản chất của ngân sách Nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế phát
sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội để tạo lập và sử
dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước nhằn thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội, ngân sách Nhà
nước huy động và sử dụng một bộ phận thu nhập trong xã hội để thực hiện chức
năng của Nhà nước. Nguồn thu cơ bản mang tính bắt buộc của ngân sách Nhà
nước là thu nhập quốc dân được sáng tạo ra trong khu vực sản xuất kinh doanh và
các khoản chi chủ yếu của ngân sách Nhà nước mang tính chất không hoàn lại
trực tiếp được hưởng vào đầu tư phát triển kinh tế và tiêu dùng xã hội. Quá trình
phân phối tổng sản phẩm quốc dân đã làm xuất hiện hệ thống các quan hệ tài
chính và được thể hiện ở phần thu cũng như chi ngân sách Nhà nước. Hệ thống
các quan hệ tài chính tạo nên bản chất kinh tế của ngân sách Nhà nước, được thể
hiện dưới những hình thức cụ thể. Những quan hệ tài chính này bao gồm :
Thứ nhất : Quan hệ kinh tế giữa ngân sách Nhà nước với các doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh. Quan hệ kinh tế này phát sinh trong quá trình
hình thành thu của quỹ ngân sách Nhà nước bằng hình thức thuế của tất cả các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế .
Thứ hai : Quan hệ kinh tế giữa ngân sách Nhà nước với các đơn vị thuộc
lĩnh vực phi sản xuất vật chất. Các đơn vị không sản xuất kinh doanh là những
đơn vị quản lý nhà nước nằm trong các lĩnh vực sự nghiệp văn hóa xã hội, hành
chính và an ninh quốc phòng, những đơn vị này không sản xuất ra của cải vật
chất nhưng hoạt động của nó lại rất cần thiết cho xã hội. Quan hệ kinh tế giữa
ngân sách Nhà nước với những đơn vị này được phát sinh trong quá trình phân
phối lại các khoản thu nhập bằng việc ngân sách Nhà nước cấp kinh phí cho các
đơn vị quản lý Nhà nước theo các dự toán kinh phí. Quan hệ giữa ngân sách Nhà
nước với các đơn vị dự toán thể hiện khi sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước .
Thứ ba : Quan hệ giữa ngân sách Nhà nước với hộ gia đình và dân cư.
Mối quan hệ về mặt tài chính giữa Nhà nước và hộ gia đình, dân cư được thể
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiện thông qua phân phối lại giữa ngân sách Nhà nước với ngân sách hộ gia đình
và dân cư. Một bộ phận dân cư làm nghĩa vụ tài chính với Nhà nước thông qua
các khoản thuế, lệ phí, ủng hộ tự nguyện, đồng thời một bộ phận dân cư khác
nhận từ ngân sách Nhà nước các khoản trợ cấp xã hội theo chính sách qui định.
Thứ tư : Quan hệ kinh tế giữa ngân sách Nhà nước với thị trường tài chính.
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi không chỉ các nhà doanh nghiệp mà cả Nhà nước,
các đơn vị không sản xuất kinh doanh, các hiệp hội tổ chức quần chúng và dân cư
phải tiếp cận với thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Xuất phát từ chính sách tài
chính - tiền tệ, từ cung cầu về vốn trên thị trường, Nhà nước có thể tham gia trên
thị trường tài chính bằng việc phát hành các loại chứng khoán của Kho bạc Nhà
nước (tín phiếu, trái phiếu, chứng từ đầu tư) nhằm huy động vốn của tất cả các
chủ thể trong xã hội đáp ứng yêu cầu cân đối vốn của ngân sách Nhà nước hoặc
Nhà nước tham gia góp vốn cổ phần, hùn vốn hoặc cho các đơn vị kinh tế vay
bằng hình thức Nhà nước mua các loại chứng khoán của doanh nghiệp .
Như vậy, bằng các quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối các nguồn
tài chính của xã hội giữa những chủ thể nhất định đã hình thành quỹ tiền tệ tập
trung của Nhà nước và quỹ đó được sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế - xã
hội, thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
2.2 Vai trò của ngân sách Nhà nước trong cơ chế thị trường.
a. Vai trò huy động nguồn tài chính của ngân sách Nhà nước để đảm bảo
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước .
Vai trò về mặt tài chính này của ngân sách Nhà nước được xác định trên
cơ sở bản chất kinh tế của ngân sách Nhà nước. Sự hoạt động của Nhà nước
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội luôn đòi hỏi phải có các nguồn tài
chính để chi tiêu cho những mục đích xác định. Các nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước phải được thỏa mãn của các nguồn thu bằng hình thức thuế và thu ngoài
thuế. Đây là vai trò lịch sử của ngân sách Nhà nước được xuất phát từ nội tại của
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phạm trù tài chính mà trong bất kỳ chế độ xã hội và cơ chế kinh tế nào, ngân
sách Nhà nước đều phải thực hiện và phát huy.
Đây là vai trò cơ bản quan trọng nhất của ngân sách Nhà nước. Qua việc
thiết lập mối quan hệ giữa ngân sách với các chủ thể kinh tế khác để tiến hành
phân phối các nguồn tài chính nhằm tạo lập nên quỹ ngân sách Nhà nước. Các
quan hệ kinh tế được thiết lập dưới các hình thức :
+ Thuế
+ Phí và lệ phí
+ Các hoạt động thu từ hoạt động kinh tế
+ Đi vay
Để phát huy vai trò của ngân sách Nhà nước trong quá trình phân phối,
huy động một bộ phận các nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước cần thiết
phải lưu ý đến :
- Mức động viên các nguồn tài chính từ đơn vị cơ sở để hình thành nguồn
thu của ngân sách Nhà nước. Nếu mức động viên của ngân sách Nhà nước là
hợp lý và tối ưu thì sẽ không tác động cực đến quá trình hoạt động cũng như các
quyết định của các chủ thể kinh doanh .
- Các công cụ kinh tế được sử dụng tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà
nước và thực hiện các khoản chi của ngân sách Nhà nước .
- Tỷ lệ động viên ( tỷ suất thu ) của ngân sách Nhà nước trên GDP. Trong
cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đánh giá mức độ động viên của ngân sách
Nhà nước trên thu nhập quốc dân sản xuất.
b. Vai trò điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế xã hội của ngân sách Nhà nước.
Đây là vai trò của ngân sách Nhà nước được xuất phát từ những điều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể trong một giai đoạn phát triển nhất định. Thay đổi cơ chế
kinh tế ở nước ta hiện nay đã tác động trực tiếp đến ngân sách Nhà nước và
được thể hiện ở hai mặt :
- Thay đổi cơ cấu thu và chi của ngân sách Nhà nước.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Thay đổi vai trò nhiệm vụ của ngân sách Nhà nước trong nền kinh tế,
đặc biệt là thay đổi phương pháp cấp phát tài chính cho các nhu cầu của doanh
nghiệp với ngân sách Nhà nước khi là nghĩa vụ tài chính.
