I.Tổng quan về hàng rào kĩ thuật
Chúng ta thường thấy trên báo chí có đăng các tin như: Nga sẽ không tiếp
tục nhập khẩu cá Ba sa của Việt Nam, Nhật sẽ áp dụng mức dư lượng kháng
sinh tối thiểu mới đối với các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam, một số
tiểu bang của Mỹ ra lệnh ngưng bán các mặt hàng thuỷ sản VN với lý do có dư
lượng thuốc kháng sinh.... Đó là những thách thức về thị trường do các rào cản
kỹ thuật từ các nước nhập khẩu gây ra. Việc áp dụng các hàng rào kĩ thuật là
tích cực nếu nó giúp mang lại cho người tiêu dùng những sản phẩm chất lượng
và an toàn. Tuy nhiên ngày nay cùng với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và
công nghệ các nước sử dụng hàng rào kĩ thuật như một thứ vũ khí bí mật để bảo
hộ mậu dịch. Sự trỗi dậy của các hàng rào kĩ thuật vô hình trong thương mại
hiện nay đã tạo ra môi trường thương mại không tích cực thông thoáng, gây bất
lợi cho tiến trình tự do hoá thương mại trên phạm vi khu vực và thế giới.
1.Khái niệm
Hàng rào kĩ thuật là một loại hàng rào phi thuế quan liên quan tới các biện
pháp mang tính kỹ thuật nhằm bảo đảm cung cấp cho thị trường những sản
phẩm, hàng hoá có chất lượng đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng.
2.Mục đích áp dụng
Đối với người tiêu dùng: dễ dàng lựa chọn và sử dụng những sản phẩm
thích hợp có chất lượng và thông số kĩ thuật phù hợp với yêu cầu của mình
Đối với người sản xuất: giúp cho việc sản xuất theo quy mô lớn theo một
thông số quy định về kích thước, tiêu hao nguyên liệu, bán thành phẩm được sản
xuất từ nhiều nguồn khác nhau.
Đối với người bán: có thể dễ dàng hiểu nhau khi đàm phán về một mặt
hàng.
Đối với hầu hết các quốc gia ngoài mục đích mang tính chất tích cực trên
hầu hết các nước đều dùng biện pháp kĩ thuật như một biện pháp nhằm bảo hộ
thị trường nội địa và sản xuất trong nước.
3. Các hình thức rào cản
3.1.Các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật
Các quy định này liên quan tới: (i) Các yêu cầu đặt ra về đặc điểm, tính
chất của một sản phẩm ví dụ về kích thước, hình dạng, kiểu dáng, chức
năng hoặc cách thức sản phẩm đó được dán nhãn hay đóng gói trước khi
được đưa ra tiêu thụ trên thị trường; (ii) các thủ tục đánh giá, kiểm nghiệm
(thử nghiệm, giám định, chứng nhận…). Các quy định về tiêu chuẩn chất
lượng đa dạng, khác nhau ở mỗi nước.
3.2.An toàn và vệ sinh thực phẩm
Sức khoẻ, an toàn cho người tiêu dùng và động thực vật là yêu cầu sống
còn đối với nhà xuất khẩu . Để đảm bảo điều này, các nước đã đưa ra các hàng
rào về vệ sinh thực phẩm. Kiểm dịch động thực vật là biện pháp được áp dụng
nhằm bảo vệ sức khoẻ sức khoẻ con người và động thực vật trước nguy cơ
nhiễm bệnh. Sử dụng biện pháp này thường là quy định các yêu cầu và thủ
tục liên quan tới các tiêu chuẩn đối với thành phẩm như: các phương pháp
sản xuất và chế biến, thủ tục xét nghiệm, giám định, xử lí cách li…
3.3.Các yêu cầu về nhãn mác và bao bì
Biện pháp này được quy định chặt chẽ bằng hệ thống văn bản pháp luật,
theo đó các sản phẩm phải được ghi rõ tên sản phẩm, danh mục thành phần,
trọng lượng, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, thời hạn bảo quản, xuất xứ, nước
sản xuất, nơi bán, mã số mã vạch, hướng dẫn sử dụng. Đây là một rào cản
thương mại được sử dụng rất phổ biến trên thế giới, đặc biệt tại các nước phát
triển.
Về bao bì gồm có: những quy định liên quan đến nguyên vật liệu dùng làm
bao bì, những quy định về tái sinh, những quy định về xử lý và thu gom sau quá
trình sử dụng, … Những tiêu chuẩn và quy định liên quan đến những đặc tính tự
nhiên của sản phẩm và nguyên vật liệu dùng làm bao bì đòi hỏi việc đóng gói
phải phù hợp với việc tái sinh hoặc tái sử dụng.
3.4 Các quy định về môi trường
Ngày nay để bảo vệ thị trường trường, môi trường trong nước, tạo điều kiện
cho hàng hoá của mình xâm nhập thị trường nước ngoài, nhiều quốc gia đã gắn
nhãn sinh thái cho hàng hoá của mình.
