SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG …………
----------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CHỈ ĐẠO VIỆC PHÁT HIỆN HỌC SINH VÀ BỒI DƯỠNG PHỤ ĐẠO
CÁC MƠN HỌC CHO HỌC SINH CĨ SỨC HỌC ĐUỐI ĐỂ KHƠNG
CỊN HỌC SINH YẾU - KÉM Ở TRƯỜNG THPT
Người viết: Họ và tên
Đơn vị công tác: Trường
Trang 1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Nhiệm vụ chính trị trọng tâm của trường Trung học phổ thông là giảng
dạy và giáo dục học sinh. Chất lượng giáo dục của một nhà trường được phản
ánh qua nhiều mặt, nhưng quan trọng nhất là kết quả học tập các mơn văn hóa
của học sinh, là tỉ lệ học sinh được lên lớp, tỉ lệ học sinh đậu Tốt nghiệp THPT,
tỉ lệ học sinh đậu vào các trường Đại học, Cao Đẳng...
Đảng ta đã xác định: Mục tiêu chiến lược của giáo dục là nâng cao mặt
bằng dân trí, đào tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đồng thời
phát hiện, bồi dưỡng trọng dụng nhân tài. Để thực hiện được việc đó, cơng tác
giáo dục phụ đạo học sinh yếu kém là một trong những công tác trọng yếu phải
được nhà trường quan tâm thực hiện để đào tạo nên một tập thể học sinh có mặt
bằng dân trí đạt yêu cầu, có nề nếp, có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Đây là nền
móng, cơ sở vững chắc cho việc xây dựng một thế hệ mới đáp ứng yêu cầu của
thời đại.Theo Phó Thủ tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo
Nguyễn Thiện Nhân thì: Lâu nay chúng ta chỉ thưởng cho học sinh giỏi, xuất sắc
mà quên đi các em yếu kém có tiến bộ. Phó Thủ tướng yêu cầu: “ Phải đặt vấn
đề động lực lên trên hết để đổi mới giáo dục. Làm thế nào để giáo viên có động
lực muốn Dạy, học sinh có động lực muốn Học. Tiếp đó mới là vấn đề nguồn
lực, rồi phải quản lý nguồn lực sao cho có hiệu quả”.
Để phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại và thực hiện được mục tiêu phát triển con người mà Cương lĩnh
bổ sung và phát triển năm 2011 đề ra, Đảng ta nêu quan điểm: “ Mở rộng dân
chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ
yếu và là mục tiêu của sự phát triển”. Mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội
phải hướng tới mục tiêu nhân văn cao cả là vì con người. Đây là một nhiệm vụ
hết sức nặng nề đòi hỏi các trường, nhất là đội ngũ cán bộ quản lí phải năng
động sáng tạo, nâng cao hiệu quả giáo dục, đáp ứng nhu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ
của cấp học. Giáo dục phổ thơng có một vị trí hết sức quan trọng, nó là chiếc
cầu nối cơ bản, nó là cấp học mang tính nền tảng của cả hệ thống giáo dục của
Trang 2
mỗi quốc gia. Chất lượng của giáo dục phổ thông trước tiên ảnh hưởng rất lớn
tới chất lượng giáo dục dạy nghề và đại học, sâu xa hơn, mở rộng hơn, chính nó
là nguồn gốc góp phần quan trọng quyết định chất lượng của nguồn lực lao động
của đất nước. Do vậy, cần hình thành và phát triển ở học sinh tri thức, nhân cách
con người mới xã hội chủ nghĩa, chuẩn bị đội ngũ lao động trẻ sẵn sàng xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong những năm gần đây ngành giáo dục tăng cường kỷ cương, nề nếp,
thực hiện nghiêm túc cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung cụ thể là: Nói
khơng với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích, nói khơng với vi phạm đạo
đức nhà giáo và việc ngồi nhầm lớp (cho học sinh không đạt chuẩn lên lớp).
Việc dạy thật, thi thật, khơng chạy theo thành tích thực hiện khơng đúng cách,
nhà trường khơng tìm biện pháp nâng kém cho học sinh đã đẩy nhiều học sinh
yếu kém đến tình trạng chán nản, phải bỏ học.
Trong nhà trường phổ thơng nói riêng, các nhà trường nói chung, vấn đề
phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém đang là một trong những vấn đề được các
nhà quản lý quan tâm để tìm ra những giải pháp tối ưu. Tuy nhiên, thực tế qua
nhiều năm làm cơng tác quản lý, những năm đầu, ít nhiều tơi cịn lúng túng
trong việc tìm ra các giải pháp để đề ra biện pháp tổ chức, chỉ đạo hiệu quả
công tác phụ đạo học sinh yếu kém. Sau đó, với kinh nghiệm thực tiễn, với sự
đầu tư, nghiên cứu và tinh thần trách nhiệm, tôi đã quan tâm xây dựng kế hoạch
phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém một cách cụ thể, khả thi, nhờ đó trường
THPT xxx đã đạt được những kết quả đáng mừng trong công tác này. Trong
những năm gần đây, trường chúng tôi đang từng bước khẳng định được vị thế
của mình qua chất lượng đào tạo. Hiệu qủa giáo dục của nhà trường khơng
ngừng được nâng lên qua từng năm học. Chính từ những kết quả của nhà trường
đã đạt được, chúng tôi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích cho
mình trong q trình tổ chức và chỉ đạo công tác phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu
kém. Để góp phần cùng đồng nghiệp quản lý tháo gỡ vấn đề này tôi đã chọn
nghiên cứu chuyên đề:
Trang 3
"CHỈ ĐẠO VIỆC PHÁT HIỆN HỌC SINH VÀ BỒI DƯỠNG PHỤ
ĐẠO CÁC MƠN HỌC CHO HỌC SINH CĨ SỨC HỌC ĐUỐI ĐỂ
KHƠNG CỊN HỌC SINH YẾU - KÉM Ở TRƯỜNG THPT "
Trang 4
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
CỦA ĐỀ TÀI:
Trường THPT xxx là một trong những trường đóng trên địa bàn vùng sâu .