Trong cơ chế thị trường kinh tế, Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã
hội bằng việc định hướng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
bằng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch tổng thể nền kinh tế quốc
dân, bằng sử dụng các công cụ tài chính, giá cả, tiền tệ dưới hình thức các luật
và pháp lệnh, chính sách, cơ chế trong lĩnh vực phân phối phù hợp với vai trò
của Nhà nước với cơ chế kinh tế, cơ chế tài chính và với những yêu cầu của
chính sách tài chính quốc gia, ngân sách Nhà nước.
- Công cụ quản lý kinh tế trong cơ chế thị trường. Bằng quá trình phân
phối, huy động và sử dụng các nguồn tài chính bằng cơ chế hoạt động ngân sách
Nhà nước tác động trực tiếp đến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô và tác
động đến sự hoạt động của các quan hệ hàng hoá tiền tệ trong nền kinh tế theo
quỹ đạo của Nhà nước. Nhà nước sử dụng ngân sách Nhà nước là công cụ để
điều tiết quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội theo 3 nội dung cơ bản :
c. Kích thích sự tăng trưởng kinh tế theo định hướng xã hội:
Để duy trì sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô và thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế Nhà nước sử dụng công cụ thuế và chi ngân sách Nhà nước để
hướng dẫn, kích thích và tạo ra sức ép đối với các chủ thể kinh tế trong hoạt
động kinh tế. Bằng công cụ thuế : một mặt, Nhà nước tạo ra nguồn thu chủ yếu
của ngân sách Nhà nước, mặt khác sẽ góp phần kích thích sản xuất phát triển,
thu hút được các doanh nghiệp và tư nhân bỏ vốn đầu tư vào các ngành nghề cần
thiết và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế theo các định hướng phát triển. Hướng
dẫn, khuyến khích thúc đẩy các thành phần kinh tế mỡ rộng phát triển sản xuất
kinh doanh thì thuế phải có tác động điều tiết trên các lĩnh vực : sản xuất, phân
phối lưu thông và tiêu dùng. Mặt khác, ngân sách Nhà nước có tác dụng định
hướng và điều chỉnh các hoạt động kinh tế bằng các giải pháp lớn về chi ngân
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sách Nhà nước thông qua các khoản chi phát triển kinh tế, đầu tư vào cơ sở hạ
tầng, vào các ngành kinh tế mũi nhọn hoặc trợ giá cho các ngành có ảnh hưởng
tới sự phát triển của nền kinh tế. Nhìn chung trong nền kinh tế nước ta, quy mô
của các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp quốc doanh nhỏ bé, kinh tế tư nhân
chưa phát triển mạnh, cơ sở kết cấu hạ tầng kém, do đó cần phải có vốn đầu tư
của Nhà nước chi ra từ ngân sách Nhà nước. Chi tiêu của ngân sách Nhà nước
cho cơ sở hạ tầng kinh tế (điện, nước, thuỷ lợi, năng lượng, giao thông vận tải,
viễn thông) và các ngành kinh tế quan trọng sẽ tạo điều kiện và hướng nguồn
vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các lĩnh vực và các vùng
cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế mới, đồng thời các khoản chi đầu tư kinh
tế đó của ngân sách Nhà nước trở thành động lực thúc đẩy sự ra đời của các cơ
sở kinh tế mới .
d. Điều tiết thi trường giá cả và chống lạm phát:
Hoạt động của ngân sách Nhà nước thường xuyên gắn liền với các hoạt
động của nền kinh tế thị trường mà một trong những đặc điểm nỗi bật của nền
kinh tế thị trường là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh
nhằm đạt được lợi thế trên thị trường và hạn chế mức độ rủi ro mạo hiểm. Hai
yếu tố cơ bản của thị trường là cung cầu và giá cả thường xuyên tác động lẫn
nhau và chi phối mạnh sự hoạt động của thị trường. Sự chi phối hai yếu tố cơ
bản này dẫn đến sự dịch chuyển vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế từ
ngành này sang ngành khác. Song trong thực tế, việc dịch chuyển vốn của các
doanh nghiệp sang lĩnh vực sản xuất kinh doanh có lời hơn diễn ra theo một quá
trình phức tạp, khó khăn và đối với nền kinh tế dịch chuyển vốn hàng loạt sẽ tác
động tiêu cực trực tiếp đến sự ổn định của cơ cấu kinh tế. Do đó nhằm đảm bảo
lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp và lợi ích của xã hội, đồng thời giữ vững cơ
cấu kinh tế đã xác định, Nhà nước sử dụng ngân sách Nhà nước tác động lên thị
trường. Đối với thị trường hàng hóa, khi nhu cầu về một loại hàng nào đó vượt
cung làm cho giá cả tăng cao, Nhà nước có thể điều tiết bằng cách đưa dự trữ
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
loại hàng đó ra thị trường để cân đối cung cầu và trên cơ sở đó bình ổn giá cả và
hạn chế khả năng kéo theo tăng giá đồng loạt. Trong trường hợp cung của một
loại hàng hóa nào đó vượt quá nhu cầu xã hội làm cho giá mặt hàng đó giảm
mạnh dẫn đến nguy cơ thiệt hại về lợi ích kinh tế cho người sản xuất kinh doanh
và dẫn đến xu hướng dịch chuyển vốn sang các ngành nghề khác thì lúc này Nhà
nước sẽ tác động lên thị trường và giá cả bằng việc mua hàng hóa đó với một giá
thích hợp hoặc vận dụng hình thức trợ giá để đảm bảo lợi ích của người sản xuất
kinh doanh cũng như lợi ích của xã hội trong quá trình phát triển kinh tế. Sự
điều tiết của Nhà nước lên thị trường hàng hóa được thực hiện bằng việc bố trí
các khoản chi ngân sách Nhà nước về dự trữ tài chính, dự trữ Nhà nước trong
ngân sách hàng năm bao gồm dự trữ bằng tiền, vàng, ngoại tệ, các loại hàng hoá
vật tư chiến lược.
