Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

cách thức tiếp cận và xử lý thông tin chứng khoán của phóng viên kinh tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.1 KB, 93 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
“ Thị trường chứng khoán là phong vũ biểu của nền kinh tế”
(Danh ngôn)
Năm 2000, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) tại thành
phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM) mở cửa đánh dấu sự ra đời của thị trường chứng
khoán Việt Nam (TTCK VN). 5 năm sau, ngày 8/3/2005, TTGDCK Hà Nội
(HN) cũng chính thức khai trương hoạt động. Đây là lĩnh vực không còn xa lạ
trên thế giới nhưng lại rất mới mẻ ở Việt Nam - lĩnh vực được ước đoán sẽ có
tốc độ phát triển như vũ bão, hứa hẹn mở ra thật nhiều cơ hội cho những
người thực sự am hiểu về nó.
Kinh tế là lĩnh vực hoạt động cơ bản, phức tạp và có tính quyết định
đối với sự phát triển của xã hội. Trong nền kinh tế thị trường - định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, thông tin đang trở thành một nguồn lực
quan trọng góp phần to lớn không chỉ trong công tác quản lý điều hành các
hoạt động kinh tế mà còn góp phần tạo ra các giá trị mới. Bên cạnh những bài
báo chính xác, khách quan về hoạt động mọi mặt của thị trường chứng khoán,
vẫn còn nhiều bài viết vội. Người viết chưa tìm hiểu kỹ cách vận hành thị
trường nên còn nhiều sai sót đáng tiếc. Điều này cũng dễ hiểu, vì ở Việt Nam
ta, rất có thể một người chuyên viết về bình luận kịch nghệ hay phê bình văn
học nay nhảy sang viết kinh tế, làm sao tránh sai sót.
Không phải ngẫu nhiên mà ở xã hội văn minh, trong thời đại kinh tế tri
thức và toàn cầu hoá mạnh mẽ, thông tin được coi là thứ hàng hoá đắt giá
nhất, thậm chí còn quý hơn vốn liếng. TTCK luôn biến đổi, có thể làm cho
nhà đầu tư (NĐT) thắng lớn hoặc thua đậm trong thời gian ngắn. Thời đại
ngày nay là thời đại: “Ai nắm được thông tin coi như nắm được thành công
trong tay.” Nói như vậy để thấy được tầm quan trọng của truyền thông nói
1
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


chung và báo chí nói riêng trong việc tuyên truyền, đưa thông tin về các vấn
đề kinh tế của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, sự thành
công đó còn phụ thuộc vào khả năng nhận thức, cách xử lý, sự sáng tạo của
người sử dụng thông tin.
Người ta nói, TTCK như chiếc «phong vũ biểu» của nền kinh tế. Sức
khỏe của nền kinh tế được phản ánh hàng ngày, hàng giờ trên TTCK. Mọi
thông tin kinh tế từ vĩ mô đến vi mô đều có thể ảnh hưởng tức thời tới hoạt
động của TTCK. Ngược lại, với vai trò là kênh dẫn vốn trực tiếp cho nền
kinh tế, mọi thay đổi của TTCK cũng có thể hưởng đến tình hình kinh tế và
hệ thống doanh nghiệp.
 Xuất phát từ những điều đó, chúng tôi lựa chọn đề tài “Cách thức tiếp
cận và xử lý thông tin chứng khoán của phóng viên kinh tế ở Việt
Nam (Khảo sát Thời báo Kinh tế Việt Nam, báo Đầu tư chứng khoán và
kênh truyền hình tài chính – kinh tế INFO TV trong 3 tháng đầu năm
2007)”
1.2 Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Khi đánh giá về mức tác động của báo chí đối với TTCK, một chuyên gia
đã có nhận xét: “Nhiều người có thể thấy nhà báo viết về mảng an ninh, xã
hội thường phải có thần kinh thép khi liên tục phải đưa tin về các vụ án, cướp
của, giết người, hiếp dâm Tuy nhiên, chính những người làm báo kinh tế
mới phải là những người có thần kinh thép khi động đến những vấn đề sống
còn của một cá nhân, tổ chức, thậm chí cả một nền kinh tế”. TTCK thăng
hoa, số lượng NĐT tăng chóng mặt khiến vai trò của thông tin báo chí ngày
càng trở nên quan trọng.
Với đề tài này, chúng tôi mong muốn có thể làm sáng tỏ được các vấn đề
sau:
2
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Thứ nhất: Tìm hiểu quá trình truyền tải thông tin chứng khoán ảnh

hưởng như thế nào, tác động đến những đối tượng nào. Đánh giá về nhu cầu
của xã hội đối với lĩnh vực này.
- Thứ hai: Tìm hiểu về cách thức tiếp cận và xử lý thông tin của đội ngũ nhân
lực (cung) – các phóng viên kinh tế đang từng ngày từng giờ cập nhật những
thông tin mới nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam trên mặt báo. Đặt ra
vấn đề đạo đức của nghề báo đặc biệt với phóng viên viết mảng kinh tế tài
chính.
Khảo sát trên hai tờ báo giấy (Thời báo Kinh tế Việt Nam và báo Đầu
tư chứng khoán) và một kênh truyền hình tài chính – kinh tế INFO TV cùng
một số tờ báo điện tử khác để thấy cách thức tổ chức, cách đưa tin, đăng tải
tin tức về vấn đề này. Trên cơ sở đó sẽ có một cái nhìn toàn cảnh về thông tin
TTCK trên báo chí và những tác động của nó đối với thị trường đầy tính nhạy
cảm này.
- Thứ ba: Đưa ra những nhận định, đề xuất về quá trình xử lý và truyền tải
thông tin cho đông đảo độc giả của người làm báo về chứng khoán. Nhận xét
về cách làm và gợi mở một số hướng đi cho phóng viên làm báo kinh tế
chuyên nghiệp (đặc biệt là phóng viên phụ trách thông tin chứng khoán).
1.3 Phương pháp nghiên cứu
- Tìm hiểu một cách cơ bản và có hệ thống các khái niệm của TTCK.
- Khảo sát chính trên hai tờ báo giấy: Thời báo Kinh tế Việt Nam và Báo
Đầu tư chứng khoán và kênh truyền hình tài chính – kinh tế INFO TV
(VCTV9) để xem xét cách sắp đặt chuyên mục, cách tiếp cận và xử lý thông
tin, độ xác thực của thông tin về thị trường chứng khoán (theo những phản
hồi của thị trường những ngày sau đó)…
- Khảo sát trên một số sàn giao dịch chứng khoán lớn ở Hà Nội về phản
ứng và niềm tin của nhà đầu tư với thông tin chứng khoán trên báo chí.
3
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Phỏng vấn một số phóng viên kinh tế về các “tai nạn nghề nghiệp” có

