Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

bước đầu đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của việc bảo vệ đa dạng sinh học cây dược liệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.27 KB, 70 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
L I CAM OANỜ Đ 3
L o Cai, tháng 04 n m 2003à ă 4
Sinh viên 4
BẢNG 1: DIỆN TÍCH CÁC KIỂU ĐỊA HÌNH, KHÍ HẬU HUYỆN SAPA 21
TT 21
BẢNG 2: NHÓM CÂY DƯỢC LIỆU CÓ GIÁ TRỊ SỬ DỤNG PHỔ BIẾN
MỌC TỰ NHIÊN CÒN KHẢ NĂNG TIẾP TỤC KHAI THÁC
TỪ 10 ĐẾN 30 TẤN/ NĂM 30
Tên cây thuốc 30
BẢNG 3: NHỮNG CÂY DƯỢC LIỆU TỰ NHIÊN TẠI SA PA DO KHAI THÁC NHIỀU NĂM,
HIỆN NAY KHÔNG CÒN KHẢ NĂNG KHAI THÁC
HOẶC KHAI THÁC VỚI SỐ LƯỢNG ÍT CẦN BẢO VỆ 35
BẢNG 4: TỔNG HỢP NHỮNG CÂY DƯỢC LIỆU BỊ SUY GIẢM NGHIÊM TRỌNG VÀ THUỘC
DIỆN QUÝ HIẾM CÓ NGUY CƠ BỊ TUYỆT CHỦNG TẠI SA PA (ÁP DỤNG THEO KHUNG
PHÂN HẠNG IUCN) 41
BẢNG 5: SỐ LIỆU VỀ XUẤT KHẨU DƯỢC LIỆU
CỦA TỔNG CÔNG TY DƯỢC LIỆU VIỆT NAM 45
STT 45
Tên dược liệu 45
Giá trị 45
BẢNG 6: TỔNG HỢP CÁC LOÀI CÂY DƯỢC LIỆU PHỔ BIẾN TRỒNG TẠI HUYỆN SA PA 49
NGUỒN GỐC 49
Bán địa 49
BẢNG 7: NHÓM CÂY THUỐC TRỒNG PHỔ BIẾN
CÓ GIÁ TRỊ HÀNG HOÁ TẠI SA PA 50
TÊN CÂY THUỐC 50
NĂNG SUẤT 50
TRƯỚC 1995 (TẠ/HA) 50
1998 (TẠ/HA) 50


TRƯỚC 1995 (TẤN) 50
1998 (TẤN) 50
BẢNG 8: GIÁ TRỊ KINH TẾ TRỒNG MỘT SỐ CÂY DƯỢC LIỆU SO VỚI CÂY TRỒNG KHÁC
TẠI HUYỆN SA PA (SỐ LIỆU NĂM 2000) 51
Số TT 51
BẢNG 9: SO SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA MỘT SỐ CÂY DƯỢC LIỆU ĐƯỢC TRỒNG PHỔ
BIẾN NHẤT VỚI MỘT SỐ CÂY TRỒNG KHÁC 54
Tổ 54
BẢNG 10: MA TRẬN CHO ĐIỂM KHI VAI TRÒ CỦA CÁC
CHỈ TIÊU NHƯ NHAU 56
BẢNG11 : NỬA MA TRẬN ĐỂ TÍNH TRỌNG SỐ CHO HỆ THỐNG CHỈ TIÊU 56
BẢNG 12: SO SÁNH CÁC CHỈ TIÊU KHI ĐÃ XÉT ĐẾN TRỌNG SỐ VỪA TÍNH ĐƯỢC (DO
LẤY TRỌNG SỐ NGƯỢC VỚI SỐ LẦN LẶP NÊN TỔ NÀO CÓ
SỐ ĐIỂM TO NHẤT LÀ QUAN TRỌNG NHẤT) 57
BẢNG 13. SỐ LIỆU THU MUA NGUYÊN LIỆU
CỦA CÔNG TY TRAPACO SAPA 58
BẢNG 14: BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ KINH TẾ HỘ
Ở MỘT SỐ XÃ CỦA SA PA 61
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam là nước đang phát triển, tuy nhiên vẫn còn là nước nghèo, sự
phát triển giữa các vùng, các dân tộc còn có nhiều chênh lệch và không đồng
đều, các khu vực kém phát triển chủ yếu là các vùng có nhiều đồng bào dân
tộc sinh sống, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Mục tiêu ổn
định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo luôn là ưu tiên
hàng đầu trong đường lối chiến lược, chính sách của Đảng và nhà nước ta
nhằm dần đưa đất nước đi lên, hướng tới sự phát triển bền vững. Huyện Sa
Pa là một huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai nằm trên dãy Hoàng Liên Sơn.
Nơi đây trong những năm qua đã có những bước chuyển mình mới trong
phát triển kinh tế, đời sống đồng bào ngày càng được năng cao và đi vào ổn

định. Với độ cao trung bình 1500 mét trên dãy Hoàng Liên Sơn, nơi đây là
một phần của Vườn quốc gia Hoàng Liên Sơn. Có khí hậu ôn đới mát mẻ
quanh năm, tính đa dạng sinh học rất cao nên huyện Sa Pa có lợi thế đặc biệt
trong việc phát triển du lịch. Tuy nhiên, để tận dụng tối đa lợi thế đó phục
vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, huyện Sa Pa cần phải làm nhiều việc nữa.
Là sinh viên chuyên ngành Kinh tế Quản lý Môi trường và Đô thị - Đại
học Kinh tế Quốc dân, khi thực tập tại Sở Khoa học Công nghệ và Môi
trường Lào Cai, tôi đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực bảo tồn và phát triển bền
vững ở huyện Sa Pa. Với đề tài tốt nghiệp “Bước đầu đánh giá hiệu quả
kinh tế xã hội của việc bảo vệ đa dạng sinh học cây dược liệu ở huyện Sa
Pa tỉnh Lào Cai ”, Tôi cố gắng thiết lập cho mình một cái nhìn tổng quan về
một lĩnh vực rộng lớn và khó khăn này. Đây cũng là lĩnh vực mà chính
quyền địa phương đang rất quan tâm.
Vì thời gian hạn hẹp, trình độ phân tích và kiến thức còn nhiều hạn chế,
đề tài này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Với tinh thần cầu thị, rất
mong nhận được góp ý, chỉ dạy của các thầy cô và các bạn để tôi có thể tiến
bộ hơn.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là các cây dược liệu tự nhiên đang
được khai thác, được trồng với mục đích thương mại, mục đích bảo tồn ở
huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai.
Để có được cái nhìn tổng quan về công tác dược liệu ở huyện Sa Pa, kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn, đề tài có bố cục như sau:
Chương I: Bảo tồn nguồn gen dược liệu là biện pháp bảo vệ tài
nguyên môi trường và phát triển kinh tế.
Chương II: Tình hình khai thác tài nguyên dược liệu ở huyện Sa Pa
trong thời gian qua.
Chương III: Bước đầu đánh giá hiệu quả khai thác, chế biến, sử dụng
tài nguyên dược liệu ở huyện Sa Pa.
Chương IV: Kết luận và một số kiến nghị.