Theo tổ chức thương mại thế giới WTO và Ngân hàng thế giới WB, nhãn
sinh thái là một loại nhãn được cấp cho những sản phẩm thoả mãn một số tiêu
chí nhất định do một cơ quan chính phủ hoặc một tổ chức được chính phủ uỷ
nhiệm đề ra. Các tiêu chí này tương đối toàn diện nhằm đánh giá tác động đối
với môi trường trong những giai đoạn khác nhau của chu kỳ sản phẩm: từ giai
đoạn sơ chế, chế biến, gia công, đóng gói, phân phối, sử dụng cho đến khi bị vứt
bỏ. Cũng có trường hợp người ta chỉ quan tâm đến một tiêu chí nhất định đặc
trưng cho sản phẩm, ví dụ mức độ khí thải phát sinh, khả năng tái chế, v.v…
Về mặt hình thức, nhãn sinh thái có thể mang tên gọi khác nhau ở từng
nước. Ví dụ các nước Bắc Âu có nhãn Thiên nga trắng, Đức có nhãn Thiên thần
xanh, trong khi ở Singapore lại gọi là Nhãn xanh.
II. Xu hướng áp dụng các hàng rào kĩ thuật trên thế giới
1.Tình hình hiện nay
Trong nhiều năm gần đây, ngày càng có nhiều quốc gia áp dụng các quy
định, tiêu chuẩn kỹ thuật trong các hoạt động thương mại quốc tế. Điều đó có tác
dụng to lớn trong bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng về sự an toàn trong sử
dụng, tiêu thụ sản phẩm thông qua chất lượng sản phẩm tiêu dùng được đảm
bảo. Xuất phát từ tác dụng to lớn này, các quốc gia đã và đang tăng cường xây
dựng và thực hiện một chính sách bao gồm các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật
áp dụng trong hoạt động thương mại trong nước cũng như thương mại quốc tế.
Khi một quốc gia muốn xuất khẩu sản phẩm của nước mình ra nước ngoài,
ngoài việc sản phẩm đó đáp ứng được các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật trong
nước còn phải phù hợp với các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước
nhập khẩu – đây mới chính là yếu tố quyết định đến việc sản phẩm của quốc gia
đó có xuất khẩu được hay không cũng như có thể được thị trường nước nhập
khẩu chấp nhận hay không.
Điều này đã làm nảy sinh yêu cầu cần có sự phù hợp, tương thích giữa các
quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật của các quốc gia khác nhau. Để đạt được sự tương
thích cần thiết giữa các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước khác nhau
đòi hỏi một chi phí rất lớn như: chi phí dịch thuật các quy định, tiêu chuẩn kỹ
thuật của nước ngoài; chi phí thuê chuyên gia kỹ thuật nước ngoài để giải thích,
giảng giải về các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật đó; chi phí điều chỉnh sản phẩm
trong nước sao cho phù hợp với các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật nước ngoài...
Ngoài ra, nhà sản xuất còn phải chứng mình được sản phẩm của mình đáp ứng
được yêu cầu của các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật. Tất cả những chi phí, thủ
tục trên đều đòi hỏi nhà sản xuất phải bỏ ra một chi phí rất lớn cũng như tiêu tốn
rất nhiều thời gian. Thậm chí, những chi phí này còn tăng lên rất nhiều khi xuất
khẩu sản phẩm sang nhiều nước nhập khẩu khác nhau do mỗi một quốc gia lại
ban hành và áp dụng một bộ quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật riêng.
Để giải quyết khó khăn này, cũng như mở rộng thêm mục đích áp dụng các
quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật cần phải có một văn bản quốc tế chung về các quy
định, tiêu chuẩn kỹ thuật.
2.Hiệp định TBT
2.1.1 Hiệp định TBT
Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Agreement on Technical
Barriers to Trade, gọi tắt là hiệp định TBT)
2.1.3 Nội dung hiệp định
Đối tượng của Hiệp định TBT là các biện pháp kỹ thuật. Trong phạm vi
điều chỉnh của hiệp định, các biện pháp kỹ thuật được chia thành 3 nhóm cụ thể
sau:
Thứ nhất: Các quy định kỹ thuật. Đó là những quy định mang tính bắt
buộc đối với các bên tham gia. Điều đó có nghĩa, nếu các sản phẩm nhập khẩu
không đáp ứng được các quy định kỹ thuật sẽ không được phép bán trên thị
trường.
Thứ hai: Các tiêu chuẩn kỹ thuật. Ngược lại với các quy định kỹ thuật,
các tiêu chuẩn kỹ thuật được đưa ra chủ yếu mang tính khuyến nghị, tức là các
sản phẩm nhập khẩu được phép bán trên thị trường ngay cả khi sản phẩm đó
không đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật.