Bên cạnh thị trường hàng hóa, Nhà nước còn tác động đến thị trường tiền
tệ, thị trường vốn bằng việc vận dụng đồng bộ các công cụ tài chính, giá cả tiền
tệ trong đó ngân sách Nhà nước là một trong những công cụ quan trọng. Ngân
sách Nhà nước điều tiết thị trường tài chính bằng các biện pháp tích cực như :
khai thác các nguồn vay trong nước bằng phát hành các loại trái phiếu ( công
trái, chứng chỉ đầu tư, tín phiếu kho bạc ), tranh thủ các khoản vay vốn viện trợ
của nước ngoài bằng các biện pháp thu hút và gọi vốn tham gia trên thị trường
chứng khoán với tư cách là người vừa phát hành đồng thời với cả tư cách người
mua chứng khoán. Thực hiện các biện pháp này, ngân sách Nhà nước tác động
tích cực vào mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trên thị trường tài chính đồng
thời vừa tạo nguồn tài chính cho ngân sách lại vừa thúc đẩy giao lưu các nguồn
vốn góp phần điều tiết lượng tiền trong lưu thông, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát .
e. Điều tiết thu nhập dân cư góp phần thực hiện công bằng xã hội:
Nền kinh tế thị trường với những khuyết tật của nó sẽ dẫn đến xã hội bị
phân hóa về thu nhập. Để giảm bớt sự chênh lệch và điều tiết thu nhập giữa các
tầng lớp giai cấp trong xã hội cần phải có “bàn tay hữu hình” của Nhà nước tác
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
động bằng sử dụng ngân sách Nhà nước. Khả năng của ngân sách Nhà nước
trong tái phân phối thu nhập tùy thuộc vào các yếu tố khác trong nền kinh tế như
hệ thống lương, hệ thống giá và hệ thống luật. Song trong nền kinh tế thị trường,
ngân sách Nhà nước ảnh hưởng đến phân phối thu nhập với phạm vi rộng lớn ở
cả hai mặt : thu và chi của ngân sách. Về phần thu thông qua các sắc thuế thu
nhập, thuế gián thu hoặc thuế đánh theo luỹ tiến, ngân sách Nhà nước huy động
sự đóng góp của những thành phần kinh tế, tổ chức kinh tế và các cá nhân nhằm
điều chỉnh một phần thu nhập của các tầng lớp dân cư. Như vậy thuế thật sự trở
thành công cụ quan trọng của Nhà nước để điều tiết và phân phối lại sự chênh
lệch giữa các loại thu nhập của xã hội. Tuy nhiên, công cụ thuế có những giới
hạn nhất định trong việc cải tiến phân phối thu nhập, nó không thể làm biến
chuyển căn bản thu nhập của những tầng lớp có thu nhập thấp và rất thấp .
Bên cạnh công cụ thuế thì các giải pháp chi của ngân sách nhà nước dưới
hình thức chi trợ cấp và các khoản chi phúc lợi cho các chương trình phát triễn
xã hội : phòng chống dịch bệnh, bảo vệ môi sinh, phổ cập giáo dục tiểu học, dân
số và kế hoạch hóa gia đình cho các đối tượng: người nghèo, trẻ em mồ côi,
khuyết tật, người già không nơi nương tựa, diện chính sách. Là nguồn bổ sung
thu nhập của một số tầng lớp dân cư trong xã hội, nó góp phần tăng cường tính
ổn định trong đời sống kinh tế - xã hội .
3. Hệ thống ngân sách Nhà nước.
3.1 Khái niệm :
Hệ thống ngân sách Nhà nước là tổng thể ngân sách của các cấp chính
quyền Nhà nước. Hệ thống ngân sách chịu tác động bởi nhiều yếu tố mà trước
hết đó là chế độ xã hội của một Nhà nước và phân chia lãnh thổ hành chính. ở
nước ta với mô hình Nhà nước thống nhất nên hệ thống ngân sách được tổ chức
theo hai cấp : Ngân sách Trung Ương và Ngân sách Địa phương, trong đó ngân
sách Địa phương bao gồm các cấp ngân sách sau : Ngân sách Tỉnh - Thành phố ;
ngân sách Quận - Huyện và ngân sách Xã - Phường.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3.2 Hệ thống ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
Hệ thống ngân sách nhà Nước Việt Nam là một thể thống nhất, giữa các
cấp ngân sách gắn với nhau bởi hệ thống các quan hệ tài chính. Ngân sách
Trung Ương với ngân sách Địa phương và giữa các cấp trong ngân sách Địa
phương có mối quan hệ với nhau thông qua các khoản trợ cấp theo mục tiêu.
Các khoản trợ cấp này bảo đảm cân đối ngân sách Địa phương, giúp địa phương
khắc phục những khó khăn do điều kiện lịch sử, điều kiện tự nhiên xã hội tạo ra.
Cơ cấu hệ thống ngân sách Nhà nước được mô tả theo sơ đồ sau:
Sơ đồ hệ thống ngân sách Nhà nước
Quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc :
+ Ngân sách mỗi cấp được phân định nhiệm vụ chi và nguồn thu cụ thể.
+ Thực hiện cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới
để đảm bảo tính công bằng và yêu cầu phát triển cân đối giữa các vùng, các địa
phương . Số bổ sung này được coi là khoản thu của ngân sách cấp dưới.
9
Ngân sách Trung ương Ngân sách địa phương
Ngân sách cấp tỉnh
(Thành phố thuộc trung ương)
Ngân sách thành phố Ngân sách Ngân
sách
thuộc tỉnh cấp thị xã cấp
huyện
Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn
Hệ thống Ngân sách nhà nước
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan
quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình
thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm
vụ đó.
+ Ngoài cơ chế bổ sung nguồn thu và cơ chế uỷ quyền không được dùng
ngân sách của cấp này để chi cho các nhiệm vụ của cấp khác, trừ trường hợp đặc
biệt theo qui định của Chính phủ .
Trong hệ thống ngân sách, mỗi cấp ngân sách đều có vị trí, vai trò và
nhiệm vụ xác định, có nguồn thu và các khoản chi xác định. Điều này phụ thuộc
vào phân định phạm vi ảnh hưởng quyền hạn và trách nhiệm của các cấp chính
quyền Nhà nước .
II. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của ngân sách xã
1. Khái niệm, đặc điểm của ngân sách xã
1.1 Khái niệm ngân sách xã
Xét về hình thức biểu hiện bề ngòai có thể nhận thấy : ngân sách xã là
toàn bộ các khoản thu chi trong dự toán đã được Hội đồng nhân dân xã quyết
định và thực hiện trong một năm nhằm đảm bảo nguồn tài chính cho chính
quyền Nhà nước cấp xã trong quá trình thực hiện các chức năng nhiệm vụ về
quản lý kinh tế, xã hội trên địa bàn.
Xét về bản chất : Ngân sách xã là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa chính
quyền Nhà nước cấp xã với các chủ thể khác phát sinh trong quá trình phân phối
các nguồn tài chính nhằm tạo lập quỹ ngân sách xã; trên cơ sở đó mà đáp ứng
cho các nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ chủ chính
quyền Nhà nước cấp xã.