Đề tài này được tôi hoàn thành với sự chỉ dạy tận tình của thầy giáo Lê
Trọng Hoa, giảng viên của khoa và bà Nông Bích Thuỷ, trưởng phòng Quản
lý Môi trường - Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường Lào Cai.
Tôi xin trân trọng cảm ơn những sự chỉ dạy và giúp đỡ tận tình đó.
LỜI CAM ĐOAN
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tôi xin cam đoan nội dung báo cáo đã viết là do bản thân thực hiện,
không sao chép, cắt ghép các báo cáo hoặc luận văn của người khác. Nếu sai
phạm tôi xin chịu kỷ luật của nhà trường.
Lào Cai, tháng 04 năm 2003
Sinh viên
Đào Thành Công
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
BẢO TỒN NGUỒN GEN DƯỢC LIỆU LÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ
TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. CÁC VẤN ĐỀ VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC
Đa dạng sinh học là cơ sở của sự sống, sự thịnh vượng và bền vững của
loài người cũng như của trái đất nói chung. Tuy nhiên, con người đã và đang
khai thác nguồn tài nguyên này một cách quá mức và không khoa học dẫn
tới sự suy thoái các hệ sinh thái, làm nghèo kiệt nguồn đa dạng sinh học,
thậm chí huỷ diệt nguồn tài nguyên quý giá đó để đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của mình. Ở Việt Nam, suy thoái đa dạng sinh học đã đến mức
báo động ở nhiều nơi và trên diện rộng. Bảo tồn đa dạng sinh học nhằm
phục vụ cho cuộc sống là trách nhiệm của mọi người và đã trở thành vấn đề
nóng bỏng trong xã hội, tác động trực tiếp đến từng cá nhân cũng như toàn
thể cộng đồng. Những vấn đề về đa dạng sinh học vừa mang tính nhà nước,
vừa mang tính xã hội. Việc giải quyết vấn đề này hiện nay cũng như trong
tương lai phụ thuộc vào trình độ nhận thức của các nhà hoạch định chính
sách, cũng như phụ thuộc vào trình độ dân trí, thái độ và hành vi của mọi

tầng lớp nhân dân trong xã hội. Vì vậy, mỗi người cần phải hiểu rõ về các
vấn đề liên quan đến đa dạng sinh học.
1. Khái niệm về đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học được hiểu là sự phong phú về sự sống trên trái đất với
hàng triệu loài thực vật, động vât, vi sinh vật cùng nguồn gen của chúng và
các hệ sinh thái mà chúng là thành viên. Từ đó, đa dạng sinh học được định
nghĩa là sự đa dạng của các sinh vật từ tất cả các nguồn, trong đó bao gồm
các hệ sinh thái trên cạn, dưới biển, các thuỷ vực khác và các phức hệ sinh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thái mà chúng cấu thành, đa dạng sinh học bao gồm sự đa dạng của loài giữa
các loài và các hệ sinh thái.
Các nhà sinh học thường xem xét đa dạng sinh học ở 3 góc độ: Đa dạng
di truyền, đa dạng loài và đa dạng hệ sinh thái.
Đa dạng di truyền được hiểu là sự phong phú về số lượng và sự đa dạng
về các gen, bộ gen trong mỗi quần thể và giữa các cá thể.
Đa dạng loài là sự giàu có về số lượng và sự phong phú của các loài
trong hệ sinh thái.
Đa dạng hệ sinh thái là sự phong phú về trạng thái và loại hình của các
hệ sinh thái khác nhau.
Từ 3 góc độ này, ta có thể tiếp cận đa dạng sinh học ở 3 mức độ khác
nhau: Mức độ phân tử (gen), mức độ cơ thể và mức độ hệ sinh thái. Như
vậy, đa dạng sinh học bao gồm sự phong phú của tất cả thế giới sinh vật ở
tất cả các dạng, các bậc phân loại, các mức độ và sự tổ hợp của chúng. Đó
không chỉ là tổng số của các hệ sinh thái, các loài, các vật chất di truyền mà
còn bao gồm tất cả các mối quan hệ phức tạp bên trong và giữa chúng với
nhau, với thế giới vô sinh và với xã hội loài người. Vì vậy, cũng có thể nói
rằng đa dạng sinh học là kết quả của sự tương tác giữa hai hệ thống tự nhiên
và xã hội.
2. Tầm quan trọng của đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học có một giá trị không thể thay thế được, trước tiên là

đối với sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh học trong đó có con người,
tiếp đến là về mặt kinh tế xã hội, văn hóa và giáo dục. Nhưng quan trọng
hơn cả là đa dạng sinh học có một giá trị đặc biệt về khoa học và ứng dụng
trong thực tiễn thuộc các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp, y tế và các lĩnh vực khác. Về giá trị của đa dạng sinh học có thể khái
quát như sau:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1. Giá trị kinh tế
Đa dạng sinh học là nguồn tài nguyên thiên nhiên đảm bảo cho loài
người tồn tại và phát triển. Từ khi xuất hiện trên trái đất, loài người hầu như
chỉ dựa hoàn toàn vào tài nguyên thiên nhiên (
Thực vật và động vật hoang dã làm thức ăn, hang động và sông suối để
sinh sống). Trong quá trình hình thành nên nền nông nghiệp, việc trồng cây
lương thực và chăn nuôi động vật xuất phát từ thực vật và động vật trong tự
nhiên rồi thuần hoá dần dần nhằm thích nghi với môi trường và điều kiện
sống. Đối với sức khoẻ con người, đa dạng sinh học là nguồn dược liệu quý
giá và còn nhiều tiềm ẩn.
Các loài thực vật, động vật, vi sinh vật cung cấp một số lượng lớn các
sản phẩm phục vụ cho con người. Sự cung cấp này rõ ràng có ý nghĩa rất lớn
và nếu sự đa dạng sinh học càng phong phú thì lợi ích thu được từ đa dạng
sinh học càng nhiều và sẽ có nhiều khả năng được chia sẻ một cách công
bằng cho cộng đồng.
Ngày nay, các động thực vật hoang dã vẫn là một nguồn tài nguyên
quan trọng, một nguồn gen quý giá làm cơ sở tạo ra những giống vật nuôi và
cây trồng có năng suất cao, có các tính năng tốt phục vụ cho nông nghiệp và
đời sống. Có thể nói đa dạng sinh học đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong
việc lai tạo các giống mới có năng suất cao, có sức chống chịu được với các
điều kiện ngày càng khắc nghiệt của môi trường, là cơ sở đảm bảo cho một
nền nông nghiệp, kinh tế bền vững.