thể xảy ra trong quá trình đưa tin về thị trường nhạy cảm và luôn tiềm ẩn rủi
ro, biến động này.
GIẢI NGHĨA THUẬT NGỮ CƠ BẢN VỀ CHỨNG KHOÁN
4
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
IPO: Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng
Bản cáo bạch: Là tài liệu do công ty phát hành trước khi tiến hành IPO tài
liệu này cung cấp những chi tiết về tài chính, kế hoạch kinh doanh, và các
thông tin khác cần thiết về công ty cho các nhà đầu tư tiềm năng.
Bản cân đối tài chính: Là báo cáo tài chính về các khoản cân đối tài sản so
với nợ.
Báo cáo lợi nhuận: Là báo cáo về lợi nhuận và chi phí trong một khoản thời
gian nhất định. Một công ty niêm yết sẽ được yêu cầu làm báo cáo lợi nhuận
thường kỳ vì các nhà đầu tư sẽ dựa vào bản báo cáo này để đánh giá cổ phiếu.
Chứng khoán ký quỹ Mỹ (ADR): Được ngân hàng Mỹ phát hành đại diện
cho cổ phần của một công ty nước ngoài mà công ty này đang nắm giữ, có
thể giao dịch được trên thị trường chứng khoán New York như là cổ phần của
công ty này.
Chứng khoán ký quỹ toàn cầu (GDR): Tương tự như chứng khoán ký quỹ
Mỹ nhưng được phát hành bằng các tiền tệ khác ngoài đô la Mỹ. Nó cho phép
các công ty của các nước đang phát triển được niêm yết trên các thị trường
chứng khoán khác trên thế giới ngoài chứng khoán New York.
Chợ đen (OTC): là thị trường không chính thức, trên đó các nhà đầu tư có
thể mua cổ phiếu của các công ty không niêm yết. Giao dịch trên chợ đen
thường không được các nhà quản lý thị trường khuyến khích vì nó không
đựoc quản lý, và có nhiều rủi ro hơn thị trường chính thức.
Chỉ số: Tất cả các thị trường chứng khoán đều có ít nhất một chỉ số được
dùng để theo dõi hoạt động của các cổ phiếu niêm yết. Chỉ số sẽ dựa trên dao
động giá cả và lấy mức bình quân để tính mức thay đổi. Một vài chỉ số bao

gồm tất cả các cổ phiếu niêm yết, nhưng phần lớn tập trung vào các nhóm
nhỏ (Có thể là đại diện cho một ngành công nghiệp cụ thể, hoặc các cổ phiếu
bluechip, hoặc đại diện liên ngành trên toàn thị trường)
5
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chia cổ phiếu: là khi một cổ phiếu đang lưu hành được phân chia ra để tăng
hoặc giảm cổ phiếu. Thường thì để tăng tổng số cổ phiếu, và nhằm giúp việc
tiêu thụ các cổ phiếu này trong tương lai bằng cách tăng tính thanh khoản và
làm các cổ phiếu này rẻ hơn. Quá trình này không ảnh hưởng đến sở hữu
tương đối của các nhà đầu tư hiện thời vì số cổ phiếu họ đang nắm giữ sẽ
cùng tăng hoặc giảm theo cùng một tỷ lệ.
Chứng khoán: là cổ phiếu hoặc trái phiếu
Cổ phần: là sở hữu thông qua cổ phiếu.
Cổ phần vốn: là tổng số cổ phần đang lưu hành.(Xem cổ phần thường và cổ
phần ưu tiên)
Cổ phần thường: là cổ phần phát hành ra đại đa số cổ đông. Cổ đông có
quyền biểu quyết kế hoạch những hoạt động kinh doanh của công ty và nhận
cổ tức, nếu công ty không kiếm đủ lợi nhuận để trả cổ tức thì tất cả các cổ
đông nắm giữ cổ phần thường sẽ chỉ được thanh toán sau khi các cổ đông có
cổ phần ưu tiên đã được thanh toán.
Cổ tức: là tiền công ty thanh toán cho các cổ đông. Số tiền thanh toán này
thay đổi đối với cổ đông thường vì lợi nhuận công ty sẽ thay đổi và sẽ cố
định với cổ đông ưu tiên.
Cổ tức cổ phiếu: là cổ tức được trả bằng cổ tức thay vì bằng tiền mặt.
Dao động: là các thay đổi trong giá cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường.
Nói chung càng ít dao động thì thị trường càng được coi là an toàn và sẽ thu
hút được nhiều nhà đầu tư dài hạn.
Đầu cơ cổ phiếu giá rẻ: Là khi mua cổ phiếu với giá thấp và dự đoán rằng
giá sẽ tăng.

Đầu cơ hay đầu tư ngắn hạn: là các giao dịch cổ phiếu và trái phiếu nhằm
thu lợi qua thay đổi trong giá cả trong một thời gian ngắn. (Giờ, ngày, tuần).
Các nhà đầu tư tham gia đầu cơ có thể thu mua cổ phiếu hay trái phiếu dựa
6
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trên những tính toán về bản chất của một công ty hoặc chính phủ mà chỉ
muốn kiếm lời nóng dựa trên những suy tính về biến động của thị trường.
Đầu tư dài hạn: Là đầu tư vào cổ phiếu của công ty với mục đích muốn nắm
giữ nó trong một thời gian dài để kiếm lợi từ tốc độ phát triển của công ty và
thanh thoán cổ tức.
Đầu tư lẻ: là một nhà đầu tư cá thể, ngược lại với nhà đầu tư định chế là một
quỹ hoặc một ngân hàng.
Quỹ đầu tư mở: là các quỹ liên tục bán cổ phiếu mới cho các nhà đầu tư
miễn là nhìn ra nhu cầu cho cổ phiếu đó. Cũng như quỹ tín thác, sau đó họ sẽ
thay mặt các cổ đông, đầu tư số tiền huy động thông qua bán cổ phiếu. Vì
không có thời hạn cố định theo đó quỹ này phải thanh khoản nên khi cổ đông
muốn lấy lại tiền, họ sẽ bán cổ phiếu đi. Giá các cổ phiếu này phụ thuộc vào
cả giá trị của dự án đầu tư lẫn giá trị của quỹ đầu tư đựơc niêm yết trên thị
trường này.
Giá đặt mua và giá chào bán: Là giá cao nhất người mua muốn trả cho một
loại chứng khoán(Cổ phiếu hoặc trái phiếu) trong khi giá chào bán là giá thấp
nhất người bán chấp nhận. Hai loại giá này sẽ hợp thành thị giá.
Giá thị trường của công ty: là giá các nhà đầu tư muốn trả. Được tính toán
bằng cách nhân giá cổ phiếu mới nhất của công ty với số lượng cổ phiếu lưu
hành.
Giá trị danh nghĩa: là giá trị của cổ phiếu hoặc trái phiếu được in trên bề
mặt của cổ phiếu hoặc trái phiếu. Nó không bao gồm bất kỳ lãi suất nào sẽ
được trả cho người mua.
Giá trị ghi sổ: Là giá trị cổ phiếu của công ty được tính bằng cách lấy tổng

