Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

THỰC TRẠNG VẬN DỤNG LÝ LUẬN GIÁ TRỊ CỦA C.MÁC VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN LÝ LUẬN GIÁ TRỊ Ở NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.72 KB, 41 trang )

Page | 1
Trân Thị Hoài Thu
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁ TRỊ CỦA MÁC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ GIÁ TRỊ
1.1.1. Hàng hoá
- Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của
con người và dùng để trao đổi với nhau. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội ,
sản xuất hàng hoá có bản chất khác nhau, nhưng hàng hoá đều có hai thuộc
tính:
a) Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào
đó của con
người, ví dụ: cơm để ăn, xe đạp để đi, máy móc, nguyên nhiên vật liệu
để sản xuất …Vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định. Công
dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định. Khoa học
kỹ thuật càng phát triển, người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính mới
1
Page | 2
Trân Thị Hoài Thu
của sản phẩm và lợi dụng chúng để tạo ra những giá trị sử dụng hay tiêu
dùng. Nó là nội dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh
viễn.
Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó
không phải là
giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử
dụng cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi – mua bán. Trong kinh
tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.


b) Giá trị hàng hoá
Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan
hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác. Ví
dụ: 1m vải = 10 kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác
nhau về chất, tại sao chúng lại có thể trao đổi được với nhau và trao đổi theo
tỷ lệ nào đó.
Khi hai sản phẩm khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau
thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung ấy không phải là
giá trị sử dụng, tuy nhiên, sự khác nhau về giá trị sử dụng của chúng là điều
kiện cần thiết của sự trao đổi. Nhưng cái chung đó phải nằm ngay ở trong cả
hai hàng hoá. Nếu gạt giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa
chúng chỉ còn một cái chung làm cơ sở cho quan hệ trao đổi. Đó là chúng
2
Page | 3
Trân Thị Hoài Thu
đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải hoặc thóc, những người
sản xuất đều phải hao phí lao động. Chính hao phí lao động ẩn giấu trong
hàng hoá làm cho chúng có thể so sánh được với nhaukhi trao đổi. Chúng
được trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, một số lượng vải ít hơn đổi lấy một
lượng thóc nhiều hơn (1m vải = 10 kg thóc); nhưng lượng lao động hao phí
để sản xuất ra chúng là ngang bằng nhau. Lao động hao phí để sản xuất ra
hàng hoá ẩn giấu trong hàng hoá chính là giá trị của hàng hoá.
Vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong
hàng hoá.
Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm nào không có lao động của
người sản xuất chứa đựng trong đó, thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào
lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là
hình thức biểu hiện của giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau,
những người sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hoá với

nhau. Thực chất của quan hệ trao đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao
phí của mình chứa đựng trong các hàng hoá. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan
hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn
liền với nền sản xuất hàng hoá. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì
giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá. Như vậy, hàng hoá là sự thống nhất
3
Page | 4
Trân Thị Hoài Thu
của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng là sự thống nhất của hai
mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra giá trị sử dụng,
nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ quan
tâm đến giá trị sử dụng là để đạt được mục đích giá trị mà thôi. Ngược lại,
đối với người mua, cái mà họ quan tâm là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu
cầu tiêu dùng của mình. Nhưng, muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị
cho người sản xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải
thực hiện giá trị của nó. Nếu không thực hiện được giá trị, sẽ không thực
hiện được giá trị sử dụng.
- Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị là do lao động
sản xuất hàng hoá có tính hai mặt. Chính tính chất hai mặt của lao động sản
xuất hàng hoá quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hoá. C. Mác là
người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Đó
là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
a) Lao động cụ thể
Là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp
chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng
riêng, phương pháp riêng, phương tiện riêng và kết quả riêng. Ví dụ: lao
4
Page | 5
Trân Thị Hoài Thu