2.2. Giá trị sinh thái và môi trường
Các hệ sinh thái có giá trị quan trọng trong quá trình điều hoà khí hậu,
làm trong sạch môi trường không khí, nước, đảm bảo chu trình chất dinh
dưỡng trong thiên nhiên, bảo vệ đất, cân bằng nguồn nước và ngăn chặn
dịch bệnh. Sự đa dạng loài càng cao trong các quần xã sinh vật càng làm cho
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quần xã đó có tính ổn định cao, ít bị xáo trộn. Mỗi khi sự đa dạng này bị
thay đổi thì các khả năng của hệ sinh thái cũng thay đổi theo, ví dụ khả năng
điều hoà quá trình trao đổi vật chất trong hệ sinh thái, khả năng hấp thụ các
chất ô nhiễm
2.3. Giá trị về đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ, văn hoá, lịch sử, tín
ngưỡng và giải trí của con người
Các loài sinh vật cũng như các hệ sinh thái khác nhau cho con người
những hình ảnh độc đáo, những cảnh quan đẹp đẽ có giá trị về thẩm mỹ, văn
hoá, lịch sử, tín ngưỡng. Khám phá thiên nhiên hoang dã luôn là nguồn yêu
thích của hàng triệu người trên khắp thế giới. Ngày nay, du lịch sinh thái
luôn là một trong những tiềm năng kinh tế và giải trí đang được khai thác
mạnh mẽ.
3. Nguyên nhân làm suy thoái đa dạng sinh học
Trong lịch sử cận đại và hiện đại, suy thoái đa dạng sinh học đã xẩy ra
với một tốc độ khủng khiếp, trước đây ở các nước công nghiệp phát triển và
hiện nay ở các nước đang phát triển và kém phát triển. Sự suy thoái đa dạng
sinh học được thể hiện chủ yếu ở các mặt:
- Hệ sinh thái bị biến đổi dẫn đến mất nơi ở của loài.
- Mất loài.
- Mất đa dạng di truyền.
- Sự di nhập, xâm lấn của các loài sinh vật lạ.
Sự mất mát của các loài, sự sói mòn nguồn gen, sự di nhập xâm lấn của
các loài sinh vật lạ, sự suy thoái các hệ sinh thái tự nhiên nhất là rừng nhiệt
đới diễn ra một cách nhanh chóng chưa từng có mà nguyên nhân chủ yếu là

do tác động của con người, trong đó sự thiếu nhận thức là một nguyên nhân
quan trọng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nguyên nhân của sự suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam, cũng như
trên thế giới, được chia thành 2 nhóm:
• Do thiên nhiên như các biến cố địa chất, bão lụt, sự thay đổi khí hậu,
hoang mạc hoá, hạn hán.
• Do hoạt động của con người đã trực tiếp tác động đến môi trường tự
nhiên (Các nguyên nhân trực tiếp, các nguyên nhân sâu xa về kinh tế
– xã hội, và cả do chiến tranh). Do điều kiện không cho phép nên tôi
không nêu cụ thể.
4. Các biện pháp bảo tồn đa dạng sinh học
4.1. Biện pháp bảo tồn nguyên vị (In-situ)
Đây là hình thức bảo tồn loài, bảo tồn các sinh cảnh ngay tại chỗ và là
biện pháp bảo tồn mang lai hiệu quả cao nhất bằng cách thành lập các khu
bảo tồn. Đến thời điểm tháng 5/2002, Việt Nam có tổng số 16 vườn quốc
gia, 15 khu bảo tồn biển và 64 khu bảo tồn đất ngập nước đã được lập luận
chứng để trình Chính phủ, điều này cho thấy Việt Nam rất quan tâm đến vấn
đề bảo tồn nguyên vị.
4.2. Biện pháp bảo tồn chuyển vị (Ex-situ)
Biện pháp này sử dụng cách di chuyển để bảo tồn loài hoặc các vật chất
di truyền của chúng đến nơi không phải là nơi cư trú tự nhiên vốn có của
chúng mà là một môi trường mới. Biện pháp này có một số hình thức: Trạm
đa dạng sinh học, các vườn thực vật, vườn động vật, trạm cứu hộ động vật,
ngân hàng giống
5. Đa dạng sinh học và vấn đề phát triển bền vững
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Định nghĩa phổ biến nhất về phát triển bền vững là định nghĩa của Uỷ
ban thế giới về phát triển bền vững (WCED): Phát triển bền vững là sự phát
triển thoả mãn những nhu cầu trong hiện tại mà không xâm phạm đến khả

năng thoả mãn nhu cầu của thế hệ tương lai. Cơ sở của định nghĩa này là sự
công bằng trong các thế hệ, hiện tại và tương lai. Con người được sinh ra
đều có quyền như nhau. Điều kiện để phát triển bền vững là có sự chuyển
giao di sản tư bản. Điều này ngụ ý rằng thế hệ hiện tại phải đảm bảo để lại
cho thế hệ mai sau một trữ lượng tư bản không ít hơn những gì mà thế hệ
này đang có. Sự bền vững có hai dạng: sự bền vững thấp dựa trên giả thiết
cứng nhắc là có khả năng thay thế hoàn toàn các dạng tư bản; sự bền vững
cao thì không tin tưởng hoàn toàn vào khả năng đó vì có nhiều dạng tư bản,
ví dụ như tư bản tự nhiên là cái không dễ gì thay thế được.
Loài người từ xưa đến nay vẫn luôn bị phụ thuộc vào thiên nhiên dù ít
hay nhiều. Tài nguyên sinh vật cho chúng ta lương thực thực phẩm, quần áo,
nhà ở, thuốc men và các món ăn tinh thần. Nguồn tài nguyên ấy được tìm
thấy trong các hệ sinh thái tự nhiên của rừng, các vùng Savan, đồng cỏ và
đất rừng, sông, hồ, biển. Nguồn tài nguyên này cũng tìm thấy ở trên các
cánh đồng, trong các vườn nhà, trong các ngân hàng gen, trong các vườn
thực vật và bách thú.
Loài người đã có trong tay một khối lượng tư bản khổng lồ để để lại
cho thế hệ mai sau như các công trình xây dựng, các trí tuệ và tri thức nhân
loại, nhưng loài người cũng đã và đang là nguyên nhân của sự tuyệt chủng
và suy giảm của rất nhiều loài động vật, thực vật, các hệ sinh thái giàu có.
Để đảm bảo một sự phát triển bền vững, loài người cần có một sự đảm
bảo về sự an toàn cho giới sinh học - bảo vệ đa dạng sinh học.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ ĐA DẠNG
NGUỒN GEN CÂY DƯỢC LIỆU
Cây dược liệu giữ một vị trí quan trọng trong việc xây dựng nền y học
Việt Nam. Từ lâu việc nghiên cứu, sử dụng và phát triển cây dược liệu đã
được khẳng định trong đường lối xây dựng nền y học dân tộc. Chỉ thị
210/TTg ngày 06/12/1966 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định vị trí và
giá trị của dược liệu: ” Dược liệu ở nước ta rất nhiều, gồm các loài cây