1.2 Đặc điểm của ngân sách xã
Ngân sách xã là một cấp trong hệ thống ngân sách Nhà nước nên nó cũng
mang đầy đủ những đặc điểm chung của ngân sách Nhà nước; thêm vào đó là
đặc điểm riêng tạo nên sự khác biệt căn bản với các cấp ngân sách khác.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Đặc điểm chung
- Hoạt động của ngân sách xã luôn gắn chặt với hoạt động của chính
quyền Nhà nước cấp xã
- Quản lý ngân sách xã nhất thiết phải tuân theo một chu trình chặt chẽ và
khoa hoc.
- Phần lớn các khoản thu, chi của ngân sách xã được thực hiện theo
phương thức phân phối lại và không hoàn trả một cách trực tiếp.
+ Đặc điểm riêng
Hiện nay ngân sách Việt Nam bao gồm 4 cấp. Tuy chức năng, nhiệm vụ
giống nhau, phạm vi và qui mô hoạt động có khác nhau nhưng ngân sách xã có
đặc điểm riêng; đó là : ngân sách xã vừa là một cấp ngân sách cơ sở trong hệ
thống ngân sách nhà nước, vừa là một đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí. Đặc
điểm riêng này có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thiết lập các chính sách trong
quản lý ngân sách xã
2. Vai trò của ngân sách xã
- Ngân sách xã là nguồn tài chính chủ yếu để đảm bảo cho chính quyền
Nhà nước cấp xã thực thi các nhiệm vụ kinh tế xã hội trên địa bàn. Để thực hiện
các chức năng nhiệm vụ về quản lý kinh tế, xã hội trên địa bàn theo sự phân cấp
trong hệ thống chính quyền Nhà nước, chính quyền xã cần phải có được nguồn
tài chính đủ lớn. Trong số các quỹ tiền tệ mà chính quyền xã được quyền quản
lý và sử dụng, thì ngân sách xã được coi là quỹ tiền tệ có qui mô lớn nhất, chỉ
được phép sử dụng cho việc thực hiện các nhiệm vụ mà chính quyền xã phải
đảm nhận. Do vậy khả năng đảm bảo nguồn tài chính từ ngân sách xã như thế
nào sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế,
xã hội của chính quyền Nhà nước cấp xã.
- Ngân sách xã là công cụ tài chính quan trọng để giúp chính quyền Nhà
nước các xã khai thác thế mạnh về kinh tế, xã hội trên địa bàn. Cùng với quá
trình hoàn thiện luật ngân sách Nhà nước, cơ chế phân cấp về quản lý kinh tế -xã
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hội cho chính quyền xã càng ngày càng nhiều hơn, tạo thế chủ động cho các xã
trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Trong quá
trình đó ngân sách xã đóng góp vai trò không nhỏ thông qua việc tạo lập các
nguồn tài chính cần thiết để chính quyền xã đầu tư cho khai thác các thế mạnh
về kinh tế, xã hội nông thôn và từng bước tạo đà cất cánh cho kinh tế xã những
năm sau này
- Ngân sách xã là công cụ tài chính giúp chính quyền Nhà nước cấp trên
giám sát hoạt động của chính quyền xã.Với một hệ thống tổ chức nhà nước
thống nhất, đồng thời lại có sự phân công, phân cấp trách nhiệm, quyền hạn
quản lý kinh tế, xã hội cho chính quyền cấp dưới, thì đòi hỏi phải có sự giám sát
thường xuyên của cơ quan Nhà nước chính quyền Nhà nước cấp trên đối với
hoạt động của các cơ quan chính quyền Nhà nước cấp dưới Ngân sách xã trở
thành một trong những công cụ hữu hiệu cho chính quyền Nhà nước cấp trên
thực hiện quyền giám sát của mình đối với hoạt động của chính quyền Nhà nước
cấp dưới: Bởi hầu hết các xã đều có một phần nguồn thu được tạo lập nhà số chi
bổ sung từ ngân sách cấp trên. Muốn nhận được số chi bổ sung của ngân sách
cấp trên để tạo nguồn thu cho mình, chính quyền xã buộc phải giải trình toàn bộ
cơ cấu thu, chi theo dự tóan và chỉ rõ số thiếu hụt; đồng thời phải cam kết thực
hiện số thu bổ sung theo đúng quy địnhcủa quản lý ngân sách Nhà nước hiện
hành. Nhờ đó sự kiểm soát của chính quyền Nhà nước cấp trên đối với hoạt
động của chính quyền cấp xã trở nên vô cùng dễ dàng.
III. Nội dung thu – chi ngân sách xã
1. Thu ngân sách xã
Thu ngân sách xã được hình thành từ ba nguồn lớn sau:
- Từ các khoản thu phát sinh trên địa bàn xã; và ngân sách xã được hưởng
100% số thu từ các khoản này (người ta gọi tắt là : các khoản thu ngân sách xã
được hưởng 100%)
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Từ các khoản thu phát sinh trên địa bàn xã; nhưng ngân sách xã chỉ được
hưởng 1 phần và được tính theo tỷ lệ phần trăm (%) nào đó. Tỷ lệ này thường có
sự thay đổi tùy theo tình hình kinh tế, xã hội và yêu cầu quản lý ngân sách Nhà
nước (người ta thường gọi tắt là các khoản thu điều tiết, hay các khoản thu phân
chia theo tỷ lệ % với ngân sách cấp trên)
- Từ các khoản thu được hình thành từ số chi của ngân sách cấp trên để
đảm bảo cho sự cân đối của ngân sách xã (người ta thường gọi là thu bổ sung từ
ngân sách cấp trên hoặc thu trựo cấp).
Theo luật ngân sách Nhà nước năm 2002 các khoản thu dành cho ngân
sách xã được hưởng bao gồm những khoản gì là tùy thuộc vào quyết định của
Hội đồng nhân dân tỉnh. Tuy vậy Bộ Tài chính cũng khuyến cáo có thể đưa các
khoản thu sau vào danh mục dành cho ngân sách xã được hưởng: cụ thể:
1.1 Các khoản thu ngân sách xã được hưởng 100%.
- Các khoản phí, lệ phí thu vào ngân sách xã theo quy định
- Thu từ các hoạt động sự nghiệp của xã phần nộp vào ngân sách Nhà
nước theo chế độ quy định.
- Thu đấu thầu, thu khoán theo mùa vụ từ quỹ đất công ích và hoa lợi
công sản khác theo quy địnhcủa pháp luật do xã quản lý
- Các khoản thu huy động đóng góp của các tổ chức cá nhân gồm: các
khoản đóng góp theo pháp luật quy định, các khoản đóng góp theo nguyên tắc tự
nguyện để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng do Hội đồng nhân xã quyết định đưa
vào ngân sách xã quản lý và các khoản đóng góp tự nguyện khác.
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài trực
tiếp cho ngân sách xã.