Năm học 2011 - 2012 Trường có tổng số cán bộ, giáo viên, cơng nhân viên: 90;
Trong đó có giáo viên trực tiếp đứng lớp. Tổng số học sinh: Đội ngũ giáo viên
phần lớn còn trẻ, năng động nhưng không đồng bộ trong chuyên môn đào tạo.
1. Thuận lợi:
Việc nâng cao chất lượng đại trà và phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém ở
các trường THPT đang là vấn đề đáng quan tâm của xã hội nói chung và của
ngành giáo dục nói riêng. Thực tế chất lượng giáo dục của trường THPT xxx
những năm gần đây đã từng bước nâng lên là nhờ:
- Sự quan tâm tổ chức, chỉ đạo, giám sát việc phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu
kém của ban Giám hiệu, cụ thể là Ban chuyên môn trong trường.
- Cơ sở vật chất của nhà trường ưu tiên phục vụ tốt cho công tác phụ đạo,
ngay đầu năm học nhà trường đã xây dựng kế hoạch phụ đạo học sinh yếu kém
và được sự đồng thuận của phụ huynh học sinh, của hội đồng sư phạm. Giáo
viên tích cực tham gia giảng dạy khi được phân công.
- Đội ngũ giáo viên của trường đã có kinh nghiệm và nhiệt huyết qua những
năm giảng dạy, liên tục làm công tác phụ đạo học sinh yếu kém.
- Về phía học sinh yếu kém thì tinh thần và thái độ học tập của các em
nghiêm túc, kết quả học tập có chuyển biến tốt, các em tham dự đầy đủ các buổi
phụ đạo.
- Nhà trường có sự khen thưởng giáo viên dạy phụ đạo cũng như học sinh
yếu kém có sự tiến bộ rõ rệt qua từng học kỳ bằng tinh thần cũng như vật chất
kịp thời, đây cũng là niềm động viên, khích lệ lớn đối với giáo viên và học sinh
Trang 5
2. Khó khăn:
Trường THPT xxx là trường thuộc vùng sâu, vùng xa nhất của tỉnh Đồng
Nai (dọc theo quốc lộ 20). Chất lượng giáo dục đại trà chưa đồng đều, năm
học nào cũng vẫn tồn tại học sinh yếu kém, cá biệt. Ngun nhân chính dẫn
đến tình
trạng trên theo tơi là do:
- Về phía nhà trường, cơ sở vật chất cịn thiếu thốn, khơng đủ phịng học để
mở các lớp phụ đạo đồng thời cho cả 3 khối lớp ( khối 10 và khối 11 phải học
phụ đạo vào sáng chủ nhật). Hơn nữa việc tiếp cận phương pháp đổi mới ở một
số giáo viên còn hạn chế. Giáo viên chưa nhiệt tình trong cơng tác giảng dạy. ít
chịu nghiên cứu, học hỏi, tìm tịi để có phương pháp giảng dạy hiệu quả với
từng đối tượng học sinh. Một số giáo viên mới ra trường chưa có kinh nghiệm
giảng dạy với đối tượng học sinh yếu kém, cá biệt.
- Phụ huynh của những học sinh yếu kém phần lớn chưa thực sự quan tâm
động viên, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học của con em mình., phó
thác cho nhà trường và thầy cơ giáo (có nhiều phụ huynh đã được nhà trường và
giáo viên chủ nhiệm mời nhiều lần đến để trao đổi, bàn bạc về việc học tập của
con em mình nhưng vẫn khơng đến).
- Học sinh yếu kém phần lớn rơi vào trường hợp những học sinh ở trọ để
học, những học sinh có hồn cảnh gia đình khó khăn, các em ngồi buổi học còn
phải phụ giúp cha mẹ kiếm tiền trang trải, những học sinh có cha mẹ đi làm ăn
xa xứ hoặc cuộc sống gia đình khơng hạnh phúc nên cha mẹ không gần gũi,
quan tâm đến việc học của con em mình. Tính tự giác của học sinh trong học tập
cịn hạn chế, học sinh chưa nhận thức đúng đắn về động cơ và mục đích học tập.
Ngun do có thể là do học sinh khơng có ham thích trong học tập. Có thể do
các em bị mất kiến thức căn bản và không theo kịp bài, dẫn đến càng học càng
khơng biết gì. Một khi đã bị mất kiến thức dẫn đến khơng hiểu bài thì học sinh
Trang 6
khơng cịn hứng thú học tập, khơng có khả năng tiếp thu và trở thành học sinh
yếu kém.
- Về phía Ban Giám hiệu: Việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện cơng tác phụ đạo
học sinh yếu kém cịn thiếu sâu sát với đặc thù của từng bộ môn, chưa phát huy
được hết năng lực, nhiệt tình của giáo viên chưa tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn
đến sự yếu kém của học sinh trong học tập. Mặt khác vần đề kinh phí chi cho
cơng tác phụ đạo học sinh yếu kém cịn chưa thoả đáng đối với cơng sức của
giáo viên và sự nỗ lực, tiến bộ của học sinh. Sự hỗ trợ, quan tâm từ phía phụ
huynh học sinh cịn hạn chế.
III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lý luận:
Để thực hiện mục tiêu giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài thì khắc phục tình trạng học sinh yếu kém là một trong những
nhiệm vụ chính trị quan trọng đặt ra cho mỗi nhà trường.
Để công tác phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém ở trường THPT thực hiện
đạt hiệu quả cao thì địi hỏi người quản lý mà cụ thể ở đây là người Hiệu trưởng phải
xuất phát từ các cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn và thực trạng của đơn vị mình quản
lý để đề ra kế hoạch và hệ thống giải pháp quản lý chỉ đạo công tác phụ đạo, giúp
đỡ học sinh yếu kém một cách khoa học, sáng tạo, đạt hiệu quả.
- Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho giáo viên và học sinh trong
q trình Dạy và Học phụ đạo. Trong đó quan trọng nhất là tạo động lực và kích
thích tinh thần của giáo viên và học sinh.