thuốc và một số động vật có ở nước ta. Chẳng những là cơ sở của nền y học
dân tộc mà còn có vị trí trong nền y học hiện đại, Chẳng những là nguồn tự
cung tự cấp về thuốc Nam, thuốc Bắc và thuốc tây mà còn là loại hàng hoá
xuất khẩu có giá trị phải coi trọng dược liệu như cây công nghiệp cao cấp “.
Thực tế trong mấy thập kỷ qua, cùng với việc ứng dụng những thành
tựu y học hiện đại, cây thuốc đã góp phần không nhỏ trong lĩnh vực phòng
bệnh chữa bệnh, bồi bổ sức khoẻ cho nhân dân. Nhiều loài cây thuốc đã
được đưa vào trồng từ quy mô gia đình đến hợp tác xã, nông trường để sử
dụng trong y học cổ truyền, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp dược và
xuất khẩu.
Trong những kết quả mới công bố gần đây ở Việt Nam, chúng ta đã
biết khoảng 3200 loài thực vật bậc thấp cũng như bậc cao được sử dụng làm
thuốc. Trong số này có khoảng 300 loài thường xuyên được khai thác, sử
dụng trong y học dân tộc, hoặc làm nguyên liệu làm thuốc trong các xí
nghiệp dược phẩm. Rõ ràng rằng: từ nguồn cây dược liệu ở Việt Nam, đã
đáp ứng được một phần nhu cầu thuốc chữa bệnh, bảo vệ sức khoẻ nhân
dân, đặc biệt là trong những năm có chiến tranh và thiếu thuốc. Ngoài ra,
hàng năm còn có rất nhiều loài dược liệu và tinh dầu quý có giá trị kinh tế
cao đã được xuất khẩu, đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Tuy nhiên, do việc khai thác liên tục, thiếu sự chú ý bảo vệ tái sinh
cùng một số nguyên nhân khác đã làm cho hầu như toàn bộ nguồn cây dược
Website: Email : Tel : 0918.775.368
liệu ngoài tự nhiên bị suy giảm nghiêm trọng, nhiều loài cây thuốc thuộc
diện quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Riêng về cây thuốc trồng, ngoại trừ
một vài loài cây đặc sản như: Quế, Hồi, Thảo Quả là còn được chú ý tới vì
nó là loại luôn có giá trị kinh tế cao. Nhìn chung, công tác trồng cây dược
liệu ở nước ta trong thời gian gần đây bị suy giảm rõ rệt. Hầu hết các loại
cây dược liệu bắc đầu vị, từ chỗ đã di thực thành công và đáp ứng thoả mãn
nhu cầu trong nước hoặc đã từng được tái xuất khẩu nay lại bị mai một dần
dẫn đến phải nhập khẩu nguồn nguyên liệu này và phụ thuộc vào nguồn

cung cấp từ nước ngoài.
Mặc dù vậy, trong bối cảnh chung của nền kinh tế thị trường, nguồn
cây dược liệu ở nước ta vẫn không ngừng được khai thác. Nhiều loài cây
thuốc Nam không thể thay thế vẫn được trồng ở nhiều nơi. Trên thực tế,
nhu cầu sử dụng dược liệu để chữa bệnh và bồi bổ sức khoẻ trong nhân dân
vẫn có xu thế gia tăng.
Hiện nay, trên thế giới các bệnh ung thư, AIDS hoặc các triệu chứng
về cảm xúc vẫn còn tồn tại và các bệnh gây nguy hiểm cho cộng đồng vẫn là
nguy cơ tiềm ẩn, do đó việc duy trì các cây dược liệu là rất cần thiết và cần
tiếp tục được ưu tiên, đầu tư nghiên cứu. Việc tìm kiếm các loại thuốc mới
không những từ trong phòng thí nghiệm mà chính là từ cây cỏ trong tự nhiên
đang được nhiều quốc gia, nhiều tập đoàn dược phẩm quan tâm.
Việt Nam ta, trong chiến lược chăm sóc sức khoẻ cộng đồng của ngành
y tế đã đề ra mục tiêu phấn đấu từng bước để tự túc được khoảng 40% thuốc
chữa bệnh vào khoảng những năm đầu của thế kỷ 21. Để thực hiện mục tiêu
này, bên cạnh sự quan tâm phát triển công nghiệp dược và kháng sinh, một
vấn đề vô cùng quan trọng là phải dựa vào thế mạnh về sự đa dạng cây dược
liệu trong nước. Hơn nữa, dược liệu là nguồn thuốc gần như duy trì trong y
học cổ truyền, là nguyên liệu trong công nghiệp dược và xuất khẩu nhằm bù
đắp một phần cho nhập khẩu.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
III. TÀI NGUYÊN CÂY DƯỢC LIỆU VÀ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
ĐẾN TRI THỨC CỔ TRUYỀN
Cây dược liệu = Cây cỏ (đơn thuần như là một nguồn gen: một yếu tố
mang tính vật thể) + Cách dùng chúng để chữa bệnh (là tri thức: một yếu tố
phi vật thể).
Đây là công thức cơ bản phân biệt cây gọi là cây dược liệu với các loại
cây khác. Một loại cây chỉ được coi là cây dược liệu nếu nó hội tụ cả hai yếu
tố trên. Vậy để bảo vệ cây thuốc trước nguy cơ tuyệt chủng thì chúng ta vừa
phải bảo tồn mặt vật thể, vừa phải gìn giữ yếu tố phi vật thể.