- Thu kết dư ngân sách năm trước
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
1.2 Các khoản thu ngân sách xã được hưởng theo tỷ lệ điều tiết
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp từ hộ gia đình
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất
- Thuế nhà, đất
- Tiền cấp quyền sử dụng đất ( đối với xã, thị trấn)
- Lệ phí trước bạ nhà, đất
Các khoản thu, tỷ lệ ngân sách xã được hưởng tối thiểu 70%. Căn cứ vào
nguồn thu và nhiệm vụ chi của xã, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thể quyết định
tỷ lệ ngân sách xã được hưởng cao hơn đến tối đa 100%.
Ngoài các khoản thu phân chia theo quy định trên, ngân sách xã còn được
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh cấp bổ sung thêm các nguồn thu phân chia sau khi
các khoản thuế, phí, lệ phí phân chia theo luật ngân sách Nhà nước đã dành
100% cho các xã và các khoản thu ngân sách xã được hưởng 100% nhưng vẫn
chưa cân đối được nhiệm vụ chi.
Tỷ lệ % phân chia các khoản thu trên đây cho ngân sách xã do Ủy ban
nhân dân tỉnh quy định ổn định từ 3 đến 5 năm phù hợp với tình hình ngân sách
địa phương. Để giảm bớt khối lượng nghiệp vụ , khuyến khích tăng thu có thể
giao chung cho các xã cùng một tỷ lệ.
1.3 Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên
Trong hệ thống ngân sách Nhà nước các cấp ngân sách có mối quan hệ
hữu cơ với nhau và mỗi cấp phải tự cân đối thu chi ngân sách. Tuy nhiên trong
những hoàn cảnh cụ thể nếu cấp ngân sách nào không tự cân đối được thì ngân
sách cấp trên có trách nhiệm cấp bổ sung nguồn vốn cho cấp ngân sách đó để
đảm bảo cân đối thu chi ngay từ khâu xây dựng dự toán. Từ đó hình thành khoản
thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. trong điều kiện hiện
nay ở nước ta phần lớn ngân sách cấp xã chưa tự cân đối được thu chi, nên ngân
sách cấp trên phải cấp bổ sung và hình thành nguồn thu thứ ba cho ngân sách xã.
Cơ chế xác lập số thu bổ sung từ ngân sách cấp trên được qui định như sau:
- Thu bổ sung để cân đối ngân sách được xác định trên cơ sở chênh lệch
giữa dự toán chi được giao và dự toán thu từ các nguồn thu được phân cấp. Số
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bổ sung này được xác định từ năm đầu của thời kỳ ổn định và được giao ổn định
từ 3 đến 5 năm
- Thu bổ sung có mục tiêu là các khoản thu bổ sung theo từng năm để hỗ
trợ xã thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể
2. Chi ngân sách xã
Có rất nhiều nội dung chi mà ngân sách xã phải đảm bảo, song khi nhìn
nhận một cách khái quát thì chi ngân sách xã bao gồm 2 nhóm lớn là chi thường
xuyên và chi đầu tư phát triển.
2.1 Chi thường xuyên
- Chi cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước ở xã bao gồm
+ Tiền lương, tiền công cho cán bộ công chức cấp xã
+ Sinh hoạt phí đại biểu HĐND
+ Các khoản phụ cấp khác theo quy định của Nhà nước
+ Chi về phúc lợi tập thể, y tế, vệ sinh
+ Công tác phí
+ Chi về hoạt động, văn phòng như: tiền điện, tiền nước, vật liệu văn
phòng, bưu phí, điện thoại, hội nghị, chi tiếp tân.
+ Chi mua sắm sữa chữa thường xuyên trụ sở, phương tiện làm việc
+ Chi khác
- Kinh phí hoạt động của cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam của xã
- Kinh phí hoạt động của tổ chức chính trị xã hội của xã sau khi trừ các
khoản thu theo điều lệ và các khoản thu khác ( nếu có)
- Đóng bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) cho cán bộ xã và
các đối tượng khác theo chế độ hiện hành.
- Chi công tác dân quân tự vệ, trật tự an toàn xã hội:
+ Huấn luyện dân quân tự vệ, các khoản phụ cấp huy động dân quân tự vệ
và các khoản chi khác về dân quân tự vệ thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách xã
theo quy định của pháp lệnh dân quân tự vệ
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Đăng ký nghĩa vụ quân sự, công tác nghĩa vụ quân sự khác thuộc nhiệm
vụ chi của ngân sách xã theo quy định của Pháp lệnh dân quân tự vệ
+ Tuyên truyền vận độngvà tổ chức phong trào bảo vệ an ninh, trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn xã.
+ Các khoản chi khác theo chế độ quy định
- Chi cho công tác xã hội và hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thao
do xã quản lý
+ Trợ cấp hàng tháng cho cán bộ xã nghỉ việc theo chế độ hiện hành, chi
thăm hỏi gia đình chính sách, cứu tế xã hội và công tác xã hội khác.
+ Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, truyền thông do xã tổ chức.
- Chi sự nghiệp giáo dục : Hỗ trợ các lớp bổ túc văn hóa, trợ cấp nhà trẻ,
lớp mẫu giáo, kể cả trợ cấp cho giáo viên mẫu giáo và cô nuôi dạy trẻ do xã, thị
trấn quản lý.
- Chi sự nghiệp y tế : Hỗ trợ chi thường xuyên và mua sắm trang thiết bị
phục vụ cho khám, chữa bệnh của trạm y tế xã.
- Chi sữa chữa, cải tạo các công trình phúc lợi các công trình hạ tầng cơ
sở do xã quản lý như : trường học, trạm y tế, đài tưởng niệm, cơ sơ thể dục thể
thao, cầu, đường giao thông, công trình cấp thóat nước công cộng riêng đối với
thị trấn còn có nhiệm vụ chi quản lý , sữa chữa cải tạo vĩa hè, đường phố nội thị,
đèn chiếu sáng, công viên, cây xanh (đối với phường do ngân sách cấp trên chi).
- Hỗ trợ khuyến khích phát triển các sự nghiệp kinh tế như khuyến nông,
khuyến ngư, khuyến lâm, nuôi dưỡng phát triển nguồn thu ngân sách xã.
- Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật
Căn cứ vào định mức chế độ, tiêu chuẩn của Nhà nước, HĐND tỉnh quy
định cụ thể mức chi thường xuyên cho từng công việc phù hợp với tình hình đặc
điểm và khả năng ngân sách địa phương
2.2 Chi đầu tư phát triển
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhóm chi đầu tư phát triển (ĐTPT) là tập hợp các nội dung chi có liên
quan đến việc cải tạo, nâng cấp hoặc làm mới các công trình thuộc hệ thống cơ
sở vật chất kỷ thuật của xã như : đường giao thông, kênh mương tưới tiêu nước,
trường học, trạm xá, hệ thống truyền tải và cung cấp điện năng Do vậy các
khoản chi ĐTPT thể hiện rõ mục đích tích lũy nên cần phải ưu tiên đầu tư vốn
cho nó nhiều hơn.