- Nhằm thực hiện đúng nội dung, tinh thần của cuộc vận động “Hai không”
mà đặc biệt là nội dung “không để HS ngồi nhầm lớp”, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục, giảm dần số HS yếu, đáp ứng nhu cầu giáo dục trong giai đoạn
hiện nay. Trong thực tế giảng dạy giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng
trong phụ đạo HS yếu kém, do thiếu kinh nghiệm và thực hiện không đúng quy
Trang 7
trình, hoặc q nơn nóng muốn có ngay kết quả, nên giáo viên thường thất bại
hoặc kết quả phụ đạo không cao.
- Phụ đạo cho học sinh yếu kém là giáo viên phải bổ sung được những “lỗ
hổng” kiến thức cho học sinh (chủ yếu là những kiến thức có trong sách giáo
khoa) để giành lại những kiến thức căn bản, từ đó học sinh có thể tiếp thu được
kiến thức mới, hịa nhập, theo kịp chương trình. Giúp đỡ học sinh yếu kém học
tập có tiến bộ hơn là giáo viên phải tạo được sự hứng thú học tập ở các em.
Trong những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học ngày càng phổ biến.
Cấp học càng cao tỷ lệ học sinh bỏ học càng lớn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn
đến tình trạng học sinh bỏ học nhưng đó ngun nhân chính là các em bị mất
căn bản, khơng tiếp thu được kiến thức nên khơng thích đi học, khơng thích đến
trường.
2. Cơ sở thực tiễn:
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày càng coi trọng vai trò của giáo dục và
cũng đòi hỏi giáo dục phải đổi mới và phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng
lớn của mọi tầng lớp nhân dân về học tập và tiếp thu những kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp, rèn luyện những phẩm chất, năng lực cần thiết trong thời kỳ Cơng
nghiệp hố - Hiện đại hố đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó đặt ra
cho các trường là phải nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện trong đó có cơng
tác phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém.
Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện
pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực hiện các cuộc
vận động lớn như : "Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học và
sáng tạo", "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Qua thực hiện
các cuộc vận động này đã làm thay đổi khá nhiều về chất lượng giáo dục . Tuy
có nhiều tiến bộ nhưng chất lượng thật sự của giáo dục hiện nay ở bậc THPT
còn nhiều bất cập . Yêu cầu đặt ra cho chúng ta là phải tìm những nguyên nhân
dẫn đến học sinh học yếu kém một cách chính xác, phải nhìn thẳng vào sự thật
Trang 8
một cách khách quan .Từ đó đưa ra những giải pháp tích cực sát với thực tế để
từng bước nâng cao chất lượng giáo dục.
- Đối với trường THPT, nhiệm vụ chính trị quan trọng đặt ra cho mỗi nhà
trường là phải đào tạo được những học sinh có kiến thức phổ thông cơ bản. Làm
tốt công tác phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém sẽ nâng cao được chất lượng
giáo dục đại trà, hoàn thành được nhiệm vụ chính trị của nhà trường, cung cấp
cho đất nước, cho địa phương nguồn nhân lực phong phú. Do vậy, việc phụ đạo,
giúp đỡ học sinh yếu kém, khắc phục triệt để tình trạng học sinh yếu kém là
nhiệm vụ khơng thể thiếu đối với mỗi trường THPT. Những thành quả trong
việc nâng kém cho học sinh góp phần thực hiện thành cơng mục tiêu giáo dục
tồn diện của nhà trường phổ thông, quyết định đến chất luợng, kết quả đào tạo
của nhà trường.
3. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
3.1. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học tập yếu kém :
3.1.1.Đối với học sinh:
- Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập, chưa có quyết tâm
học tập đúng đắn.
- Học sinh mất căn bản kiến thức ngay từ lớp dưới .Nhiều học sinh đuối sức
trong học tập, không theo kịp các bạn (thiếu kiến thức, kỹ năng, khả năng để tiếp
thu kiến thức (ngồi nhầm lớp), sinh ra chán học, sợ học (hội chứng sợ học).
- Khả năng phân tích tổng hợp, so sánh cịn hạn chế, chưa mạnh dạn trong
học tập do hiểu chưa sâu, nắm kiến thức chưa chắc, thiếu tự tin. Học sinh không
chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên, lười suy nghĩ, cịn trơng chờ thầy
cơ hoặc các bạn khá giỏi giải giúp, trình độ tư duy, vốn kiến thức cơ bản lớp
dưới còn hạn chế, chưa biết phát huy khả năng của mình.
- Học sinh chưa có phương pháp học tập khoa học, hầu hết là học thụ động,
lệ thuộc vào các loại sách bài giải (chép bài tập vào vở nhưng khơng hiểu gì cả ),
học vẹt, khơng có khả năng vận dụng kiến thức, trong kiểm tra, thi cử thì quay
Trang 9
cóp, sử dụng tài liệu…Khơng tích cực, chủ động học tập, khơng dám hỏi Thầy
cơ những những gì chưa hiểu. Đây chính là “ bệnh giấu dốt ” của đa số học sinh.
Hơn nữa học sinh vừa học chính khố, vừa học thêm q nhiều mơn dẫn đến
khơng "tiêu hóa" hết sinh ra uể oải, nhàm chán.
- Học sinh còn phân biệt mơn chính, mơn phụ nên học lệch .
- Một số học sinh vì hồn cảnh gia đình dẫn đến bị sang chấn tâm lý nên
chán nản, bỏ bê học hành, trong đó có thể có một số trường hợp học sinh yếu
kém vốn là học sinh khá giỏi.
- Một số học sinh đi học thất thường, ham chơi, bị bạn bè xấu lôi kéo.
3.1.2. Đối với phụ huynh :
Nhận thức và thái độ của một số phụ huynh trong việc hợp tác với nhà
trường để giáo dục học sinh là chưa cao. Một số phụ huynh giao khoán hết cho
nhà trường, khơng kiểm sốt việc học hành, sinh hoạt, các mối quan hệ của con
em mình. Nhiểu học sinh bị bạn bè xấu lôi kéo, điều này dẫn đến học sinh ham
chơi hơn ham học, thiếu chuyên cần, coi nhẹ việc học, khơng có động cơ, ý thức
học tập đúng đắn nên kết quả học tập của học sinh yếu kém. Ngồi ra một số gia
đình khơng hạnh phúc cũng gây ảnh hưởng đến học tập của học sinh.