số tài khoản trừ các khoản nợ chia cho tổng số cổ phiếu đang lưu hành.
Hao mòn: là khi giá trị của tài sản sụt giảm theo thời gian.
Kiếm lời cổ phiếu: là được bán ra khi giá của nó cao hơn giá nhà đầu tư trả
khi mua. Đây là cách thức để kiếm lời ngay lập tức. Nếu có nhiều nhà đầu tư
7
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vào các công ty khác nhau cùng tiến hành hoạt động kiếm lời, thì quy mô của
hoạt động này sẽ đẩy trị số thị trường tụt xuống.
Lợi nhuận/cổ phiếu EPS: Là số tiền lãi của công ty tính trên mỗi cổ phiếu.
Con số này được tính bằng cách chia tổng lợi nhuận cho tổng số cổ phiếu.
Năm tài chính: là khoảng thời gian 12 tháng mà sau đó công ty niêm yết
phải công bố và củng cố báo cáo kế toán.
Ngân hàng đầu tư: là ngân hàng đóng vai trò trung gian giữa các công ty
muốn bán cổ phiếu và giới đầu tư. Họ còn gọi là nhà bảo lãnh phát hành cổ
phần.
Nhà đầu tư định chế: Là các công ty chỉ chuyên mua và bán cổ phiếu, trái
phiếu hoặc các tài sản có thể giao dịch khác bằng tìên của họ hoặc tiền của
khách hàng.
Quỹ đầu tư tín thác: là quỹ mà ở đó các nhà đầu tư đầu tư tiền trong một
khoảng thời gian nhất định, cho phép những người quản lý quỹ được đầu tư
tiền thay mặt họ. Họ được sở hữu cổ phần của quỹ để đổi lấy tiền họ đầu tư
vào quỹ. Khi đến hạn, quỹ sẽ được giải tán và số tiền huy động được sẽ chia
đều cho các nhà đầu tư tuỳ theo số lượng cổ phiếu họ nắm giữ.
Thị trường sụt giá: là khi giá các cổ phiếu bị giảm và các nhà đầu tư không
lạc quan lắm mọi việc diễn ra theo chiều hướng ngược lại khi thị trường tăng
giá.
Tính thanh khoản: là mức độ giao dịch giữa người mua và người bán trên
thị trường dễ đến đâu. Nó có thể dùng để mô tả vị thế tài sàn của công ty.
Trái phiếu chuyển đổi: là loại trái phiếu có thể dùng để đổi lấy cổ phiếu

thường. Một vài cổ phiếu ưu tiên có thể chuyển đổi sang cổ phiếu thường.
Tỷ số giá trên lời cổ phần P/E: Cho phép các nhà đầu tư so sánh một cách
tương đối thực chất của các cổ phiếu niêm yết được tính bằng cách chia giá
của mỗi cổ phiếu cho lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS), lợi nhuận trên cổ phiếu
càng cao thì nhà đầu tư càng muốn mua cổ phiếu của công ty và càng có
8
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
niềm tin công ty sẽ thành công trong tương lai. P/E rất hữu dụng khi so sánh
các công ty trong cùng một ngành công nghiệp vì công ty này sẽ có viễn cảnh
tăng trưởng giống nhau. Một công ty có P/E cao hơn công ty khác trong cùng
ngành hoặc là kinh doanh tốt hơn hoặc là đang được các nhà đầu tư đánh giá
quá cao.
Chương I
ẢNH HƯỞNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1 Chứng khoán là gì?
Chứng khoán là chứng chỉ dưới dạng giấy tờ hoặc bản ghi, có giá và
có khả năng chuyển nhượng, xác định khoản đầu tư dài hạn và xác nhận các
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản
hoặc vốn của tổ chức phát hành.
(Theo cuốn 144 câu hỏi đáp về thị trường chứng khoán Việt
Nam, Hồ Ngọc Cẩn - Nxb Thống kê, 2007)
Như vậy, chứng khoán không phải là tài sản thực như nhà cửa, đất đai, máy
móc, vàng bạc… mà là tài sản tài chính tồn tại dưới dạng chứng chỉ bằng giấy
hoặc có thể chỉ là những dữ liệu trong máy tính, sổ sách. Những tài sản tài chính
này có giá và có thể mua đi bán lại dễ dàng giữa những NĐT với nhau. Mua tài sản
tài chính đồng nghĩa với việc đầu tư vốn vào tổ chức phát hành ra chúng.
9
9

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngoài hai loại chứng khoán cơ bản là cổ phiếu và trái phiếu còn phải
kể đến các loại chứng khoán phái sinh. Chứng khoán phái sinh là các công
cụ tài chính có nguồn gốc từ chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ với các
chứng khoán cơ bản.
Các chứng khoán phái sinh được hình thành do nhu cầu giao dịch của
người mua, người bán và phát triển phụ thuộc vào mức độ phát triển của
TTCK. Người ta thường sử dụng những loại chứng khoán phái sinh thông
dụng như hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai nhằm mục đích đầu cơ
hoặc phòng ngừa rủi ro trong đầu tư chứng khoán.
1.2 Thị trường chứng khoán ở Việt Nam
1. 2.1 Tình hình thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay
TTCK đã tạo ra kênh huy động vốn dài hạn cho Chính phủ và các doanh
nghiệp để mở rộng sản xuất và đầu tư cho phát triển.
Đến nay, đã có gần 200.000 tài khoản của NĐT trong và ngoài nước tham
gia TTCK trong nước và 107 công ty niêm yết với khối lượng niêm yết gần 1,8 tỷ
cổ phiếu (Cp), tương đương tổng giá trị niêm yết trên 17.761 tỷ đồng và mức vốn
hoá thị trường trên 244 tỷ đồng. Trong thời gian tới, số lượng NĐT cũng như các
công ty niêm yết sẽ nhanh chóng tăng lên.
7 năm hoạt động của TTCK VN là khoảng thời gian quá ngắn so với
lịch sử phát triển của TTCK thế giới. Tuy nhiên, TTCK VN đã gặt hái được
nhiều thành công rất đáng khích lệ. Đến nay, TTGDCK Tp.HCM (HoSTC) đã
tổ chức thành công 1.517 phiên giao dịch (tính đến ngày 13/4/2007) một cách
an toàn, suôn sẻ và thành công, đảm bảo tạo được lòng tin đối với NĐT cũng
như thị trường. Đặc biệt, trong tháng 2 vừa qua đã có những phiên giao dịch
đạt tổng giá trị trên 1.360 tỷ đồng/phiên và tổng khối lượng giao dịch đạt trên
12,5 triệu Cp/phiên.
10
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