Chi ĐTPT của ngân sách xã hiện nay gồm:
- Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của xã
hội của xã không có khả năng thu hồi vốn theo phân cấp của cấp tỉnh
- Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của xã
hội của xã từ nguồn huy động đóng góp của các tổ chức cá nhân cho từng dự án
nhất định theo qui định pháp luật, do Hội đồng nhân dân (HĐND) xã quyết định
đưa vào ngân sách xã quản lý.
- Các khoản chi ĐTPT khác theo quy định của pháp luật.
IV. Chu trình ngân sách xã
1. Khái niệm về chu trình ngân sách xã
Khi xem xét trên giác độ biểu hiện bên ngoại thì ngân sách Nhà nước
được nhìn nhận như một bảng dự toán thu chi bằng tiền của Nhà nước trong một
năm nhất định. Qua đó cho thấy, hoạt động của ngân sách Nhà nước luôn gắn
với từng năm cụ thể gọi là năm ngân sách (hay năm tài chính, năm tài khóa).
Năm ngân sách được hiểu là khoảng thời gian mà hoạt động thu chi ngân
sách Nhà nước được thực hiện theo dự toán đã được các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xét duyệt. Năm ngân sách ở nước ta được tính từ 0h00 ngày 01/01
đến 24h00 ngày 31/12 năm dương lịch.
Dự tóan ngân sách gắn chặt với các năm ngân sách nên khi năm ngân sách
này kết thúc cũng đồng thời là thời gian khởi đầu cho một năm ngân sách mới.
Do vậy, hoạt động ngân sách có tính chu kỳ lặp đi lặp lại hình thành nên chu
trình ngân sách liên tục.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chu trình ngân sách là khoảng thời gian cần thiết để tổ chức quản lý các
hoạt động của ngân sách Nhà nước theo một trình tự khoa học nhất định. Trình
tự các bước của các chu trình ngân sách kế tiếp nhau luôn có sự lặp lại nhưng ở
mức độ cao hơn.
Trong một chu trình ngân sách phải bao gồm 3 khâu : Lập dự toán ngân
sách Nhà nước, chấp hành và quyết tóan ngân sách Nhà nước.
Để thực hiện được 3 khâu trong một chu trình ngân sách Nhà nước rất cần
phải có thời gian hợp lý cho mỗi khâu đó. Do đó, độ dài về thời gian của một
chu trình ngân sách Nhà nước có liên quan đến 3 năm ngân sách kế tiếp nhau.
Trong đó thời gian của khâu chấp hành ngân sách trùng với thời gian của năm
ngân sách, thời gian của khâu lập dự toán và quyết tóan ngân sách lại phải được
tiến hành ở năm ngân sách trước và năm ngân sách sau. Hay nói cách khác thời
gian của một chu trình ngân sách kéo dài hơn nhiều so với thời gian của một
năm ngân sách
Tham gia vào các hoạt động trong một chu trình ngân sách ngân sách có
rất nhiều các cơ quan đơn vị khác nhau để thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau
trong suốt chu trình ngân sách đó. Cụ thể là:
- Cơ quan quyền lực Nhà nước chịu trách nhiệm quyết định dự toán, giám
sát quá trình chấp hành và phê chuẩn quyết tóan ngân sách Nhà nước.
- Chính phủ, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp chịu trách nhiệm trực tiếp
quản lý điều hành hoạt động của ngân sách Nhà nước trên cơ sở dự toán ngân
sách Nhà nước đã được cơ quan quyền lực Nhà nước thông qua và các văn bản
pháp quy khác về quản lý ngân sách Nhà nước đang có hiệu lực thi hành.
- Các cơ quan chức năng ( tài chính, Thuế. Kho bạc ) được giao nhiệm
vụ trực tiếp quản lý từng mặt hoạt động của ngân sách Nhà nước có trách nhiệm
thực thi tốt các việc đã được phân công trong quản lý ngân sách Nhà nước.
- Các đơn vị các ngànhtrong toàn bộ nền kinh tế quốc dân chịu trách
nhiệm trước Chính phủ hoặc UBND các cấp về nghĩa vụ thu nộp, quản lý, sử
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dụng các khoản vốn ngân sách Nhà nước và các yêu cầu cụ thể trong quá trình
quản lý khi các cơ quan chức năng Nhà nước yêu cầu.
2. Vị trí mỗi khâu trong chu trình ngân sách xã
2.1 Lập dự tóan ngân sách xã
Lập dự toán ngân sách xã được coi là khâu mở đầu của một chu trình
ngân sách. Nó xác định các chỉ tiêu thu chi ngân sách cần phải thực hiện cho
năm ngân sách kế tiếp, đồng thời xác lập các biện pháp có thể áp dụng nhằm đạt
được các chỉ tiêu thu chi đã dự kiến. Lập dự toán ngân sách xã chỉ được coi là
hoàn thành khi dự toán đó được HĐND xã thảo luận và thông qua. Do vậy thời
gian tiến hành lập dự toán ngân sách cho một chu trình ngân sách kế tiếp phải
được thực thi ngay trong thời gian diễn ra chấp hành ngân sách của chu trình
ngân sách hện tại.
Trong 3 khâu của chu trình ngân sách thì lập dự toán được coi là khâu mở
đầu và có tầm quan trọngđặc biệt đối với chu trình ngân sách xã vì:
- Nó xác định và dự đóan tất cả các khả năng thu, nhu cầu chi dự kiến có
thể phát sinh trong năm kế hoạch để rồi cân nhắc lựa chọn các phương án phân bổ
ngân sách nhằm thiết lập cân đối ngân sách một cách vững chắc và phản ảnh trên
các biểu mẫu dự tóan trình cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
- Quyền quyết định dự toán ngân sách xã thuộc về thẩm quyền của HĐND
xã sau đó giao lại cho UBND tổ chức chấp hành ngân sách xã. Nên những nội
dung thu, chi nào không được ghi vào trong dự toán hoặc không được HĐND
xét duyệt và thông qua thì không thể có cơ hội phát sinh.
- Các chỉ tiêu của dự toán thu chi ngân sách xã là một trong những căn cứ
pháp lý quan trọng để tổ chức chấp hành và quyết toán ngân sách xã. Đặc biệt
đối với những khoản chi ngân sách xã thì các chỉ tiêu trong dự tóan chi ngân sách
là điều kiện quan trọng hàng đầu để Kho bạc Nhà nước thực hiện kiểm soát chi.