3.1.3. Đối với giáo viên :
Đa số đều tận tụy với công tác giáo dục, giảng dạy nhưng nhiều giáo viên
chỉ thành công với đối tượng là học sinh khá trở lên, cịn đối với học sinh yếu
kém thì chưa hiệu quả, hoặc ngược lại. Trong quá trình dạy học, giáo viên còn
mắc phải :
- Hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt chưa logic, chưa phù hợp cho từng đối
tượng; có những tiết giáo viên cịn nói lan man, ngoài lề chưa khắc sâu kiến thức
trọng tâm .
- Việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, SGK, thực hành thí
nghiệm cịn hạn chế, chưa khai thác hết tác dụng của thiết bị dạy học, chưa xử lý
Trang 10
hết các tình huống trong tiết dạy, việc tổ chức các hoạt động cịn mang tính hình
thức chưa phù hợp.
- Phương pháp giảng dạy chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh và với
từng nội dung kiến thức. Năng lực tổ chức giờ học theo nhóm đối tượng cịn hạn
chế, một số giáo viên chưa chú ý đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh
yếu. Chưa tìm tịi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ
động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hồn cảnh gia đình của
từng học sinh.
- Chưa động viên tuyên dương kịp thời khi HS yếu kém có một biểu hiện
tích cực hay sáng tạo dù là rất nhỏ. Chưa quan tâm đến tất cả HS trong lớp, GV
chỉ chú trọng vào các em HS khá, giỏi và coi đây là chất lượng chung của lớp.
- Một số giáo viên chưa làm tròn trách nhiệm trong việc kiểm tra đánh giá
học sinh, cho điểm rộng tay, cho học sinh lên lớp khi các em chưa đủ chuẩn, hậu
quả là các em phải gánh chịu khi học lên lớp trên .
- Còn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm các giải pháp mạnh giải quyết vấn đề
chất lượng học tập của HS, cịn tâm lí trơng chờ chỉ đạo của cấp trên. Tinh thần
trách nhiệm của một số giáo viên chưa cao, thiếu quyết tâm, bệnh thành tích vẫn
cịn, khơng đánh giá đúng thực chất của lớp mình giảng dạy. Có giáo viên thì
q khắt khe làm học sinh lo sợ khi học giờ của mình, thậm chí cịn làm các em
thui chột tinh thần học tập .Một số giáo viên giảng dạy thiếu nhiệt tình do xã hội
và học sinh xem nhẹ bộ mơn mình đang dạy .
- Một số GV còn hạn chế về chun mơn nghiệp vụ, chưa nhiệt tình giảng
dạy, chưa tích cực đổi mới phương pháp dạy học, chưa nắm chắc chuẩn kiến
thức cần đánh giá nên nhiều lúc yêu cầu quá cao so với chuẩn, chưa đầu tư cho
việc ra đề kiểm tra, coi thi chưa nghiêm túc để đánh giá dược đúng thực lực của
học sinh
3.1.4. Đối với nhà trường :
Trang 11
- Còn thiếu phòng học để tổ chức dạy phụ đạo đồng loạt, cơ sở vật chất và
các trang thiết bị dạy học còn hạn chế. Số học sinh trong một lớp cịn q nhiều
nên làm cho giáo viên khó khăn trong việc quan tâm đầy đủ đến các đối tượng
HS và các em dễ quay cóp trong kiểm tra.
- Chưa thực hiện tốt việc kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh qua việc
quản lý, kiểm tra chất lượng đề kiểm tra của từng môn, từng khối lớp, từng giáo
viên giảng dạy.
- Nội dung sinh hoạt chun mơn cịn nghèo nàn, nặng về hành chính, chưa
tập trung thảo luận, bàn bạc để tìm ra những biện pháp tốt nhằm nâng cao chất
lượng dạy học của bộ môn, một số mơn nhiều năm liền chất lượng thấp mà vẫn
chưa có chuyển biến (mơn Tiếng Anh) . Kế hoạch bồì dưỡng đội ngũ ( tổ chức
hội thảo, mở chuyên đề, BDTX,..) làm còn qua loa, chưa triển khai tốt các
chuyên đề để phục vụ nâng cao chất lượng dạy và học. Đánh giá xếp loại đội
ngũ đơi khi mang tính hình thức, chưa thực chất .
- Kế hoạch phụ đạo học sinh yếu còn triển khai và thực hiện chậm, chỉ chú
ý phần ngọn (khối 12), chưa chú ý phụ đạo từ gốc ( khối 10 và khối 11).
3.2. Một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học :
Việc xây dựng được chương trình phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém bộ môn
hợp lý, khoa học, cụ thể, sát với điều kiện hiện có của đơn vị là một yếu tố
quan trọng. Phải xác định tư tưởng kiên trì khơng lùi bước trước khó khăn, phải
có niềm tin vào hiệu quả khi thực hiện kế hoạch.
3.2.1. Đối với học sinh :
Cần xác định việc học là học để có kiến thức cho mình, để làm người, để
hồ nhập với cộng đồng, để chiếm lĩnh tri thức của loài người, biến kiến thức
của nhân loại thành kiến thức của mình, học để lập thân, lập nghiệp; học để phục
vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân .
Trang 12
Đi học phải chuyên cần, nghỉ học phải có lý do chính đáng. Học bài, làm
bài đầy đủ, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Trong giờ học phải tập trung nghe
giáo viên giảng bài, tích cực tham gia xây dựng bài.
Tham gia đầy đủ các buổi học phụ đạo do nhà trường tổ chức .
3.2.2. Đối với phụ huynh học sinh:
Gia đình là cái nơi ni dưỡng và giáo dục con người tốt nhất. phụ
huynh phải biết quản lí thời gian học ở nhà của con em mình bằng thời gian biểu
hằng ngày; giám sát các mối quan hệ bạn bè, tránh tình trạng con em mình bị
bạn bè xấu lôi kéo, lêu lổng, sa vào các tệ nạn xã hội. Gia đình cần tạo mọi điều
kiện cho các em tham gia học tập tích cực và có khả năng tự học; gia đình phải
kịp thời động viên, đơn đốc con em đi học chuyên cần.