động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế, đối
tượng lao động là gỗ, phương pháp của anh ta là các thao tác về bào, khoan,
đục; phương tiện được sử dụng là cái cưa , cái đục, cái bào, cái khoan; kết
quả lao động là tạo ra cái bàn, cái ghế.
Mỗi lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Lao
động cụ thể càng nhiều loại càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau.
Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Cùng
với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, các hình thức lao động cụ thể ngày
càng đa dạng, phong phú, nó phản ánh trình độ phát triển của phân công lao
động xã hội. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, là một điều kiện
không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế – xã hội nào. Cần chú ý rằng,
hình thức của lao động cụ thể có thể thay đổi.
b) Lao động trừu tượng
Lao động của người sản xuất hàng hoá, nếu coi là sự hao phí sức lực nói
chung của con người, không kể đến hình thức cụ thể của nó như thế nào, thì
gọi là lao động trừu tượng. Lao động của người thợ mộc và lao động của
người thợ may, nếu xét về mặt lao động cụ thể thì hoàn toàn khác nhau,
nhưng nếu gạt tất cả những sự khác nhau ấy sang một bên thì chúng chỉ còn
có một cái chung, đều phải tiêu phí sức óc, sức bắp thịt và sức thần kinh của
con người. Lao động trừu tượng chính là lao động hao phí đồng chất của con
5
Page | 6
Trân Thị Hoài Thu
người. Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức lực của con người xét về
mặt sinh lý. Nhưng không phải sự hao phí sức lao động nào về mặt sinh lý
cũng là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng chỉ có trong nền sản xuất
hàng hoá, do mục đích của sản xuất là để trao đổi . Vì vậy, xuất hiện sự cần
thiết phải quy các lao động cụ thể vốn rất khác nhau, không thể so sánh được
với nhau thành một thứ lao động đồng chất, tức lao động trừu tượng. Lao
động trừu tượng tạo ra giá trị làm cơ sở cho sự ngang bằng trong trao đổi.

Nếu không có sản xuất hàng hoá , không có trao đỏi thì cũng không cần phải
quy các lao động cụ thể về lao động trừu tượng. Vì vậy, lao động trừu tượng
là một phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hoá. ở đây không phải có
hai thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hoá,
nhưng lao động đó mang tính hai mặt: vừa là lao động cụ thể, vừa là lao
động trừu tượng.
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá có ý
nghĩa rất to lớn về mặt lý luận; nó đem đến cho lý thuyết lao động sản xuất
một cơ sở khoa học thực sự. Giúp ta giải thích được hiện tượng phức tạp
diễn ra trong thực tế, như sự vận động trái ngược: khối lượng của cải vật
chất ngày càng tăng lên, đi liền với khối lượng giá trị của nó giảm xuống hay
không thay đổi.
6
Page | 7
Trân Thị Hoài Thu
Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá phản ánh tính chất tư
nhân và tính chât xã hội của người sản xuất hàng hoá. Trong nền kinh tế
hàng hoá, sản xuất như thế nào, sản xuất cái gì là việc riêng của mỗi người.
Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ vì vậy có tính chất tư nhân và
lao động cụ thể của họ sẽ biểu hiện của lao động tư nhân. Đồng thời lao
động của mỗi người sản xuất hàng hoá, nếu xé về mặt hao phí sức lực nói
chung, tức lao động trừu tượng, thì nó luôn là một bộ phận của lao động xã
hội thống nhất, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, nên lao động
trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
Trong nền sản xuất hàng hoá giữa lao động tư nhân và lao động xã hội
có mâu thuẫn với nhau. Đó là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá “giản
đơn”. Mâu thuẫn này biểu hiện: sản phẩm do người sản xuất nhỏ tạo ra có
thể không phù hợp với nhu cầu của xã hội; hao phí lao động cá biệt của
người sản xuất có thể cao hơn hay thấp hơn hao phí lao động mà xã hội chấp
nhận; mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội chứa đựng khả