2.2 Chấp hành ngân sách xã
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các chỉ tiêu trong dự toán ngân sách xã đã được HĐND xã thông qua bắt
buộc UBND xã và các ban ngànhcó liên quan phải triển khai và biến chúng
thành hiện thực, không được tự ý điều chỉnh. Nhằm nhấn mạnh nghĩa vụ đó của
UBND và các ban ngành có liên quan đến thu, chi ngân sách xã nên người ta
dùng thuật ngữ “chấp hành ngân sách xã ”.Việc chấp hành ngân sách xã đạt
được mức độ nào là một trong những căn cứ để đanhs giá năng lực của các
thành viên UBND, năng lực của trưởng (hoặc phó) các ban ngành đoàn thể có
liên quan đến quản lý ngân sách xã. Sự bộc lộ năng lực trên phương diện này là
dễ so sánh hơn ở các phương diện khác.
Chấp hành ngân sách xã là khâu thứ hai trong chu trình ngân sách xã. Tại
đây phải tổ chức quản lý sao cho các chỉ tiêu thu chi đã ghi trong dự toán ngân
sách dần dần trở thành hiện thực. Trong khi các số liệu của các chỉ tiêu trong dự
toán mới chỉ là dự đoán, nhưng lại bắt buộc phải thực hiện nên kết quả ra sau thì
tùy thuộc vào chất lượng của quá trình chấp hành ngân sách mà UBND và các
ban ngành đoàn thể có trách nhiệm tổ chức. Do đó người ta coi chấp hành ngân
sách là khâu có ý nghĩa quyết định đối với chu trình ngân sách xã.
2.3 Quyết toán ngân sách xã
Quyết toán ngân sách xã là khâu cuối cùng của chu trình quản lý ngân
sách xã. Nó nhằm tổng hợp phân tích đánh giá lại toàn bộ tình hình chấp hành
ngân sách xã một năm đã qua, trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm
cần thiết cho công tác quản lý ngân sách xã ở những chu trình ngân sách kế tiếp.
Các tài liệu quyết toán ngân sách xã do Ban Tài chính lập phải đảm bảo
cân đối giữa tổng thu với tổng chi có giải trình chi tiết cho các số liệu được ghi
trong quyết toán theo đúng chế độ kế toán ngân sách xã đã quy định. Hồ sơ
quyết tóan ngân sách xã do UBND xã trình HĐND xã xét duyệt và phê chuẩn.
HĐND xã có trách nhiệm thẩm định lại toàn bộ các tài liệu trong hồ sơ quyết
toán ngân sách xã và khẳng định tính hợp lệ, hợp của nó để đi đến phê chuẩn
quyết toán ngân sách xã. Chỉ sau khi HĐND xã đã biểu quyết phê chuẩn quyết
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
toán ngân sách xã của năm đã qua thì các công việc của chu trình ngân sách xã
năm trước mới được kết thúc.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGÂN SÁCH CẤP
XÃ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TRÀ VINH NĂM 2003-2005
I. Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Trà Vinh
1. Vị trí địa lý
Tháng 6 năm 1992, tỉnh Trà Vinh được tách ra từ tỉnh Cửu Long, Trà Vinh
nằm ở phía Đông Nam đồng bằng sông Cửu Long giữa 2 con sông lớn là sông Cổ
Chiên và sông Hậu. Phía Bắc là Bến Tre được ngăn cách bởi sông Cổ Chiên (một
nhánh của sông Tiền); phía Tây Nam giáp với Sóc Trăng và Cần Thơ qua ranh
giới sông Hậu; phía Tây giáp Vĩnh Long; phía Đông là Biển Đông.
Trà Vinh nối với thị xã Vĩnh Long bằng quốc lộ 53 - tuyến giao thông đối
ngoại duy nhất nối tỉnh với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam.
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ở vị trí nằm kẹp giữa 2 sông Cổ Chiên, Hậu Giang và một mặt giáp biển
Đông (dài 65 km), nơi đây có 2 cửa sông: Cung Hầu và Định An. Đây là lợi thế
của tỉnh mà các tỉnh khác không có được. Tuy nhiên do nằm ở vị trí không phải
trên đường giao lưu của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nên đây là điểm bất
lợi đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh.
2. Về kinh tế - xã hội
Tỉnh Trà Vinh có diện tích sản xuất nông nghiệp lớn chiếm trong tổng
diện tích tự nhiên, vừa có diện tích lúa, vừa có diện tích nuôi trồng thủy sản và
vườn cây ăn trái. Là tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khơmer, nền kinh tế địa
phương đang ở điểm xuất phát thấp, thu nhập bình quân đầu người đến cuối năm
2005 đạt 6,3 triệu đồng ( tương đương 400USD/người/năm ), là tỉnh có thu nhập
thấp so với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Toàn tỉnh có 7 huyện và 1 thị xã, có 102 xã - phường - thị trấn với 736 ấp khóm
Tổng diện tích tự nhiên là 221.515,03 ha
Trong đó có:
- Đất nông nghiệp: 180.004,31 ha
- Đất lâm nghiệp : 6.080,20 ha
- Đất chuyên dùng: 9.936,22 ha
- Đất ở : 3.251,36 ha
- Đất chưa sử dụng: 22.242,94 ha
Về dân số toàn tỉnh có 1.067.981 người; trong đó dân tộc Khmer chiếm
23,33% dân số toàn tỉnh. Nhìn chung dân số Trà Vinh phân bố không đồng đều
giữa các khu vực hành chánh và các vùng trong tỉnh. Do cơ cấu dân số trẻ và tốc
độ dân số cao của những năm trước đây nên lực lượng lao động đã gia tăng
nhanh chóng; Bình quân đến 2005 có khoảng 85% dân số trong độ tuổi lao động
hàng năm tham gia hoạt động kinh tế; trong đó lao động nông nghiệp chiếm trên
80% trong tổng nguồn lao động
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Năm 2005, ước tổng sản phẩm trong tỉnh đạt 4.500.731 triệu đồng ( giá so
sánh 1994), tăng 40,76 % so năm 2003. Tốc độ tăng bình quân trong 3 năm
2003 - 2005 là 9,09%, thu nhập bình quân đầu người năm 2005 so năm 2003
tăng 40,70% hay tăng 1,35 triệu đồng, nhìn chung so với các tỉnh trong khu vực,
tỉnh có tốc độ tăng trưởng cao nhưng thu nhập bình quân đầu người không cao
do dân số của tỉnh đông.
Xuất phát điểm là một tỉnh chuyên về nông lâm và thủy sản, giá trị tăng
thêm của ngành nông lâm thủy sản năm 2005 đạt 2.842.131 triệu đồng, trong đó
giá trị ngành nông nghiệp đạt 2.2079.703 triệu đồng, so năm 2000 tăng 7,03%
và chiếm tỷ trọng 40,83% trong giá trị tổng sản phẩm, giá trị tăng thêm chung
của ngành nông nghiệp tăng, tuy nhiên nêu chia theo từng loại cây trồng thì giá
trị tăng thêm của cây luá giảm, cây hoa màu tăng do chủ trương chuyển dịch cơ
cấu, cây trồng vật nuôi của tỉnh.