HoSTC đang có 43 công ty chứng khoán tham gia làm thành viên.
Trong tháng 5/2007, HoSTC sẽ áp dụng phương thức “Giao dịch liên tục”,
nhằm tăng tính chuyên nghiệp hơn nữa trên TTCK VN – kể cả trong công tác
quản lý thị trường cũng như trong phương pháp tham gia của NĐT. Mục đích
là để TTCK VN dần theo kịp với phương pháp giao dịch tại các nước phát
triển, nhất là trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới mạnh mẽ của VN hiện
nay.
Hiện tượng TTCK giảm dần trong thời gian vừa qua, sau khi VN Index
đạt đỉnh trên 1.170 điểm do nhiều nguyên nhân. Ví dụ như: Xu hướng chung
của nền kinh tế, lãi suất ngân hàng, xu hướng chuyển đổi vốn sang các lĩnh
vực được cho là chiếm ưu thế hơn, hoặc do sức căng (nóng) của thị trường
quá lớn đưa đến việc các NĐT không dám mạo hiểm hơn nữa và chuyển lợi
nhuận sang hướng khác…
Trong đó, yếu tố cuối thường dễ diễn ra hơn. Vì những tính chất đặc
thù của TTCK, nó hoàn toàn khác với các thị trường khác như: tính nhạy
cảm, tính rủi ro cao, tâm lý cá nhân NĐT, tâm lý đám đông… gây tác động
không nhỏ đến khả năng quyết đoán (mua hoặc bán) của NĐT đối với nguồn
vốn trong danh mục đầu tư của họ. Chính điều này cũng gây ảnh hưởng rất
lớn đến khả năng mạo hiểm (can đảm và có tính toán) từ mỗi cá nhân đầu tư.
Sự ảnh hưởng từ tâm lý đám đông sẽ tạo ra không ít rủi ro, đúng ra
không đáng có, đối với NĐT. Bởi nếu bình tĩnh, NĐT có thể biết mình “đang
ở đâu” trên thị trường và cũng có thể biết mình phải quyết định ra sao đối với
nguồn vốn của mình trong tương lai.
TTCK VN đã trải qua 7 năm hoạt động mà phần lớn các NĐT (nhất
là các NĐT nhỏ) thường luôn bị lôi vào vòng xoáy tâm lý của thị trường
(thấy người khác mua mình cũng mua, thấy người khác vay tiền mình
cũng vay tiền, cầm nhà… để đầu tư chứng khoán; thấy người ta bán, mình
cũng bán theo… chẳng cần biết xu hướng thị trường sẽ ra sao).
11
11

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trên thực tế đã có quá nhiều hành động “lao theo” của các NĐT mà
gần như không có tính toán. Hiện tượng này rất khó tránh, NĐT đầu tư theo
tâm lý nên sẽ phải trả giá đắt, nhất là khi không có được trong tay những
thông tin đầy đủ, chính xác về tình hình kinh tế của thị trường, của doanh
nghiệp.
Trong giai đoạn thị trường bước vào xu hướng suy giảm vừa qua (cuối
quý I/2007), phần lớn các NĐT chạy theo tâm lý đám đông và mua Cp theo
tình cảm đã phải ngậm ngùi ra đi, nếu không muốn nói là “tháo chạy” khỏi
thị trường. Sức căng của thị trường đang ngày một chùng xuống rõ rệt, khi
mà khối lượng Cp từ các tổ chức lớn bắt đầu bán ra ngày một tăng, lúc này
thị trường khó có thể hình thành đỉnh mới. Ngược lại, khả năng tạo đáy mới
luôn là xu hướng thuận lợi hơn nhiều. Khi các NĐT nhỏ nhận ra điều này,
gần như đã quá trễ. Vì vậy, khả năng bảo toàn vốn của họ cũng trở nên khó
khăn hơn, không thể nói đến lợi nhuận. Những NĐT nhỏ có thể chiếm từ 85 –
90%, vốn của họ không đủ lớn và thường rải rác chứ không tập trung như các
tổ chức hay một số các NĐT lớn.
Sức mạnh từ tâm lý đám đông đã tạo ra sức kéo không nhỏ, dẫn đến số
lượng NĐT nhỏ gia tăng đáng kể trong thời gian từ cuối năm 2006 đến đầu
2007 trên TTCK VN. Hiện tượng này kích thích thị trường ngày một nóng
hơn (gia tăng sức mua), lực cầu càng lớn lại càng tạo điều kiện thuận lợi cho
các tổ chức, các NĐT lớn gia tăng khoản lợi nhuận của họ một cách ngoạn
mục, khi mà họ biết rằng khả năng tăng trưởng của thị trường đã đủ dài (khởi
điểm TTCK VN tăng từ tháng 09/2005) và cần thiết phải thoát ra để bảo toàn
khối lợi nhuận. Khi toàn thị trường nhận ra điều này, thì hiện tượng tháo chạy
cũng bắt đầu bùng nổ và chỉ số thực sự bước vào thời kỳ suy giảm.
Hơn nữa, hiện tượng bùng nổ trên xảy ra do không ít các yếu tố tác
động: từ nền kinh tế, nguồn vốn từ nước ngoài, các chính sách khuyến khích
giới đầu tư nước ngoài ngày một thuận lợi hơn… Những yếu tố trên tạo lực
hút đáng kể về vốn từ các tổ chức nước ngoài. Chính nguồn vốn này đã tạo

12
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
động lực đẩy sức nóng của TTCK VN trong thời gian qua lên một mức đáng
kể và dẫn đến tình trạng lao theo của giới đầu tư trong nước là không tránh
khỏi.
NĐT VN cho rằng, thị trường VN đang ngày trở nên thuận lợi hơn
nhiều, cơ hội kiếm tiền cũng gia tăng, nhưng họ có thể chưa đề phòng được
rằng, đi sau đó là hiện tượng rủi ro không nhỏ sẽ kéo đến.
Một điều mà chúng ta có thể nhận thấy, nếu so sánh với nền kinh tế và
khả năng tăng trưởng của VN hiện nay, TTCK VN còn quá nhỏ và hàng hoá
còn quá ít so với mức cầu. Lượng Cp lưu hành trên thực tế (có thể giao dịch
thị trường) chiếm khối lượng không lớn vì hiện nay khối lượng do Nhà nước
nắm giữ trung bình 51%/mỗi loại, là không giao dịch. Ngoài ra, lượng Cp
nắm giữ từ các cổ đông sáng lập cũng chỉ được giao dịch sau một thời hạn
nhất định. Bên cạnh đó, khối lượng của NĐT nước ngoài nắm giữ gần như
giao dịch rất ít. Điều này cho thấy, khối lượng Cp giao dịch quá ít dẫn đến
tình trạng, khi lượng cầu tăng sẽ dẫn đến việc thị trường trở nên nóng quá
nhanh (do thiếu hàng – Cp).
Do NĐT muốn sở hữu được Cp, họ phải đẩy giá lên mức kịch trần mới
hy vọng mình có thể mua được. Tình trạng này càng kéo dài, thị trường càng
nóng nhanh hơn và mức độ rủi ro càng dễ xảy ra hơn so với thực tế. Chính
hiện tượng này (mua lấy được), đã vô hình chung biến NĐT lệ thuộc quá lớn
vào tâm lý thị trường và mất khả năng tự chủ trước nguồn vốn của mình.
Cuối cùng, việc NĐT phải trả giá đắt là không tránh khỏi, nếu thị trường bất
ngờ đảo chiều.
Vì vậy, để hạn chế bớt sức tăng quá lớn của thị trường như đã từng
diễn ra, một xu hướng tất yếu là phải gia tăng lượng hàng hoá nhiều hơn nữa,
nhằm giảm nhiệt mỗi khi thị trường nóng lên, mục đích tạo ra sự cân bằng
trong cung cầu trên thị trường, để thị trường tránh rơi vào tình trạng mất cân