Tri thức cổ truyền được hiểu là những thành tựu, những kết quả, kinh
nghiệm có được của cộng đồng, đã, đang đóng góp và có ích cho cuộc sống
của cộng đồng dân bản địa. Đó là những giống cây con, những phương pháp
thụ tinh, phương pháp nuôi trồng, cách chế biến, bảo quản, những kinh
nghiệm hay những bài thuốc quý.
Việc sở hữu sự đa dạng về tài nguyên sinh học cùng với những tri thức
cổ truyền mà những người bản địa nắm giữ là một tiềm năng lớn mà Việt
Nam ta có. Đặc biệt, trong khi nền kinh tế quốc dân còn phụ thuộc nhiều vào
vốn thiên nhiên, việc sử dụng tài nguyên sinh học đóng một vai trò rất quan
trọng trong Nông - Lâm - Ngư nghiệp để bảo đảm đời sống của đa số nhân
dân hiện đang lao động, sản xuất trong các ngành này và cho an ninh lương
thực của cả nước. Các cây trồng, vật nuôi, giống lai mới đã giúp cho việc
tăng sản lượng lương thực, tổng sản lượng đã đạt trên 35 triệu tấn, đáp ứng
yêu cầu trong nước và còn có thể xuất khẩu để thu ngoại tệ. Ngoài ra, những
bài thuốc cổ truyền còn giúp phòng và điều trị nhiều bệnh tật và có ý nghĩa
rất lớn trong vấn đề bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, đặc biệt là đối với các đồng
bào dân tộc vùng cao.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thực tế cho thấy, việc sử dụng các giống cây trồng truyền thống và
việc thích nghi các giống nội thường dựa vào các thành tựu nghiên cứu khoa
học và tri thức bản địa. Trong khi dân tộc kinh là nhóm dân tộc lớn nhất,
chiếm 85% tổng dân số và phân bố trong cả nước, là lực lượng chủ yếu
trong việc phát triển và duy trì sự đa dạng phong phú về nông nghiệp (trồng
lúa nước), thì còn khoảng 53 dân tộc khác, chủ yếu sống ở miền núi cũng
được coi là những người đầu tiên sáng tạo và chăm sóc cho sự đa dạng nông
nghiệp. Cũng tương tự như vậy, đối với các loại cây dược liệu và các loại
sản phẩm thiên nhiên khác được phát triển từ tri thức của dân bản địa và các
cộng đồng địa phương. Hiện nay, ở nước ta có hàng ngàn loài cây được sử
dụng làm lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn gia súc, tơ sợi và
nguyên liệu.

Đa số các loài cây nông nghiệp đã được thuần hoá và trồng trọt từ
nhiều năm trước đây và rất quen thuộc đối với nhân dân. Tuy nhiên, một số
cây chưa được thuần hoá để trồng trọt mà chỉ mọc tự nhiên, hoang dại.
Việc bảo tồn, sử dụng, phát triển và thương mại hoá các giống cây là
dựa vào hoạt động nghiên cứu và thống kê, cũng như thực tiễn sản xuất của
nông dân, trong khi mà kiến thức truyền thống thì được sử dụng một cách
thông thường và một phần nào đó được thương mại hoá.
Các Viện nghiên cứu và Trường Đại học chuyên ngành thường có vai
trò chủ đạo trong việc hợp tác với các địa phương để thu thập các giống cây
trồng nhằm làm thích nghi các giống mới.
Những thí dụ đó cho thấy rõ rằng, chúng ta cần phải tạo lập mối quan
hệ đối tác giữa các cơ quan KHKT và nông dân. Việc nghiên cứu và phát
triển các giống mới hoặc giống lai, việc nhập nội và làm thích nghi các
giống từ bên ngoài, thường được tiến hành bởi các cơ quan này, cùng với sự
cộng tác chặt trẽ của các cộng đồng địa phương, họ sẽ là những người khảo
nghiệm, đánh giá và sử dụng. Quan hệ đối tác đó cũng cần thiết cho việc cải
tiến và phát triển kiến thức cổ truyền trên cơ sở phân tích khoa học.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mặt khác, các cơ quan KHKT/Trường Đại học cũng thường được
hưởng thụ những kinh nghiệm và sự khéo léo của người dân bản địa trong
việc bảo tồn và sử dụng tài nguyên di truyền mà không cần phải trả lệ phí
hoặc đền bù gì rõ rệt cho các cộng đồng địa phương cả.
Cũng có vài quy định về việc chia sẻ lợi ích giữa những người có liên
quan, nhưng các quy định này thường có lợi cho người tạo giống, nhiều hơn
là cho các cộng đồng địa phương là người nắm giữ kiến thức cổ truyền.
Nói riêng về lĩnh vực tri thức cổ truyền, thì sử dụng và thương mại hoá
được thực hiện theo ba cách (kể cả trường hợp cây trồng, cây dược liệu và
các phương pháp thực tiễn):
a. Tri thức cổ truyền đã trở thành phổ biến và được sử dụng rộng rãi.
Thí dụ, đa số các phương pháp canh tác là phổ biến, vì các tri thức bản địa

thường được phát triển tăng tiến dần dần và do tập thể, cho nên thường khó
xác định rõ cá nhân nào hoặc nhóm người nào là tác giả sáng chế của một
bài thuốc cổ truyền hoặc một giống cây trồng có ích tuy rằng trong nhiều
trường hợp, cuối cùng chính các cộng đồng địa phương là người bảo vệ và
chăm sóc đa dạng sinh học.
Một nét có tính chất dân gian, nhất là ở các vùng nông thôn, nhiều loài
cây dược liệu được trồng trong vườn nhà và hàng ngày đuợc nhân dân sử
dụng như: mơ tam thể, gừng, hoè
Các loài cây thuốc khác đã được thuần hoá và trồng rộng rãi ở quy mô
sản xuất lớn như: Sâm đại hành, Ích mẫu, Xuyên tâm liên
Có khi, việc kết hợp giữa y học cổ truyền và y học hiện đại rất có ích và
có thể chữa các bệnh nghiêm trọng, như Thanh thảo chữa bệnh sốt rét, Dừa
cạn chữa bệnh ung thư máu Những thành quả như vậy thường được triển
khai bởi các Viện KHKT và các Xí nghiệp dược phẩm, các sản phẩm của họ
được đăng ký với các nhãn hàng (Tên thương phẩm) của họ.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
b. Việc nhân và sản xuất giống do nông dân thực hiện, phần lớn pgục
vụ cho nhu cầu của gia đình, một phần dùng để trao đổi. Họ có quyền mặc
nhiên giữ lại các hạt giống mới để tái tạo và dùng sau đó hoặc để trao đổi
với nhau, mà không trả bất cứ một khoản lệ phí nào cho người tạo giống.
c. Đối với trường hợp cây dược liệu và các phương pháp chữa bệnh cổ
truyền, có nhiều khi mà bí quyết vẫn được giữ như một bí mật riêng. Có thể
có một người nào đó nắm giữ được thông tin về một loài cây đặc thù nào đó
(nơi cây mọc, các đặc trưng, tác dụng chữa bệnh, cách chế biến, liều lượng
và cách dùng để chữa bệnh). Trong nhiều trường hợp, vì đơn thuốc theo y
học cổ truyền thường chứa nhiều vị, thay đổi tuỳ theo điều kiện cụ thể của
bệnh nhân, một cây thuốc có thể được dùng trong nhiều bài thuốc với những
liều lượng khác nhau, phối hợp với các cây khác, cho nên có những bài
thuốc được tổ tiên để lại và được coi là “những bí mật của gia đình” được
truyền từ đời này tới đời khác. Kiểu tri thức không Paten, không chính thức,