Thực hiện các chính sách nhằm phát triển ngành công nghiệp, nhất là
công nghiệp chế biến, tỉnh đã xác định công nghiệp chế biến thủy sản là ngành
mũi nhọn, trong 5 năm qua, giá trị sản xuất cũng như giá trị tăng thêm của
ngành công nghiệp chế biến không ngừng tăng lên, năm 2005 so năm 2000, giá
trị tăng thêm tăng 96,09% hay tăng 171.091 triệu đồng và chiếm tỷ trọng
11,78% trong GDP, bình quân giai đoạn 2001-2005 tăng 14,42%. Ngoài ngành
chế biến thủy sản, từ nguồn kinh phí của trung ương, tỉnh đã xây dựng và đưa
vào hoạt động nhà máy chế biến đường tại huyện Trà Cú, là một huyện vùng
sâu, vùng xa của tỉnh, nơi có nhiều đồng bào dân tộc khmer sinh sống, với chiến
lược nhằm giải quyết việc làm cho nông dân, bao tiêu sản phẩm, người dân
không còn khó khăn trong khâu tìm kiếm thị trường tiêu thụ vì đặc điểm của đất
vùng này chỉ thích hợp cho việc trồng miá. Mặc dù hiệu quả kinh tế từ ngành
này không đạt cao, do nhà máy hoạt động theo mùa vụ, nhưng đã góp phần
trong việc giải quyết việc làm và các vấn đề về xã hội, sản lượng đường chế biến
trong những năm 2001 đến năm 2005 giảm so năm 2000, bình quân hàng năm
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giảm trên 2000 tấn (giảm 9,33%), nguyên nhân do chi phí lên cao, giá miá thấp,
người dân không có lãi nên thu hẹp diện tích trồng miá.
Khu vực thương nghiệp và dịch vụ trong những năm qua tăng khá, giá trị
tăng thêm của khu vực này năm 2005 so năm 2000 tăng 92,18% hay tăng
576.890 triệu đồng và chiếm tỷ trọng 23,79% trong GDP, bình quân giai đoạn
2001-2005 tăng 13,96%.
Xét theo các thành phần kinh tế thì thành phần kinh tế nhà nước đóng góp
vào giá trị GDP với một tỷ lệ tương đối cao, thể hiện qua các năm, năm 2003
góp 16,09%, năm 2004 góp 14,44%, năm 2005 góp 14,00%, sở dĩ năm 2004
mức đóng góp giảm là do một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh hiệu quả, phải
giải thể. Năm 2005, dự báo mức độ đóng góp cũng không cao, vì một số doanh
nghiệp (công ty khảo sát thiết kế, công ty sách thiết bị trường học, công ty vận
tải, công ty nước khoáng Sam vi) đã cổ phần và chuyển 100% sở hữu nhà nước
về người lao động, tuy nhiên trong thời gian qua kinh tế nhà nước luôn chiếm
vai trò chủ đạo, toàn tỉnh có 37 doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các lĩnh
vực như công nghiệp chế biến, xây dựng, giao thông vận tải, phân phối điện
nước, tài chính tín dụng, khảo sát thiết kế, công trình công cộng.
Đối với khu vực kinh tế tư nhân và cá thể mức dộ đóng góp vào GDP tăng
lên hàng năm, bình quân hàng năm mức đóng góp của kinh tế tư nhân tăng
0,53% (năm 2000 là 1,87%, năm 2005: 4,53%), mức đóng góp của kinh tế cá thể
tăng 0,24%. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: với chính sách ưu đãi về
thuế, vốn và hỗ trợ lãi suất, tỉnh thu hút các doanh nghiệp nước ngoài và liên
doanh nước ngoài đến đầu tư, năm 2005 có 5 doanh nghiệp: Công ty Đại Việt,
công ty Vạn Tỷ, công ty giày Mỹ Phong, Công ty Hoá chất Mỹ Lan, công ty
Liên doanh Hồng Việt hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến như may
xuất khẩu, chế biến tơ, xơ dừa xuất khẩu, sản xuất hoá chất, sản xuất tấm lợp.
Các doanh nghiệp đang trong bước đầu sản xuất và tìm kiếm thị trường, nên
mức độ đóng góp vào GDP không cao.
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đời sống kinh tế, xã hội ở tỉnh Trà Vinh những năm qua đang đi dần vào
ổn định và phát triển, một số lĩnh vực khá. Nhưng còn một số hạn chế như sau:
- Mức độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng. Nền kinh tế mang
tính chất nông nghiệp lạc hậu hiệu quả thấp, công nghiệp nhỏ bé, kết cấu hạ tầng
chậm phát triển, nhất là ở nông thôn.
- Tài nguyên, tiềm lực lao động chưa khai thác sử dụng đúng mức.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Thị trường tiêu thụ còn hạn hẹp và
chưa ổn định.
- Môi trường đầu tư còn yếu kém.
- Môi trường sinh thái và nguồn tài nguyên có chiều hướng giảm sút.
- Lĩnh vực văn hoá xã hội còn nhiều vấn đề lớn, bức xúc cần được giải quyết.
Vấn đề cần giải quyết đối với nền kinh tế là: yêu cầu phát triển với nhịp
độ nhanh hơn nữa, giải quyết nhân sinh, phát triển xã hội trên cơ sở giải quyết
những khó khăn về vốn đầu tư, thị trường tiêu thụ, hạ tầng yếu kém, thiếu kinh
nghiệm quản lý và trình độ công nghệ lạc hậu.
II. Tổ chức bộ máy quản lý của Sở Tài chính Trà Vinh
Sở Tài chính là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND tỉnh Trà Vinh được
thành lập theo Quyết định số 170/QĐ.UBT ngày 05 tháng 6 năm 1992 với nhiệm
vụ giúp UBND tỉnh thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về lĩnh vực ngân
sách, tài chính đầu tư, tài chính doanh nghiệp và giá cả trên địa bàn tỉnh Trà Vinh
đồng thời là bộ máy thuộc ngành tài chính chịu sự lãnh đạo của Bộ Tài chính.
1. Tổ chức bộ máy Sở Tài chính tỉnh Trà Vinh
Tổ chức bộ máy Sở Tài chính gồm : Giám đốc, 02 Phó Giám đốc và 08
phòng ban nghiệp vụ: Phòng ngân sách, Văn phòng sở, Phòng Tài chính- Hành
chính sự nghiệp, Phòng Đầu tư, Phòng Quản lý doanh nghiệp, Phòng Quản lý
giá – Công sản, Phòng Tin học – Thống kê và Ban Thanh tra tài chính làm việc
theo chế độ thủ trưởng.
25