đối (cung cầu) như hiện nay.
13
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tuy nhiên, hiện tượng giảm mua mạnh cũng chỉ diễn ra trong từng
phiên chứ không mang tính liên tục. Số lượng Cp được mua lại hiện nay cũng
khá nhiều dù khối lượng không lớn, nhưng có thể thấy nó được rải đều trên
hầu hết các loại Cp. Hiện tượng này cho thấy NĐT đang kỳ vọng vào khả
năng trở lại để tạo đỉnh mới của thị trường. Việc thực hiện phương pháp “cân
bằng giảm” của NĐT đang tiếp tục diễn ra, nhưng phần lớn là những NĐT
lớn và đã có nhiều năm trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Nhưng
không thể nói khả năng tạo ra đỉnh mới của thị trường vào thời điểm nào
trong tương lai.
 Đến nay, TTCK VN đã trải qua 2 lần tăng trưởng mạnh thực sự: lần thứ
nhất vào cuối quý II/2001 và lần thứ hai là tháng 2 vừa qua. Sau những
hiện tượng này, các NĐT sẽ học hỏi được không ít điều từ chính tài khoản
của mình khi tham gia TTCK. Sự đúc kết và học hỏi kinh nghiệm từ thực
tế là rất cần thiết cho những lần tham gia đầu tư kế tiếp. Sự thiếu hiểu
biết, thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin của các nhà đầu tư chính là lý do
để kênh thông tin báo chí trở nên thực sự quan trọng, cần thiết để phản
ánh đúng tình hình thực tế thị trường.
1.2.2 Báo chí nước ngoài nói về thị trường chứng khoán Việt Nam
 “Madness” (Sự điên khùng) được Time - một tuần báo thông tin thời sự
quốc tế có hơn 50 năm tuổi đời sử dụng trong tựa một bài báo mô tả sự
náo loạn của TTGDCK Hà Nội trong số báo đầu tháng 3/2007.
Nữ phóng viên Kay Johnson còn trích dẫn lời nhận xét của ông
Noritaka Akamatsu, một chuyên gia kinh tế của World Bank tại Hà Nội để
mô tả TTCK VN là “It’s the Wild West”, tức phát triển kinh khủng như thời
người Mỹ tiến về miền Tây để lập nghiệp, thời của những tay súng bắn nhanh
(gunslinger) là có tất cả, bất cần tuân thủ luật pháp.

Nhà báo này viết: “Trong cơn sốt làm giàu thật nhanh, nhiều NĐT VN
đã chẳng còn màng theo dõi mua bán ở các sàn giao dịch chính thức mà đua
14
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhau kinh doanh ở các quán cà phê, quán trà, dịch vụ Internet. Ở đó, họ nhận
tin đồn, góp phần cho tin đồn phập phồng to lên hơn, biến chợ không chính
thức này thành một “gray market” (chợ xám) cực kỳ hỗn độn nhưng có sức
sống mãnh liệt”.
 Còn tuần báo kinh tế The Economist (Anh) số 17-20 tháng 3 vừa qua đã
mô tả sự náo động ở sàn giao dịch Tp.HCM là một “South China Sea
bubble” (Bong bóng biển Nam Trung Hoa).
Không những thế, để mô tả chính xác cơn sốt đầu tư chứng khoán và
cổ phiếu công ty chưa lên sàn, tuần báo này đã biến OTC - vốn có căn
nguyên từ việc kinh doanh những loại thuốc tây không cần đến toa của bác sĩ,
từ “over-the-counter” thành “over-the-cáfé-table”.
Sở dĩ nhà báo này dùng “South Sea Bubble” và “over-the-cáfé-table” là vì,
trong thực tế cũng đã từng bùng lên cơn sốt cổ phiếu bên trong các quán cà phê
(coffee - houses) ở London hồi đầu thế kỷ XVIII khiến nhiều người tan gia bại
sản. Tình trạng này ở VN cũng không khác gì cơn sốt và sự sụp đổ của bong bóng
kinh doanh hoa Uất kim hương ở Hà Lan (bulb-bubble) hoặc cơn sốt và sự sụp đổ
thị trường kinh doanh đầu máy xe lửa ở Anh (steam bubble). Đó là những sự kiện
đã làm hàng trăm nghìn người mất trắng vốn liếng, trở thành bài học cay đắng
cho rất nhiều thế hệ NĐT sau này.
Theo nhận định ở báo The Aconomist: nhan nhản trong thị trường “bên
bàn uống cà phê” ở VN là chuyện kinh doanh nội gián và lừa đảo, còn Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) thì cố sức bám theo thời sự với
“flood of new listings” (cơn lũ những công ty mới niêm yết).
Dĩ nhiên, trong sự nháo nhào vô trật tự ấy, những thông tin đáng tin
cậy rất hiếm, kẻ xấu dễ dàng “whipping up” (đánh bồng lên như đánh trứng

để chiên) đủ loại tin đồn.
Tờ Time viết: Việt Nam chưa có “stockbrokers” (nhà môi giới chứng
khoán) chính hiệu. Nhưng “the bullishness” (sự bùng nổ mạnh) trong từ ngữ
chuyên ngành chứng khoán Anh, Mỹ, từ bull (con bò đực) được dùng chỉ thị
15
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trường phát triển mạnh còn từ bear (con gấu) chỉ sự suy yếu của thị trường
TTCK VN, có căn nguyên của nó. Từ năm 2000 đến nay, tăng trưởng hàng
năm của nền kinh tế VN luôn ở mức 7 - 8% và năm 2007 có khả năng VN sẽ
nhận được đến 20 tỷ USD vốn FDI.
Tuy đa số các “investors” (nhà đầu tư) hiện nay là người Việt nhưng
không phải không có những nhà đầu tư nước ngoài. Một báo cáo của Crédit
Suisse Group cho biết, số tiền các NĐT ngoại quốc mua ở TTGDCK
Tp.HCM đã là 700 triệu USD, hơn hẳn số tiền họ mua cổ phiếu ở TTCK Đài
Loan, một thị trường lớn hơn gấp 40 lần.
Chính vì thế, chính phủ VN và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) lo ngại, chỉ
cần các NĐT ngoại quốc này “took fright” (bỗng phát sợ) thì “the market
woul collapse” (thị trường sẽ sụp đổ).
 Bloomberg, hãng thông tấn Mỹ chuyên thông tin kinh tế, tài chính đưa tin:
“Theo một số NĐT quốc tế ở một hội nghị diễn ra tại Hà Nội cuối tháng 3
thì TTCK VN có khả năng “drop 30 percent or more” (rớt 30% hoặc hơn,
có chuyên gia nọ dùng từ contraction – sự co bóp nhỏ lại) trong những
tháng tới vì bong bóng đã phồng lên quá sức tưởng tượng.
Trong số 90 chỉ số thị trường chứng khoán luôn được Bloomberg theo
dõi, VN – Index đã tăng 49% trong các tháng đầu năm 2007 sau khi đã tăng
cao kỷ lục thế giới 146% trong năm 2006.
Tổng giá trị vốn hoá thị trường của số 107 công ty đã niêm yết tạo ra
VN – Index đạt 15,8 tỷ USD. Vào thời điểm cuối năm 2005, con số này mới
chỉ khoảng 500 triệu USD.