Thứ ba: Các thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn. Các thủ tục đánh giá sự hợp
chuẩn là các thủ tục kỹ thuật như: kiểm tra, thẩm tra, thanh tra và chứng nhận về
sự phù hợp của sản phẩm với các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật.
Tuy nhiên trong hiệp định này, khái niệm hàng rào kĩ thuật vẫn chưa được
định nghĩa một cách rõ ràng mà chỉ được thừa nhận như một thoả thuận rằng
không một nước nào có thể bị ngăn cản tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm
bảo hàng hoá xuất khẩu của mình, hoặc để đảm bảo sức khoẻ của con người,
động thực vật, bảo vệ môi trường, ngăn ngừa các hành động man trá ở mức độ
mà nước đó cho là phù hợp và các biện pháp này không được tiến hành với các
hình thức có thể gây ra phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc không minh
bạch.
2.Xu thế trên thế giới
1. Mở rộng từ lĩnh vực sản xuất và thương mại đến thương mại dịch vụ
và đầu tư.
Phạm vi TBT có khuynh hướng ngày càng rộng hơn, bắt nguồn từ lĩnh vực
sản xuất và dần mở rộng sang thương mại. Hiện, TBT đã mở rộng từ thương mại
hàng hóa đến các lĩnh vực khác như dịch vụ tài chính, thông tin, đầu tư và sở
hữu trí tuệ…
2. Xu hướng chuyển đổi từ các biện pháp tư nguyện sang nguyên tắc
bắt buộc.
Trước đây nhiều tiêu chuẩn như ISO9000, ISO1400, các chứng nhận về
môi trường, HACCP, thực phẩm hữu cơ… được áp dụng trên cơ sở tự nguyện.
Vài năm gần đây, một số biện pháp tự nguyện đã chuyển thành các nguyên tắc
bắt buộc.
3. Mở rộng từ các sản phẩm cụ thể đến toàn bộ quá trình sản xuất và
hoạt động
Như hệ thống an toàn thực phẩm HACCP ( Hazard Analysis and Critical
Control Point System) có nghĩa là "hệ thống phân tích mối nguy và kiểm soát
điểm tới hạn", hay hệ thống phân tích, xác định và tổ chức kiểm soát các mối
nguy trọng yếu trong quá trình sản xuất và chế biến thực phẩm". xuất phát từ
Mỹ và sau hơn 40 năm đã được ứng dụng rộng rãi ở các nước phát triển khác
như Canada và EU. HACCP kiểm soát các mối nguy đối với thực phẩm từ giai
đoạn sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển và phân phối.
4. Tăng sức ảnh hưởng và hiệu ứng khuếch tán
Các biện pháp TBT luôn tạo ra phản ứng dây chuyền, mở rộng từ một sản
phẩm đến tất cả các sản phẩm liên quan, từ một nước đến một số nước và thậm
chí cả thế giới. Ví dụ như đầu năm 2002, EU cấm nhập khẩu tôm TQ vì có dư
lượng chloramphenicol. Sau đó lệnh cấm này được mở rộng tới hơn 100 sản
phẩm có thịt động vật. Biện pháp này nhanh chóng được các nước khác như Mỹ,
Hungary, Nga và Arabie Saoudite bắt chước theo.
5. Phát triển cùng với tiến bộ khoa học - kỹ thuật và mức sống
Với sự tiến bộ khoa học - kỹ thuật, các tiêu chuẩn kỹ thuật mới sẽ được
nâng lên. Điều này có thể thấy qua việc Bộ Y tế và Phúc lợi xã hội Nhật hồi đầu
năm 2002 đã quyết định thực hiện gần 200 tiêu chuẩn mới về giới hạn dư lượng
tối đa (MRL) đối với thuốc trừ sâu.
6. Kết hợp rào cản kỹ thuật và vấn đề bằng sáng chế
Hiện EU và Mỹ một mặt yêu cầu các sản phẩm nhập khẩu phải đáp ứng các
tiêu chuẩn kỹ thuật do họ đặt ra, mặt khác buộc các công ty nước ngoài trả chi
phí bằng sáng chế rất cao nếu muốn xuất khẩu các sản phẩm đã được đăng ký
bản quyền.
7. Các nước đang phát triển đẩy mạnh thực hiện TBT
Từ năm 1999, số TBT của các nước đang phát triển đã vượt qua các nước
phát triển.
8. Tăng cường chấp nhận các tiêu chuẩn quốc tế
Để bảo vệ ngành thương mại từ các TBT bất hợp lý, WTO đã lập ra Luật
về Thực hành tốt, yêu cầu tất cả các thành viên tuân thủ tiêu chuẩn kỹ thuật quốc
tế.
9. Rào cản kỹ thuật về an toàn tiêu dùng ngày càng khắt khe