nhưng được thừa nhận đó đã giúp cho người ta có thu nhập và không muốn
truyền thụ. Người nắm được bài thuốc cũng không muốn đăng ký xin bảo hộ
vì họ sợ điều bí mật sẽ bị lộ cho người khác.
Nhân tiện cũng cần nêu nên rằng, những tri thức quý giá đó, cùng với
việc mất các giống cây địa phương và sự tàn phá những nơi cư trú, đang
biến dần với tốc độ đáng báo động. Sự suy giảm của các loài dược liệu nói
chung, và các loài quý nói riêng, là do phá rừng quy mô lớn và do thu hái
quá mức. Một bà lang người Mường ở Hoà Bình buồn rầu nhận xét rằng
“những cánh rừng mất đi thì cũng làm mất luôn nhiều loài cây thuốc không
thể tìm thấy tại những vùng trồng trọt lớn, nơi người ta trồng các loại cây
mọc nhanh”. Tri thức cổ truyền của bà cũng không thể truyền lại cho con
cháu được, vì chẳng còn cây thuốc mà dùng nữa . Sự việc này cũng cho
thấy, khiếm khuyết trong chính sách và luật pháp đã gây tổn thất cho tất cả
đa dạng sinh học và kiến thức cổ truyền.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH KHAI THÁC TÀI NGUYÊN DƯỢC LIỆU
Ở HUYỆN SA PA TRONG THỜI GIAN QUA
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HUYỆN SA PA
Sa Pa tên gọi này là từ tiếng Quan Thoại. Theo tiếng Quan Thoại, ”Sa”
là cát, ”Pả” là bãi. Địa danh của “bãi cát” này ở bên phải cầu Km32 từ thị xã
Lào Cai vào Sa Pa. Ngày xưa chưa có thị trấn Sa Pa, cư dân của vùng đất
này đều họp chợ ở “bãi cát“ đó, do vậy, dân địa phương ai cũng nói là ”đi
chợ Sa Pả”.
Từ hai chữ “Sa Pả”, người phương Tây phát âm không có dấu, nên
thành Sa Pa, họ đã viết bằng chữ Pháp hai chữ đó là “Cha Pa” và một thời
gian rất lâu người ta thường gọi là “Cha Pa” theo nghĩa của từ tiếng Việt.
Còn thị trấn Sa Pa ngày nay, trước kia có một mạch nước đùn lên đục
đỏ, nên dân địa phương gọi là “Hùng Hồ”, ”Hùng” là đỏ, ”Hồ” là hà, là suối
đỏ.

Huyện Sa Pa ngày nay có 37.816 người gồm 6 dân tộc cư trú là Mông,
Dao, Tày, Giáy, Xa Phó và Kinh ngoài ra còn có hai hộ người Hoa cư trú ở
thị trấn. Chạy dọc theo chân núi Hoàng Liên Sơn, từ phía Bắc dưới chân
Ngũ Chỉ Sơn giáp Mường Hum (Bát Xát) đến phía Nam giáp với xã Nậm
Chày, Nậm Mả (Văn Bàn) với diện tích là 678 km
2
. Huyện Sa Pa có 17 xã
và 1 thị trấn.
Sa Pa có đỉnh Phan-Xi-Phăng cao 3.143 mét, trên dãy Hoàng Liên Sơn.
Gọi là Hoàng Liên Sơn vì duy nhất trên dãy núi này có cây Hoàng Liên, một
loại dược liệu quý, hiếm, ngoài ra dãy Hoàng Liên còn là “mỏ” của loài gỗ
quý như thông dầu, của chim thú như gà gô, gấu, khỉ sơn dương và của
hàng ngàn loại cây dược liệu. Khu rừng quốc gia Hoàng Liên có 136 loài
chim, 56 loài thú, 553 loài côn trùng. Có 37 loài thú được ghi trong ”sách đỏ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Việt Nam”. Rừng Hoàng Liên có 2027 loài thực vật, trong đó có 328 loài
cây thuốc.
Huyện Sa Pa có núi Hàm Rồng ở sát ngay thị trấn, bất kỳ du khách nào
cũng có thể lên đó để ngắm toàn cảnh thị trấn, thung lũng Mường Hoa, Sa
Pả, Tả Phìn ẩn hiện trong sương trong mây mà chỉ riêng thị trấn Sa Pa mới
có. Hiên nay, với bàn tay tôn tạo của con người, Hàm Rồng thực sự là một
thắng cảnh đầy hoa trái của Sa Pa. Và nếu ai đến Thạch Lâm (Vân Nam,
Trung Quốc ) thì Hàm Rồng cũng có thể giúp các bạn tưởng tượng ra Thạch
Lâm được. Lên Hàm Rồng, du khách như lạc vào vườn tiên, mây ùn kín
thân người, hoa rực rỡ mặt đất.
Huyện Sa Pa còn có nhà thờ cổ ở ngay thị trấn và từ thị trấn đi ngược
về phía Đông Bắc, trên đường đi tới động Tả Phìn lại có một tu viện được
xây gần như hoàn toàn bằng đá tại một sườn đồi quang đãng, thoáng mát.
Qua tu viện đi bộ 3 cây số theo hướng Bắc ta đến một hang động với độ
rộng có thể đủ chứa một trung đoàn người. Trong hang có nhiều nhũ đá tạo

nên những hình thù kỳ thú như hình tiên múa, đoàn tiên ngồi, cánh đồng xa,
rừng cây lấp lánh. Tại Tả Phìn này với 2 tộc người là Mông và Dao đã tạo
nên cơ sở sản xuất mặt hàng thổ cẩm khá nổi tiếng để bán cho du khách đến
Sa Pa.
II. ĐÁNH GIÁ CÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN
1. Vị trí địa lý, kinh tế
Huyện Sa Pa là huyện vùng cao của tỉnh Lào cai có diện tích tự nhiên là
67.905 ha, chiếm 8,44% diện tích toàn tỉnh.
• Toạ độ địa lý:
Vĩ độ Bắc: 22
o
00