Nhưng có một phụ nữ 36 tuổi, hành nghề kế toán ở Tp.HCM nói “there
may be a bubble” (có thể có bong bóng) nhưng cô không sợ điều đó. Chính vì
không thể nào mua được cổ phiếu trên sàn giao dịch chính thức mà cô đã
chuyển sang thị trường OTC. Ở đó, cô đã mua được 1000 cổ phần của một
công ty chưa niêm yết với giá 7600 USD. Ba tuần sau bán chúng cho một nhà
đầu tư trên mạng sanotc.com cô có lời được ngay 30%.
16
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Cũng còn mừng là TTCK VN chưa bị ví như những “betting parlors”
(phòng cá cược) như tuần báo kinh tế tài chính Mỹ Business Week mới đây
đã ví các “trading halls” (sàn giao dịch) ở Trung Quốc như trên.
Điều đó chứng tỏ thực trạng, diễn biến của những thị trường non trẻ
như TTCK VN rất được báo chí nước ngoài quan tâm. Với những nhà báo
kinh tế có chuyên môn rất giỏi, ở những đất nước mà kiến thức chứng khoán
gần như đã thành kiến thức phổ thông thì họ sẽ có cái nhìn rất khách quan về
hiện tượng này. Những sai lầm tất yếu của bất cứ thị trường mới nào cũng
được họ nhìn ra rất rõ ràng, lên tiếng và cảnh báo từ trước với sự hiểu biết
sâu sắc về thị trường này. Đây là những bài báo và cách nhìn nhận vấn đề rất
đáng để các cây viết về kinh tế, đặc biệt là về TTCK ở VN học tập. Nhà báo
VN thường có nhiệt tình rất cao trong tác nghiệp. Điều đó có thể là tốt ở
những mảng bài vở trong các lĩnh vực khác khác. Tuy nhiên, với TTCK VN,
nếu kiến thức và hiểu biết về chứng khoán không đủ sâu sắc, thì nhiệt tình
của nhà báo trở nên thực sự nguy hiểm. Nó có thể gây ra những tác hại to lớn
thăng trầm của TTCK và với toàn xã hội.
1.3 Vai trò của các trung tâm giao dịch chứng khoán với sự
phát triển của TTCK VN
1.3.1 Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (TTGDCK
Tp.HCM) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg

ngày11/07/1998 của Thủ tướng Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động
thực hiện phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/7/2000 đã đánh dấu một sự kiện
quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.
Sự ra đời của TTGDCK Tp.HCM có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra
một kênh huy động và luân chuyển vốn mới phục vụ công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, là sản phẩm của việc chuyển đổi cơ cấu nền kinh
17
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và
nhà nước ta.
Là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con
dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp,
Trung tâm được Chính phủ giao một số chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn quản lý điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán tập trung tại Việt
Nam. Đó là: tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán; quản
lý điều hành hệ thống giao dịch; thực hiện hoạt động quản lý niêm yết,
công bố thông tin, giám sát giao dịch, và một số hoạt động khác như đấu
giá cổ phần và đấu thầu trái phiếu.
Có thể nói, tại thời điểm ra đời, TTGDCK Tp.HCM gặp rất nhiều
khó khăn như: hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung chưa được hoàn
thiện, các văn bản điều chỉnh hoạt động trên thị trường chứng khoán còn
nhiều bất cập, chồng chéo, chưa thống nhất , đội ngũ cán bộ quản lý
điều hành chưa có kinh nghiệm thực tiễn, sự hiểu biết của công chúng về
đầu tư chứng khoán và TTCK còn nhiều hạn chế, trình độ của đội ngũ
phóng viên kinh tế hầu hết được đào tạo không chuyên cũng có rất nhiều
điểm đáng bàn.
Thêm vào đó, TTGDCK khai trương và chính thức đi vào hoạt động
trong bối cảnh đất nước chưa thoát khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính, tiền tệ khu vực, mức đầu tư cho nền kinh tế giảm sút, nhu cầu huy

động vốn của các doanh nghiệp chưa cao, thu nhập bình quân đầu người còn
quá thấp Tuy vậy, sự quan tâm rất lớn của Chính phủ, các Bộ ngành, đặc
biệt là sự chỉ đạo kịp thời, hiệu quả của UBCKNN, qua hơn 6 năm hoạt động
TTGDCK Tp.HCM đã phát triển về nhiều mặt, thực hiện tốt vai trò tổ chức
và vận hành các hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung
thông suốt, an toàn và hiệu quả. Cụ thể các mặt đạt được như sau:
* Hoạt động quản lý, điều hành thị trường:
18
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tính đến thời điểm ngày 31/12/2006, TTGDCK Tp.HCM đã tổ chức
thành công 1451 phiên giao dịch. Các hoạt động giao dịch được diễn ra liên
tục, thông suốt. Bên cạnh đó, Trung tâm luôn nghiên cứu các giải pháp, kiến
nghị Chính phủ và UBCKNN ban hành những chính sách, quy định kịp thời
để điều tiết thị trường cho phù hợp với xu hướng phát triển và tạo ra một môi
trường đầu tư thông thoáng, công bằng, đúng pháp luật đồng thời bảo vệ lợi
ích chính đáng của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, hoạt động giám sát giao dịch của
Trung tâm cũng được tiến hành thường xuyên nhằm phát hiện và đề xuất
Thanh tra UBCKNN xử lý kịp thời các hành vi vi phạm.
• Hoạt động quản lý niêm yết:
Phần lớn các công ty có cổ phiếu niêm yết trên thị trường đều hoạt động
kinh doanh có lãi. Đa số các công ty niêm yết đều thực hiện tốt các nghĩa vụ
công bố thông tin đúng theo quy định, duy trì được tiêu chuẩn niêm yết và áp
dụng điều lệ mẫu nhằm nâng cao quản trị công ty.
* Hoạt động quản lý thành viên:
Qua hơn 6 năm hoạt động, số Công ty chứng khoán thành viên
TTGDCK Tp.HCM không ngừng tăng về số lượng, quy mô và chất lượng
dịch vụ. Các Thành viên của TTGDCK Tp.HCM hầu hết được cấp giấy phép
hoạt động kinh doanh với 05 nghiệp vụ gồm: Môi giới, tự doanh, quản lý
danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư. Số lượng tài khoản giao