Thường xuyên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm lớp để nắm được tình hình
học tập của con em mình, từ đó phụ huynh tìm ra những biện pháp tốt nhất cho
con em mình học tập. Quan tâm theo dõi và kiểm tra bài vở của con em mình.
3.2.3. Đối với giáo viên :
Giáo viên là người chủ đạo trong việc phụ đạo học sinh yếu kém, thành hay
bại là phần lớn do giáo viên. Vì vậy giáo viên là người hết sức quan trọng trong
việc khắc phục tình trạng học sinh yếu kém .
Khi đã có danh sách học sinh bắt buộc phải học phụ đạo do nhà trường
thống kê, giáo viên bộ môn phải ghi nhận danh sách học sinh yếu kém bộ mơn
lớp mình giảng dạy, kết hợp với giáo viên chủ nhiệm để phân loại, tìm nguyên
nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém: học sinh mất căn bản hồn tồn từ
lớp dưới, học sinh có khả năng học được nhưng do yếu tố tâm lý, do lười học, ít
được sự quan tâm chăm sóc của phụ huynh nên mê chơi ít dành thời gian cho
học tập… để thuận lợi trong quá trình phụ đạo. Giáo viên phải phân tích ngun
nhân từ đâu? Để từ đó có biện pháp khắc phục hợp lý và có hiệu quả.
Ngồi những mơn được nhà trường tổ chức phụ đạo (Mơn Tốn và môn
Tiếng Anh) Giáo viên bộ môn cần lập kế hoạch phụ đạo học sinh yếu trong và
Trang 13
ngồi giờ học chính khóa (đề xuất với Tổ trưởng, nhà trường, phụ huynh...) Chủ
động gặp phụ huynh trao đổi về việc học tập của HS, cùng với phụ huynh tìm
biện pháp khắc phục. Trong dạy và học chính khóa, giáo viên cần tận dụng tối
đa quỹ thời gian giảng dạy ở từng tiết học để tăng cường giáo dục HS cá biệt,
giúp đỡ kèm cặp HS yếu kém các bộ môn. Giúp HS ôn lại kiến thức cũ, hệ thống
hoá kiến thức đã học để thực hành thành thạo kỹ năng làm bài tập. Trong quá
trình giảng dạy giáo viên bộ môn cần hướng dẫn học sinh sắp xếp thời gian tự
học, chuẩn bị bài trước khi đến lớp... Trong giảng dạy cần xác định trọng tâm
bài học, nội dung chương trình, tránh tình trạng dạy tràn lan gây nặng nề cho
học sinh, nắm chắc các đối tượng trong từng lớp để có biện pháp giảng dạy phù
hợp, tránh tình trạng dạy học theo kiểu cào bằng, đặc biệt chú ý giúp đỡ các em
học tập còn yếu kém để các em tiến bộ. Giáo viên sẵn sàng tham gia phụ đạo
học sinh yếu theo phân công. Phải thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp và
ứng dụng CNTT vào dạy học, tăng cường giáo dục động cơ thái độ học tập bộ
môn, thầy phải giỏi, dạy hay, đánh giá chất lượng học sinh phải đúng chuẩn kiến
thức bộ mơn, đề kiểm tra phải chính xác và khoa học. Cống hiến hết sức mình
cho cơng việc mình phụ trách. Xây dựng tốt mối quan hệ thân thiện tích cực
giữa thầy và trò để dạy và học tốt hơn .
Trong buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tháng giáo viên bộ môn báo cáo
tiến độ tiếp thu bài của những học sinh yếu cho Tổ trưởng, từ đó giáo viên nào
cịn vướng mắc thì được tập thể giáo viên trong tổ góp ý bổ sung.
3.2.4. Đối với nhà trường :
- Tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ về phẩm chất chính trị, đạo đức
nghề nghiệp, năng lực chun mơn nghiệp.
- Tổ chức tốt việc quản lý, chỉ đạo Dạy và Học; sinh hoạt Ban chuyên môn,
Tổ chuyên môn định kỳ để kiểm tra việc thực hiện phụ đạo học sinh yếu kém,
nâng cao chất lượng dạy và học. Tập trung thực hiện tốt việc đổi mới phương
pháp, ứng dụng CNTT, thay đổi cách kiểm tra đánh giá, quản lý tốt dạy thêm
học thêm, quản lý tốt chất lượng giảng dạy các bộ môn của giáo viên.
Trang 14
- Tổ chức thực hiện tốt phong trào " xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực", và các phong trào khác.
- Lập kế hoạch và phân công dạy phụ đạo học sinh yếu ngay từ đầu mỗi
năm học phù hợp với tình hình cơ sở vật chất và con người của nhà trường.
Trong dạy và học chính khóa, nhà trường tận dụng tối đa quỹ thời gian
giảng dạy, cân đối đảm bảo để tất cả các buổi trong tuần học sinh đều học 5
tiết/1 buổi (kể cả tiết chào cờ và sinh hoạt lớp). Bằng cách tăng tiết các mơn:
Tốn, Lý, Hóa, Sinh, Văn và Tiếng Anh (tuỳ từng khối lớp) đưa vào thời khố
biểu chính khố. Đây cũng là hình thức tăng tiết để phụ đạo học sinh. Quán triệt
giáo viên bảo đảm nội dung và phương pháp dạy học phù hợp với từng đối
tượng HS, tạo điều kiện cho HS yếu kém được tham gia phát biểu, giải bài trên
bảng. Tổ chức phương pháp học tập thảo luận nhóm, hoạt động nhóm để HS yếu
kém được tham gia cùng nhóm, giúp các em xố bỏ mặc cảm yếu, kém và tự tin
hơn trong học tập.