00
’’
đến 22
o
10

00
’’
Kinh độ Đông : 102
o
51

105
’’
đến 103
o
92


00
’’
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Huyện Sa Pa là huyện miền núi, có khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng. Và
trên trục kinh tế trọng điểm Sa Pa - Cam đường – Lào Cai nối liền Việt Nam
với Vân Nam, Trung quốc.
Có thể thấy đây là lợi thế rất quan trọng để giao lưu hàng hoá, phát
triển kinh tế, văn hoá, dịch vụ …Nền kinh tế Sa Pa có cơ cấu: Dịch vụ (du
lịch và dịch vụ), Nông nghiệp (cả lâm nghiệp) và Công nghiệp (chủ yếu là
tiểu thủ công nghiệp và sửa chữa nhỏ).

+ Huyện Sa Pa có dãy Hoàng Liên Sơn, là một phần mái nhà xanh có
vai trò rất quan trọng trong việc phòng hộ đầu nguồn sông Hồng và đồng
bằng Bắc Bộ.
+ Huyện Sa Pa cùng với huyện Bát xát, Phong thổ, thị xã Lào Cai là
vùng núi cao nhất của cả nước, nó có vị trí rất quan trọng đối với an ninh
quốc phòng trong việc bố trí xây dựng phòng tuyến biên giới phía bắc.
2. Đặc điểm địa hình, khí hậu
Sa Pa là huyện vùng cao của tỉnh Lao Cai, có độ cao trung bình 1.500
mét, cao nhất là đỉnh Phan Xi Păng 3.143 mét, thấp nhất tại suối Bo độ cao
200 mét.
Kết quả phân tích địa hình theo độ cao cho thấy:
- Đai độ cao dưới 300 m chiếm 17,1% diện tích.
- Đai độ cao từ 300 -700 m, chiếm 17,8% diện tích.
- Đai độ cao từ 700 - 1700 m, chiếm 41,5% diện tích.
- Đai độ cao trên 1.700 m chiếm 23.6% diện tích.
Do điều kiện địa hình dốc, chia cắt mạnh đã ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt đối với sản xuất Nông - Lâm nghiệp,
xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi việc xây dựng các vùng

Website: Email : Tel : 0918.775.368
chuyên canh với quy mô tập trung bị hạn chế đặc biệt là việc sử dụng các
biện pháp kỹ thuật làm đất, tưới tiêu
Do sự phân tầng theo độ cao của địa hình đa dạng, nên huyện Sa Pa có
nhiều khả năng bố trí hệ thống cây trồng đa dạng: từ tập đoàn cây nhiệt đới
đến ôn đới từ cây lương thực đến cây công nghiệp, cây ăn quả có các nguồn
gốc khác nhau, đặc biệt là các cây ưa lạnh cây dược liệu quý hiếm.
3. Tài nguyên đất
Bằng cách chọn: địa hình, khí hậu, độ dốc, độ dày tầng đất và loại đất
theo thành phần đá mẹ làm các yếu tố tham gia phân loại. Trên cơ sở hệ lưu
giữ thông tin địa lý, quá trình phân loại được tiến hàng bằng phương pháp
chồng sếp các bản đồ đơn tính để xây dựng bản đồ lập địa.
* Địa hình, khí hậu.
Đặc điểm nổi bật đất đai huyện SaPa là địa hình chia cắt phức tạp, chi
phối mạnh mẽ chế độ khí hậu, không chỉ theo quy luật đai cao mà còn đưa
đến sự phân hoá cục bộ chế độ nhiệt, ẩm do sườn có hướng phơi chắn hay
khuất gió.
BẢNG 1: DIỆN TÍCH CÁC KIỂU ĐỊA HÌNH, KHÍ HẬU HUYỆN SAPA
TT Kiểu địa hình - Khí hậu Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
Tổng 67.905,00 100
1 Núi cao - Á nhiệt đới ẩm 16.009,00 23,60
2 Núi trung bình - Á nhiệt đới ẩm 28.192,00 41,50
3 Núi thấp - Á nhiệt đới ẩm 12.103,00 17,8
4 Đồi – Nhiệt đới ẩm 3.581,00 5,30
5 Phù sa suối - Đất dốc tụ nhiệt đới ẩm 1.381,00 2,00
6 Núi đá - Đất khác 6.639,00 9,80
* Núi cao - Á nhiệt đới ẩm
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kiểu địa hình, khí hậu này phân bố hầu hết các xã miền Tây của huyện.
Địa hình chia cắt phức tạp, thảm thực vật phát triển, còn nhiều rừng thực vật

nguyên sinh trong khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Sơn, còn tiềm chứa
nguồn đa dạng sinh học phong phú, dân cư phân bố thưa thớt, chủ yếu là
người H’Mông. Là địa hình chỉ nên phát triển thuần tuý Lâm nghiệp bảo vệ
rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn.
* Núi thấp - Á nhiệt đới ẩm
Phân bố hầu hết các xã trong huyện. Ở đây, trước kia rừng còn tốt, hiện
đã bị tác động của tự nhiên và con nguời một số nơi chỉ còn lại rừng nghèo
và đồi núi trọc. Dân cư tập trung chủ yếu là người H’Mông, Dao là địa hình
cần được khoanh nuôi, tái sinh và bảo vệ rừng song song với phát triển kinh
tế để cải thiện đời sống cho nhân dân thông qua các mô hình Nông - Lâm
kết hợp.
* Đồi – Nhiệt đới ẩm
Phân bố hầu hết ở các xã, nhất là các xã trong vùng hạ huyện. Với đặc
điểm nổi bật là có diện tích đất trống, đồi núi trọc chiếm tỷ lệ lớn, đang
được phân hoá thành:
- Khu vực khoanh nuôi phục hồi rừng.
- Đất sản xuất Nông - Lâm của các hộ gia đình.
- Tiếp đến là đất trống đồi núi trọc.
Đây là địa bàn sinh sống của các dân tộc H’Mông, Dao, Xạ Phó, Thái,
Tày, Kinh, cần có chính sách khuyến nông, khuyến lâm tích cực để nông
dân có đủ khả năng phát triển kinh tế vườn, trang trại, kinh tế R-VAC vốn
rất phù hợp với điều kiện tự nhiên và nguyện vọng của nông dân trong vùng.
* Phù sa suối - Đất dốc tụ nhiệt đới ẩm
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần lớn là đất sản xuất lương thực (lúa nước, màu), cây công nghiệp,
cây ăn quả, rau màu Đất được sử dụng tương đối triệt để, ổn định. Nhiều
mô hình Nông - Lâm nghiệp kết hợp xuất hiện và đã cho hiệu quả kinh tế.
Tóm lại : Tài nguyên đất của huyện Sa Pa đa dạng và phong phú, đất
còn tốt và phù hợp với nhiều loại cây trồng, song vẫn có những khó khăn
như điều kiện địa hình chia cắt phức tạp, độ dốc lớn, độ mưa trong năm cao,