dịch chứng khoán của nhà đầu tư mở tại các công ty chứng khoán thành viên
tăng liên tục qua từng năm và cho đến cuối năm 2006 đã có hơn 95.000 tài
khoản giao dịch của nhà đầu tư mở tại các công ty chứng khóan.
* Hoạt động quản lý giao dịch:
Trước hết, phải nói rằng hoạt động quản lý giao dịch là một trong
những nghiệp vụ quan trọng của TTGDCK Tp.HCM. Xác định được tầm
quan trọng đó, thời gian qua Trung tâm luôn nghiên cứu và kiến nghị các giải
pháp kỹ thuật cũng như các quy chế, quy trình nhằm từng bước hoàn thiện và
19
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tạo điều kiện thuạn lợi để các nhà đầu tư tham gia mua bán chứng khoán trên
thị trường. Từ thời điểm ban đầu Trung tâm chỉ thực hiện một đợt khớp lệnh
trong một phiên giao dịch và mỗi tuần chỉ tổ chức 3 phiên giao dịch (Hai, Tư,
Sáu) thì nay Trung tâm đã tăng lên 3 đợt khớp lệnh trong một phiên và mỗi
tuần thực hiện 5 phiên giao dịch. Bên cạnh đó, nếu như trước đây, trái phiếu
được tổ chức giao dịch thông qua 2 phương thức là khớp lệnh và thoả thuận,
có quy định biên độ giao động, đơn vị yết giá thì nay, căn cứ vào tình hình thị
trường và kinh nghiệm quốc tế, trái phiếu được giao dịch chỉ qua phương
thức thoả thuận, không quy định biên độ và đơn vị yết giá.
* Hoạt động công bố thông tin thị trường:
Hoạt động công bố thông tin thị trưòng chiếm vị trí khá quan trọng
trong việc xây dựng một TTCK hoạt động công khai, minh bạch nhằm tạo ra
một môi trường đầu tư công bằng, cung cấp kịp thời các thông tin, dữ liệu
cần thiết cho các NĐT.
Nhận thức được điều đó, một mặt TTGDCK TP.HCM tăng cường,
kiểm tra giám sát việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin của công ty niêm
yết, mặt khác nâng cao chất lượng, nội dung và đa dạng hoá các phương tiện
công bố thông tin theo phương châm: Đầy đủ, kịp thời, chính xác và dễ tiếp
cận. Hiện nay các thông tin về hoạt động chứng khoán và hoạt động của các

tổ chức niêm yết được công bố thông tin đúng theo quy định và qua nhiều
phương tiện như: trang Web, bản tin TTCK, màn hình điện tử đặt tại
TTGDCK Tp.HCM và các công ty Chứng khoán thành viên, thông qua mạng
Internet gửi đến các địa chỉ E-mail đăng ký, Fax và các ấn phẩm thường niên
của Trung tâm.
TTGDCK Tp. HCM đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ kể cả về
mặt công nghệ, quy trình, cán bộ và quy mô hoạt động. Trong quá trình phát
triển của mình, TTGDCK TP. HCM đã đóng góp nhất định cho sự phát triển
kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua, cụ thể: là đóng góp tích cực cho
công cuộc cổ phần hóa thông qua việc tổ chức đấu giá thành công các doanh
20
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiệp nhà nước; các doanh nghiệp niêm yết trên TTGDCK Tp. HCM ngày
càng được minh bạch, công khai, ngày càng phát triển hơn.
Đến nay, Trung tâm đã thực hiện đấu giá bán cổ phần lần đầu cho 120
DNNN tổng số cổ phiếu bán được 338 triệu cổ phiếu và thu về cho ngân sách
nhà nước hơn 10.000 tỷ đồng.
* Kế hoạch phát triển của Trung tâm:
Trên cơ sở dự báo qui mô TTCK sẽ tăng mạnh và vốn hóa thị trường có
thể đạt 30% GDP trong năm 2007; Số lượng NĐT sẽ tăng gấp 3 lần hiện nay
cùng với số lượng các công ty chứng khoán tăng lên 70 – 80 công ty. Để đáp ứng
nhu cầu thị trường trong thời gian tới Trung tâm đã có kế họach:
- Chuyển Trung tâm thành Sở giao dịch chứng khoán vào quí II/2007, đáp
ứng nhu cầu chủ quan của cơ quan quản lý thị trường hiện nay như khắc phục
các nhược điểm của mô hình TTGDCK để đáp ứng qui mô phát triển của thị
trường; tăng quyền chủ động thực hiện các chiến lược marketing để thu hút
người đầu tư và công ty đại chúng; tự chủ về tài chính, giảm bớt gánh nặng
cho ngân sách; nâng cao tính chuyên nghiệp của thị trường, áp dụng các
chuẩn mực quốc tế trong quản lý thị trường, tạo điều kiện kết nối với thị

trường các nước trong khu vực và trên thế giới; tăng cường vị thế trong mối
quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Bên cạnh đó, việc chuyển sang mô hình Sở giao dịch chứng khoán cũng phù
hợp với xu hướng ứng dụng sâu rộng thành tựu của công nghệ thông tin trong
lĩnh vực thông tin chứng khoán; tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Mặc dù các điều kiện đã hội đủ nhưng việc chuyển đổi cần được thực hiện
từng bước theo lộ trình cụ thể với mục tiêu cuối cùng là xây dựng một TTCK
hiện đại, có khả năng kết nối với các thị trường khác và có vị thế nhất định
trong tương quan đối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trước mắt,
TTGDCK Tp.HCM sẽ chuyển thành SGDCK hoạt động theo hình thức công
ty TNHH 1 thành viên thuộc sở hữu Nhà nước. Sau khi hoạt động ổn định sẽ
21
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
từng bước chuyển sang hình thức công ty cổ phần và lên niêm yết trên chính
SGDCK của mình.
* Về hệ thống giao dịch:
Chuyển từ giao dịch khớp lệnh định kỳ sang khớp lệnh liên tục; áp
dụng lệnh thị trường để nâng cao tính thanh khoản của cổ phiếu; cho phép
khách hàng đặt lệnh từ xa thông qua mạng Internet hay điện thoại; cho phép
các CTCK nhập lệnh từ công ty và chuyển thẳng vào máy chủ của Trung tâm.
* Đối với hoạt động thông tin thị trường:
Hoàn thiện và phát triển hệ thống cung cấp thông tin thị trường như:
Bản tin thị trường, đưa trang web mới của Trung tâm vào họat động ngay
trong quý 1/2007, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin tự động, tổ chức
định kỳ các buổi gặp gỡ tiếp xúc với nhà đầu tư, thiết lập đường dây nóng để
trả lời mọi thắc mắc của công chúng đầu tư đối với thị trường.
1.4.2 Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
TTGDCK HN bắt đầu hoạt động từ ngày 8/3/2005, là đơn vị sự nghiệp
có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí

hoạt động do ngân sách Nhà nước cấp. Biên chế của TTGDCK HN thuộc
biên chế của UBCKNN.
* TTGDCK HN có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
1. Tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán
2. Quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán
3. Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua bán chứng khoán, dịch vụ lưu ký
chứng khoán
4. Thực hiện đăng ký chứng khoán
Ngày 05/8/2003, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển
TTCK Việt Nam đến 2010. Theo đó, xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu
22
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội, chuẩn bị điều kiện để sau 2010
chuyển thành Thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC).
Tháng 6/2004, Bộ tài chính ra Thông báo số 136/TB/BTC nêu kết luận
của Lãnh đạo Bộ về mô hình tổ chức và xây dựng thị trường giao dịch chứng
khoán VN. Trong đó, định hướng xây dựng TTGDCK HN thành một thị
trường giao dịch phi tập trung (OTC) đơn giản, gọn nhẹ, theo đó,
TTGDCK Hà Nội sẽ phát triển theo hai giai đoạn:
Giai đoạn đầu, từ 2005 đến 2007 - thực hiện đấu giá cổ phiếu doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hoá và đấu thầu trái phiếu chính phủ đồng thời tổ
chức giao dịch chứng khoán chưa niêm yết theo cơ chế đăng ký giao dịch.
Giai đoạn sau 2007 - Phát triển TTGDCKHN thành thị trường phi tập
trung phù hợp với quy mô phát triển của TTCK VN.
Mô hình hoạt động của TTGDCK Hà Nội đã từng bước được cụ thể hoá.
Gần đây, Bộ Tài chính đã ra Quyết định số 244/2004/QÐ - BTC ban hành
Quy chế tạm thời tổ chức giao dịch chứng khoán tại TTGDCK HN. Như vậy,
có thể nói cơ sở pháp lý ban đầu cho hoạt động của TTGDCK HN đã được
thiết lập.

Chương II
23
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
KHẢO SÁT CÁCH TIẾP CẬN VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN
CHỨNG KHOÁN TRÊN BÁO CHÍ VIỆT NAM
(QUA THỜI BÁO KINH TẾ VIỆT NAM, BÁO ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN VÀ
KÊNH TRUYỀN HÌNH INFO TV)
2.1 Tầm quan trọng của thông tin chứng khoán
Thời xa xưa, một trong những phương thức kinh doanh quan trọng
thường được ông cha áp dụng là: Buôn có bạn, bán có phường. Thế nhưng
trong kinh doanh hiện đại, ngoài phải có được đối tác, bạn bè tốt, còn cần
phải có thông tin. Cùng với rất nhiều những biến động trong TTCK, các NĐT
giờ đây đang ngày càng coi trọng hơn vai trò của thông tin trong việc đưa ra
quyết định.
“Thông tin báo chí sống chung với tin đồn”
Những dạng thông tin theo kiểu “tôi nghe”, “tôi thấy” trong thời đại
thông tin ngày nay nhiều không kể hết. Bạn sẽ hy vọng những thông tin đó
được rò rỉ ra từ một số yếu nhân nào đó? Bạn quyết định đầu tư ?
Hẳn đó phải là người rất ưa mạo hiểm. Mạo hiểm có thể khiến người ta
giàu lên. Nhưng nếu mạo hiểm không dựa trên một cơ sở nào vững chắc
ngoài những thông tin theo kiểu “tôi nghe”, “tôi thấy” thì trong phần lớn các
trường hợp, những đồng tiền sẽ nói lời tạm biệt để tìm đến những người chủ
biết quan tâm chúng nhiều hơn.
Theo mô hình truyền thông cơ bản, quá trình truyền thông là sự tương
tác qua lại không ngừng của nguồn tin – thông điệp - người nhận. Sự tương
tác này luôn diễn ra theo cả 2 chiều của quá trình tiếp nhận và phản hồi thông
tin. Điều này đối với một số lĩnh vực thông tin không phải ở đâu và lúc nào
cũng đúng, không phải lúc nào cũng diễn ra đều đặn và sôi nổi (Ví dụ thông
tin thể thao quốc tế, thông tin Đoàn hội ).

24
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tuy nhiên, nó đặc biệt đúng, và luôn đúng ở một lĩnh vực rất mới ở
Việt Nam, đó là TTCK. Sự sôi động, tính bất ngờ và những diễn biến kịch
tính, đa chiều theo đơn vị thời gian từng giây trong ngày chính là yếu tố
khiến cho TTCK trở thành một đối tượng, một nguồn thông tin hấp dẫn cho
báo chí.
Ngược lại, thông tin báo chí trở thành một kênh thông tin đáng tin cậy,
một tấm gương phản chiếu đầy đủ và chính xác bộ mặt thật, giá trị thật của
TTCK.
Có thể hình dung mô hình truyền thông về thông tin chứng khoán với
những đặc điểm riêng như sau:
- Khởi điểm: Nguồn tin – Mã hoá dưới dạng: con số, bài phân tích, nhận
định
- Nguồn nhận (đối tượng quan tâm độc giả)
- Xung quanh là nhiễu và phản hồi không ngừng từng ngày, từng giờ,
thậm chí từng phút và theo 2 chiều.
Đặc biệt ở TTCK mới và đang có sức phát triển mạnh mẽ như nước ta,
những thông tin được tung ra nhằm đánh bóng hay “làm giá” một số loại Cp
nào đó là vô cùng phổ biến.
Nhan nhản trên những website về thị trường phi tập trung OTC những
topic theo kiểu: “Bao giờ cổ phiếu X đạt đến mức 2xx” hay “Đừng bỏ lỡ cơ
hội làm giàu với cổ phiếu Y” hay “Thông tin mật từ Ban quản trị Cty Z – giá
cổ phiếu Z sẽ tăng nhanh”. Những thông tin đó chẳng ai có khả năng kiểm
định. Và kể cả trong trường hợp giả định thông tin đó là đúng thì nó cũng
chẳng phải là thông tin “rò rỉ” nữa bởi bạn biết đồng nghĩa với việc nhiều
người khác cũng thấy, cũng biết.
Những người có kiến thức trong TTCK sẽ biết cách sàng lọc thông tin
giữa một đại dương thông tin thật giả lẫn lộn. Và trong một thế giới đó,

nguồn tin đang tin cậy nhất có thể là ở đâu nếu không phải là từ chính nơi
khởi nguồn ra nó, nếu ta biết rõ nơi đó là ở đâu.
25
25

×