Nhà trường cần có những hình thức khen thưởng những học sinh tiến bộ
như: có chế độ điểm thưởng cho học sinh tiến bộ, tìm nguồn bồi dưỡng cho giáo
viên phụ đạo. Đồng thời cần quan tâm theo dõi và đáp ứng nguyện vọng chính
đáng của giáo viên và học sinh về phòng học, photo tài liệu, bài tập… Tổ chức
hội thảo để tìm biện pháp tối ưu nhất khắc phục học sinh yếu. Có kế hoạch cập
nhật thường xuyên, xử lý nhanh chóng, các thơng về tình hình chất lượng học
sinh để có giải pháp phù hợp chỉ đạo phụ đạo học sinh yếu kém hiệu quả.
Việc chọn giáo viên phụ đạo rất quan trọng. Thực tế có nhiều giáo viên dạy
rất giỏi nhưng khi dạy những đối tượng học sinh yếu kém thì khơng hiệu quả.
Nên ưu tiên phân cơng các giáo viên có năng lực, tay nghề vững vàng, có đạo
đức, tâm huyết và có kinh nghiệm để phụ đạo, giúp đỡ HS yếu kém. Dạy HS
yếu, kém bằng tâm lý sư phạm, kiên trì và dài lâu, dùng các biện pháp kích
thích, động viên các em là chính, khơi dậy trong HS lòng tự tin, hứng thú học
tập và vượt khó để tiến bộ. Chính vì thế, việc chọn giáo viên phụ đạo cho học
Trang 15
sinh yếu kém vừa trên cơ sở tự nguyện vừa trên cơ sở dựa vào tâm huyết, sự tận
tụy, chu đáo, quan tâm của giáo viên đối với học sinh.
Phối hợp thật tốt với các tổ chức đoàn thể và ban đại diện cha mẹ học sinh,
đặc biệt là những phụ huynh có con em thuộc diện phải phụ đạo. Phải trao đổi,
giải thích rõ cho cha mẹ học sinh hiểu được sức học cụ thể của con em họ, biết
được sự lo lắng, quan tâm và trách nhiệm của nhà trường để phối hợp, tạo điều
kiện cho con em mình đi học đầy đủ. Làm thế nào để họ thấy rằng việc phụ đạo
là việc làm giúp đỡ những học sinh yếu kém không theo kịp bạn bè, không theo
kịp chương trình học phụ đạo để lấy lại căn bản, hoà nhập được với các bạn
trong lớp.
Qua khảo sát chất lượng đầu năm, kết hợp với kết quả học tập của năm
học
trước, nhà trường thống kê danh sách học sinh bắt buộc phải học phụ đạo.
Với tình hình cơ sở vật chất và đội ngũ, nhà trường tổ chức dạy phụ đạo mơn
Tốn, mơn Tiếng Anh cho cả 3 khối lớp ngay trong học kỳ I. Sau khi sơ kết học
kỳ I, nhà trường lại sàng lọc danh sách những học sinh yếu kém đưa vào danh
sách phải học phụ đạo bắt buộc ở học kỳ II ( trong danh sách này có nhiều học
sinh đã “thốt kém” khơng nằm trong danh sách phụ đạo ở học kỳ II nữa).
Tổng hợp danh sách học sinh yếu theo từng khối lớp để sắp xếp thời khoá
biểu phụ đạo phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất và đội ngũ hiện có. Nhà
trường chỉ tổ chức phụ đạo tập trung được 2 mơn Tốn và tiếng Anh. Thường thì
học sinh có lực học yếu kém chủ yếu do 2 mơn học này, do vậy khi xếp thời
khoá biểu phụ đạo phải chia lớp sao cho học sinh được học phụ đạo cả 2 môn
mà không bị trùng giờ phụ đạo. Riêng với khối 12, vì ưu tiên khơng phải học
ngày chủ nhật nên xếp thời khoá biểu phụ đạo phải tránh để không bị trùng lịch
học Thể dục của các lớp và các lịch học ngoại khoá khác.
Theo Bộ GD&ĐT thì việc phụ đạo cho học sinh yếu kém là nghĩa vụ phải
làm của mỗi nhà trường, mỗi giáo viên cho nên khơng có chế độ riêng cho thầy,
Trang 16
do đó tùy điều kiện, hồn cảnh của mỗi trường để có những chế độ bồi dưỡng
cho giáo viên dạy phụ đạo.
Cụ thể danh sách học sinh yếu kém được sàng lọc từng kỳ ( dưới đây là
danh sách học sinh phải học phụ đạo ở học kỳ I – Năm học 2011 – 2012 của
trường ):
3.3. Việc quản lí, kiểm tra, động viên của Ban giám hiệu:
Ban giám hiệu có thể kiểm tra đột xuất, kiểm tra định kỳ trong suốt quá
trình phụ đạo học sinh. Nội dung kiểm tra có thể tồn diện hoặc kiểm tra một
khía cạnh nào đó trong việc thực hiện kế hoạch, chương trình, giáo án, giờ
dạy… của giáo viên phụ đạo. Ban giám hiệu phải có sự phối kết hợp với các tổ
trưởng chun mơn để làm tốt cơng tác kiểm tra. Vì "Kiểm tra là chức năng cơ
bản của quản lý".
Ban giám hiệu phải duyệt kế hoạch phụ đạo của giáo viên, kiểm tra, định
hướng cho giáo viên cách ôn tập, phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém. Điều bắt
buộc
là giáo viên khi dạy phụ đạo phải chuẩn bị kỹ giáo án, tổ trưởng bộ mơn
có trách nhiệm thường xun kiểm tra giáo án của giáo viên dạy phụ đạo.
Việc quản lí, kiểm tra đơn đốc giáo viên thực hiện tốt công tác phụ đạo,
giúp đỡ học sinh yếu kém và sự động viên kịp thời của Ban giám hiệu là một
việc làm thường xuyên và không thể thiếu. Chúng tôi có kế hoạch kiểm tra giáo
án, kiểm tra việc chấm chữa bài cho học sinh. Sau mỗi tháng, Ban chuyên môn
ra đề cho học sinh thi sát hạch, thống kê chất lượng bài kiểm tra để nắm được
việc dạy của giáo viên cũng như kết quả học của học sinh. Đặc biệt chúng tôi đặt
ra yêu cầu với giáo viên là trong khi soạn bài phải thể hiện rõ được sự đổi mới
về phương pháp. Giáo viên phải nắm được các chỗ hổng kiến thức của học sinh
để tập trung bù đắp, bổ sung kiến thức. Khơng tạo khơng khí căng thẳng,
khơng có lời lẽ nặng nề với các em trong giờ dạy.