tỷ lệ che phủ của rừng thấp. Chính vì vậy, một số đất đai bị sói mòn, rửa trôi
dẫn đến nghèo kiệt, bạc màu. Để bảo về và phát huy tiềm năng đất đai của
Sa Pa có hiệu quả, việc bảo vệ, phát triển rừng và phương thức canh tác bền
vững trên đất dốc với hệ thống cây trồng hợp lý là vấn đề cần quan tâm hàng
đầu hiện nay. Kết quả phân tích cho thấy ở huyện Sa Pa có 6 loại hình sử
dụng đất:
- Phát triển rừng và cây dược liệu có diện tích 23.394 ha.
- Phát triển rừng cộng Nông Lâm kết hợp có diện tích 22.619 ha.
- Nông Lâm kết hợp cộng dược liệu có diện tích 323 ha.
- Nông Lâm kết hợp và trồng cây ăn quả có diện tích 13.172 ha.
- Cây công nghiệp cộng cây ăn quả có diện tích 377 ha.
- Cây lương thực và rau màu có diện tích 1.381 ha.
Còn việc chọn cây cụ thể là tuỳ thuộc vào đặc điểm của đất đai, ở đây
tôi chưa có điều kiện để nghiên cứu chi tiết.
4. Tài nguyên rừng.
• Diện tích các loại rừng
Tổng diện tích tự nhiên huyện Sa Pa là 67.905 ha, trong đó;
- Diện tích có rừng là 22.618 ha chiếm 33,3%.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Rừng tự nhiên là 20.543 ha, chiếm 30,3% diện tích tự nhiên của
huyện và chiếm 90,8% diện tích có rừng, trong đó:
- Rừng gỗ: 19.679 ha chiếm 95,8% diện tích rừng tự nhiên.
+ Rừng giàu: 1.482 ha, trữ lượng bình quân 197 m
3
/ha.
+ Rừng trung bình: 3.607 ha, trữ lượng bình quân 147 m
3
/ha.
+ Rừng nghèo: 5.068 ha trữ lượng bình quân 77 m
3

/ha.
+ Rừng phục hồi: 9522 ha, trữ lượng bình quân 44 m
3
/ha.
Rừng che lứa, vầu chiếm 4,2% diện tích rừng tự nhiên.
Rừng trồng: 2075 ha chiếm 3% diện tích toàn huyện, tổng trữ lượng
57.828 m
3
. Bao gồm các loại cây Sa mộc, tống quán sủi, bồ đề, trẩu
Ngoài ra, dưới tán rừng hiện nay có khoảng 1.400 ha thảo quả và các
loại dược liệu khác.
Như vậy, độ che phủ của rừng Sa Pa thấp, 33,3% . Trong đó rừng giàu
chỉ còn 7,2% diện tích rừng tự nhiên, còn lại rừng đã bị tác động, đặc biệt là
diện tích rừng nghèo, rừng phục hồi, chiếm 71% diện tích rừng tự nhiên.
Rừng trồng chiếm tỷ lệ thấp, trong đó diện tích đất trống đồi núi trọc
còn rất lớn; 34.641 ha, nó phản ánh tiềm năng lớn về đất đai song cũng là
thách thức lớn trong công tác trồng rừng, phục hồi rừng ở Sa Pa.
• Tài nguyên thực vật:
Đặc điểm khu hệ thực vật rừng Sa Pa: Do tính chất khí hậu thổ nhưỡng
như đã trình bày, nên rừng của Sa Pa pha trộn giữa nhiệt đới, á nhiệt đới, và
ôn đới núi cao với 6 kiểu rừng.
- Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới.
- Rừng kín thường xanh cây lá rộng nhiệt đới gió mùa núi thấp.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới gió mùa trên mức trung
bình.
- Rừng kín thường xanh hỗn giao cây lá rộng, lá kim.
- Rừng lá kim nhiệt đới núi cao (rừng rêu).
- Rừng cây lùn đỉnh núi.
• Tài nguyên động vật rừng

Huyện Sa Pa có hệ động vật rừng phong phú, kết quả điều tra động vật
rừng của vườn quốc gia Hoàng Liên có 37 loài động vật quý hiếm được ghi
trong sách đỏ Việt Nam, bao gồm: 15 loài thú, 5 loài chim, 16 loài bò sát
lưỡng cư.
Trong đó có các loài như : Hổ, Báo, Vượn, Lợn rừng, Công, Trăn,…
Chính vì vậy, khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Sơn đã được Nhà
nước ra Quyết định 194 - CT/1986 là một trong 87 khu bảo tồn quốc gia.
Ngày 11/1/1994, UBND tỉnh Lao Cai có Quyết định số 25 - QĐUB v/v phê
chuẩn dự án khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Sơn rộng 29.831 ha, trong
đó huyện Sa Pa có 22.281 ha chiếm 74,7% diện tích khu bảo tồn. Và năm
1998 Chính phủ đã có Quyết định nâng khu bảo tồn lên thành vườn quốc
gia Hoàng Liên Sơn.
5. Tài nguyên nhân lực
Huyện Sa Pa có 7 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó: người
H’Mông chiếm 53%. Dao 26%. Kinh 12,8%, Dáy 2,5%, Sa phó, Tày, Thái
5,7%. Tỷ lệ trong đó các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Mèo - Dao chiếm
97,9% Mường - Kinh chiếm 12,8%, các nhóm khác 8,2%.
Thực tế cho thấy mỗi dân tộc thường cư trú trên từng địa bàn nhất định
với phong tục tập quán riêng biệt thể hiện bản sắc văn hoá của dân tộc mình.

×