Trang 17
- Trong một tiết dạy giáo viên phải cho tất cả học sinh hoạt động cho dù là
học sinh yếu hay giỏi bằng nhiều cách để các em tham gia vào hoạt động học
tránh tình trạng để học sinh ngồi lề. Ví dụ : Trong một tiết học đến phần bài
tập giáo viên phân loại từng đối tượng học sinh . Bài tập 1 cho nhóm yếu làm,
bài tập 2 cho nhóm trung bình, bài tập 3 cho nhóm khá giỏi như vậy mới hy
vọng khắc phục dần tình trạng học sinh yếu. Nếu giáo viên cứ cho học sinh
hoạt động bình thường thì học sinh yếu khơng biết gì và thậm chí bỏ học vì
chán nản.
- Học sinh hổng kiến thức ở đâu giáo viên phải có kế hoạch ôn tập bổ
sung ở đó.
- Phân công học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém ở trường, lớp. Tạo
ra các nhóm học tập trong các nhóm có cả học sinh khá giỏi và học sinh yếu.
- Động viên, tuyên dương kịp thời học sinh có tiến bộ.
Qua kết quả khảo sát hàng tháng, giáo viên phụ đạo dễ dàng xác định
được sự tiến bộ của học sinh trong học tập, phát hiện những yếu kém, tồn tại của
học sinh, uốn nắn những sai sót, từ đó định hướng cho việc soạn giảng phụ đạo
học sinh yếu kém được hiệu quả hơn.
Trang 18
IV. KẾT QUẢ
Tiến hành đồng bộ việc tăng tiết dạy bộ mơn ngay trong thời khố biểu
học chính khố của học sinh và thời khoá biểu phụ đạo chéo buổi bắt buộc, có
kế hoạch chỉ đạo cụ thể, có kiểm tra, giám sát chặt chẽ, có sự quan tâm của gia
đình – nhà trường – xã hội và trên hết là sự nhiệt tâm của Thầy, sự nỗ lực của
Trò, kết quả học tập của học sinh được nâng lên rõ rệt. Có thể thấy rõ qua bảng
kết quả xếp loại học lực của học sinh trường THPT xxx qua các kỳ trong năm
học 2011 – 2012 (sĩ số không đổi do số HS nghỉ học là: 12 HS, bằng số HS
chuyển đến ở học kỳ II)
Ngoài ra:
- Nhờ chất lượng giáo dục đại trà tăng nên tình hình đạo đức học sinh có
phần chuyển biến, hiện tượng học sinh cá biệt giảm dần, số học sinh giỏi, học
sinh tiên tiến hàng năm được tăng lên. Nề nếp học tập của học sinh được củng
cố tốt. Tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng vì học kém giảm.
- Giảm bớt tình trạng học thêm tràn lan của học sinh ( Qua theo dõi, có
một số học sinh có học lực trung bình nghỉ học thêm ở ngồi vì hầu như bài tập
ở SGK đã được giáo viên hướng dẫn giải trong các tiết tăng của bộ mơn và học
sinh cịn được củng cố lại kiến thức trong các giờ học phụ đạo ).
- Phụ huynh học sinh phấn khởi, tin tưởng vào công tác giáo dục và đào
tạo của nhà trường, tích cực đơn đốc, tạo điều kiện thuận lợi, dành thời gian cho
con em ơn luyện, học tập.
Ngồi ra, nhờ những kết quả của nhà trường đạt được như trên, uy tín của
nhà trường đối với Đảng, chính quyền và nhân dân địa phương được nâng lên rõ
rệt. Nhân dân địa phương đã tin tưởng vào việc dạy dỗ của các thầy cô giáo ở
trường; vào sự tổ chức quản lý của Ban giám hiệu. Phụ huynh học sinh, các vị
mạnh thường quân đã có niềm tin vào nhà trường, ủng hộ tích cực vào việc xây
dựng cơ sở vật chất, góp phần xây dựng quỹ : “Khuyến học” dùng trong công
tác khen thưởng cho những giáo viên và học sinh có thành tích trong dạy và học,
Trang 19
cho học sinh yếu kém có sự tiến bộ trong học tập. Các phần thưởng tuy giá trị
vật chất chưa cao, nhưng đó là cả một sự động viên cổ vũ lớn cho Thầy và Trò
trong nhà trường.
Trang 20
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục? là một câu hỏi đặt ra cho
những người thầy tận tâm với nghề giáo trong thời điểm hiện nay, khi chúng ta
đã áp dụng nhiều biện pháp nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội,
của nhà trường, của bộ môn. Để thành công trong công tác phụ đạo học sinh yếu
kém, nhà trường phải biết huy động mọi nguồn lực của xã hội để cùng làm cho
hiệu quả. Phải xác định: Mỗi thầy cơ giáo phải có trách nhiệm giúp đỡ học sinh
yếu kém để các em này cải thiện tình hình học tập của mình một cách tốt nhất
(Dạy học là dạy cho người chưa biết để họ được biết).
Từ kinh nghiệm phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém ở đơn vị mình cơng
tác, chúng tơi nhận thấy rằng: Việc tìm rõ nguyên nhân để phụ đạo, giúp đỡ học
sinh yếu kém giúp các em sớm lấy lại căn bản, hoà nhập được với tập thể lớp để
lĩnh hội tri thức là một vấn đề hết sức quan trọng, là nhu cầu cấp bách của mọi
trường học.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, yếu tố con người được đặc
biệt coi trọng. Chính vì vậy tiềm năng trí tuệ cũng như sức mạnh tinh thần của
con người là vấn đề cấp thiết. Qua thực tế chỉ đạo việc phụ đạo, giúp đỡ học
sinh yếu kém ở trường chúng tôi rút ra một số kinh nghiệm đó là:
- Trước hết người làm cơng tác quản lí phải nhận thức sâu sắc về tầm
quan trọng và ý nghĩa, tính cấp thiết của vấn đề phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu
kém, phải đề ra được biện pháp chỉ đạo đúng đắn, nắm vững thực tế học sinh
của đơn vị mình để có kế hoạch tổ chức hiệu quả.
- Ban giám hiệu thực sự đồn kết, nhất trí, gương mẫu, từ đó xây dựng
được một tập thể sư phạm đồn kết, nhất trí cao, tương thân, tương ái, nhiệt tình,
tâm huyết với nghề. Có nhận thức đúng đắn về đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Biết đặt lợi ích của tập thể, của học sinh lên trên lợi
ích cá nhân.
Trang 21
- Xây dựng được đội ngũ giáo viên có năng lực vững vàng về chun
mơn, nhận thức chính trị đúng đắn, nhiệt tình gắn bó, có trách nhiệm cao đối với
học sinh và nhiệm vụ được giao.
- Kế hoạch phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém phải được xây dựng sát với
tình hình thực tế của đơn vị theo từng năm học. Ban giám hiệu phải biết lựa
chọn đội ngũ giáo viên nịng cốt, có kinh nghiệm đảm nhiệm công tác phụ đạo,
giúp đỡ học sinh yếu kém, biết động viên khuyến khích để những giáo viên
được đảm nhiệm cơng tác này nhiệt tình, tâm huyết với cơng việc của mình và
làm việc với tinh thần trách nhiệm cao nhất.
- Ban giám hiệu phải làm tốt công tác tham mưu với chính quyền địa
phương. với phụ huynh học sinh về công tác phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém,
biết tổ chức, phối kết hợp các lực lượng giáo dục trong xã hội, giúp cho họ hiểu
sự nghiệp giáo dục là của tồn Đảng, tồn dân chứ khơng phải riêng của ngành
giáo dục.
- Ban giám hiệu và giáo viên phụ đạo học sinh yếu kém phải nắm bắt
được nguyện vọng, tâm tư, hoàn cảnh của các em học sinh học lực yếu kém, có
như vậy mới tạo được mối liên hệ gắn bó giữa Thầy và Trị, từ đó giáo viên mới
tạo được niềm tin cho học sinh, cổ vũ các em phấn đấu vươn lên.
Trang 22
VI. KẾT LUẬN:
Học sinh yếu kém là một tồn tại khách quan, một phần do giáo viên chưa
quan tâm đúng mức, chưa giúp đỡ kịp thời nên các em bị hổng kiến thức cơ bản.
Một phần là do các em khơng thích học, khơng biết cách học dẫn đến ngày một
tụt hậu so với trình độ chung của lớp…. Khơng kể nguyên nhân do đâu, giúp đỡ
học sinh yếu kém là việc làm cần thiết, khơng nóng vội, phải có lộ trình hợp lý,
có biện pháp hiệu quả và kịp thời, phải tìm hiểu ngun nhân, phân loại và có kế
hoạch riêng cho những đối tượng học sinh yếu kém..
Phụ đạo cho học sinh yếu kém trong nhà trường là việc làm hết sức tế nhị
và địi hỏi có nhiều công sức, sự yêu thương tận tụy, sự nỗ lực của thầy và trị.
Có thể nói giáo viên là yếu tố quyết định về kết quả phụ đạo học sinh yếu kém.
Nếu có được những thầy cơ tâm huyết, có kinh nghiệm dạy học sinh yếu kém,
tận tụy, yêu thương học sinh thì kết quả mới khả quan được.
Trong nhà trường phổ thông, đề ra biện pháp tổ chức và chỉ đạo công tác phụ
đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém là một trong những việc then chốt trong quản lý
hoạt động Dạy và Học. Người Hiệu trưởng có năng lực quản lý bao giờ cũng coi
trọng công tác này vì đó là một trong những nhân tố chủ yếu nâng cao chất lượng
giáo dục đại trà của nhà trường phổ thông. C. Mác đã định nghĩa quản lý như là :
"Lao động để điều khiển lao động". Trong quá trình tổ chức thực hiện, phải đề ra
được các chương trình, các kế hoạch phù hợp với điều kiện khách quan cũng như
chủ quan của nhà trường, đồng thời phải tham mưu tốt, động viên, khen thưởng kịp
thời để mọi người tích cực tham gia, hồn thành tốt cơng tác phụ đạo, giúp đỡ học
sinh yếu kém.
Có thể nói biện pháp tổ chức và chỉ đạo công tác phụ đạo học sinh yếu
kém của chúng tơi đã trình bày ở trên trong năm học này góp phần “Tạo dựng
mơi trường học tập: dân chủ, thân thiện, hợp tác, cộng tác, thuận lợi, an toàn và
lành mạnh”
Trang 23
( Tiêu chí 13-Tiêu chẩn 3- Chuẩn Nghề nghiệp giáo viên THCS, THPT ).
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ nhưng rất q báu trong cơng tác quản
lý chỉ đạo, tổ chức phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém ở vùng kinh tế cịn khó
khăn như trường chúng tơi. Vì thời gian và năng lực có hạn. Nội dung đề tài
chắc chắn khơng tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân rất mong được sự bổ sung
góp ý kiến của quý cấp lãnh đạo và quý Thầy cô đồng nghiệp.
Trang 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hệ thống văn bản pháp luật mới về giáo dục đào tạo dành cho Hiệu trưởng và
lãnh đạo trường học. ( Nhà xuất bản Thống kê )
2. Những bài giảng về quản lý trường học - Tập III. (Hà Sĩ Hồ - Lê Tuấn Nhà xuất bản Giáo dục 1987 )
3. Quá trình sư phạm và chất lượng đào tạo.(Giáo sư: Hà Thế Ngữ - Nghiên
cứu giáo dục số 5 năm 1985)
4.
Văn
kiện
Hội
nghị
Trung
ương
II
khố
VIII
(Tạp chí)
Trang 25