năng “sản xuất thừa” là mầm mống của mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.
- Lượng giá trị hàng hoá
a) Thời gian lao động xã hội cần thiết
Chất của giá trị là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết
tinh trong hàng hoá. Vậy lượng giá trị là do lượng lao động hao phí để sản
7
Page | 8
Trân Thị Hoài Thu
xuất ra hàng hoá đó quyết định. Đo lượng lao động bằng thước đo thời gian
như: một giờ lao động, một ngày lao động…Do đó, lượng giá trị của hàng
hoá cũng do thời gian lao động quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hoá
đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất ra, nhưng mỗi người sản
xuất do điều kiện sản xuất , trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời
gian lao động cá biệt đẻ sản xuất ra hàng hoá của họ khác nhau. Thời gian
lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt hàng hoá của từng người sản
xuất . Nhưng lượng giá trị xã hội của hàng hoá không phải được tính bằng
thời gian lao động cá biệt mà bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời
gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng
hoá trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với trình độ kỹ thuật trung
bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ trung bình so với hoàn cảnh
xã hội nhất định. Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết trùng
hợp với thời gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận
loại hàng hoá nào đó trên thị trường.
b) Các nhân tố ảnh hưởng tới lượng giá trị hàng hoá
- Năng xuất lao động: Lượng giá trị của một HH tỷ lệ thuận với số
lượng lao động kết tinh và tỉ lệ nghịch với năng suất lao động. Các nhân tố lf
tang năn suất lao động: trình độ khéo léo của người lao động, sự ptriển của
8
Page | 9
Trân Thị Hoài Thu

KHKT và trình độ ứng dụng tiến bộ KHKT; sự kết hợp xh của sản xuất, hiệu
quả sử dụng TLSX và điều kiện tự nhiên.
- Cường độ lao động: là độ căng thẳng khẩn trương của lao động trong
một đơn vị thời gian sản xuất HH. Khi cường độ lao đọng tăng thì lượng sản
phẩ được tao ra tăng lên tương ứng. Sự thay đổi cường độ lao động chỉ làm
cho lượng lao động hao phí trong cùng một thời gian tăng chứ không làm
thay đổi lượng giá trị trong một đơn vị sản phẩm.
- Tính chất lao động: Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một
người bình thường nào có knăng lao động cũng có thể làm được. Lao động
phức tạp là lao động đã được đào toạ, huấn luyện để có một trình độ chuyen
môn nhất định Trong cùng thời gian lao động, lao động phức tạp tạo được
nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn – lao động trìu tượng là bộ số của
lao động giản đơn. Vì vật, khi trao đổi phải qui lao động phức tạp thành lao
động giản đơn.
c) Cấu thành lượng giá trị hàng hoá
Theo W.Petty thì lượng giá trị hàng hoá = v
Theo A.Smith thì lượng giá trị hàng hoá = v + m
Theo D.Ricardo thì lượng giá trị hàng hoá = c1 + v + m.
Theo Mác để sản xuất ra hàng hoá cần phải chi phí lao động bao gồm
lao động quá khứ tồn tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc,
9
Page | 10
Trân Thị Hoài Thu
công cụ , nguyên liệu, vật liệu và lao động sống. Vì vậy, lượng giá trị hàng
hoá được cấu thành bởi cả giá trị của những tư liệu sản xuất đã sử dụng để
sản xuất hàng hoá, tức là giá trị cũ (ký hiệu là c) và hao phí lao động sống
của người sản xuất trong quá trình tạo ra hàng hoá, tức là giá trị mới (ký
hiệu là v+m). Giá trị hàng hoá = giá trị cũ tái hiện + giá trị mới. Ký hiệu: W
= c + v + m.
1.1.2. Sự phát triển các hình thái giá trị

Hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị.
Về mặt giá trị sử dụng, tức hình thái tự nhiên của hàng hoá, ta có thể nhận
biết trực tiếp được bằng các giác quan. Nhưng về mặt giá trị, tức hình thái xã
hội của hàng hoá, nó không có một nguyên tử vật chất nào nên không thể
cảm nhận trực tiếp được. Nó chỉ bộc lộ ra trong quá trình trao đổi thông qua
các hình thái biểu hiện của nó.
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: đây là hình thái phôi thai
của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá, trao đổi
mang tính chất hiện vật ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật này lấy
vật khác. Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc. Ở đây, giá trị của vải được biểu hiện ở
thóc. Còn thóc là cái được dùng để làm phương tiện để biểu hiện giá trị của
vải. Với thuộc tính tự nhiên của mình, thóc trở thành hiện thân giá trị của
vải. Sở dĩ như vậy vì bản thân thóc cũng có giá trị. Hàng hoá (vải) mà giá trị
10
Page | 11
Trân Thị Hoài Thu
của nó được biểu hiện ở một hàng hoá khác (thóc) thì gọi là hình thái giá trị
tương đối. Còn hàng hoá (thóc) mà giá trị sử dụng của nó biểu hiện giá trị
của hàng hoá khác (vải) gọi là hình thái vật ngang giá. Nó có ba đặc điểm:
giá trị sử dụng của nó trở thành hình thức biểu hiện của giá trị; lao động cụ
thể trở thành hình thức biểu hiện của lao động trừu tượng; lao động tư nhân
trở thành hình thức biểu hiện của lao động xã hội.
- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: Khi lực lượng sản xuất phát
triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi
trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hoá có thể đổi lấy
nhiều hàng hoá khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái đầy đủ hay
mở rộng.
- Hình thái giá trị chung: Với sự phát triển cao hơn của lực lượng sản
xuất và phân công lao động xã hội, hàng hoá được đưa ra trao đổi thường
xuyên hơn. Nhu cầu trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn, người có vải muốn

đổi thóc, nhưng người có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì thế,
việc trao đổi trực tiếp không còn thích hợp và gây trở ngại cho trao đổi.
Trong tình hình đó, người ta phải đi vòng, mang hàng hoá của mình đổi lấy
thứ hàng hoá mà nó được nhiều người ưa chuộng, rồi đem đổi lấy thứ hàng
hoá mà mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại ở thứ
hàng hoá được nhiều người ưa chuộng , thì hình thái chung xuất hiện. Các
11
Page | 12
Trân Thị Hoài Thu
địa phương khác nhau thì hàng hoá dùng làm vật ngang giá chung cũng khác
nhau.
- Hình thái tiền tệ: Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội phát triển hơn nữa, sản xuất hàng hoá và thị trường ngày càng mở rộng,
thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa
phương vấp phải khó khăn , do đó đòi hỏi khách quan phải hình thành vật
ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung được cố định lại ở một
vật độc tôn và phổ biến thì hình thái tiền tệ của giá trị. Vậy tiền tệ là một
hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm vật ngang giá
chung thống nhất; nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa
những người sản xuất hàng hoá.
1.2. NỘI DUNG GIÁ TRỊ VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.2.1. Nội dung của giá trị
- Yêu cầu chung của quy luật: Giá trị là quy luật căn bản của sản xuất
và trao đổi hàng hoá. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự
tồn tại và phát huy tác dụng của giá trị. Theo giá trị, sản xuất và trao đổi
hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Yêu cầu riêng trong sản xuất hàng hoá: Trong kinh tế hàng hoá, mỗi
người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá
12

Page | 13
Trân Thị Hoài Thu
trị của hàng hoá không được quyết định bởi hao phí lao động cá biệt của
từng người sản xuất hàng hoá, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì
vậy, muốn bán được hàng hoá, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất
phải điều chỉnh làm cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức
chi phí lao động mà xã hội chấp nhận được.
- Yêu cầu riêng trong lưu thông hàng hoá: Trao đổi hàng hoá cũng
phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi
theo nguyên tắc ngang giá. Sự vận động của giá trị thông qua sự vận động
của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, nên trước hết giá cả phụ
thuộc và giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược
lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố: cạnh
tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các
- Trong thời kỳ tư bản tự do cạnh tranh: giá trị biểu hiện thành quy
luật giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận
bình quân (giá cả sản xuất = k + p ngang). Tiền đề của giá cả sản xuất là sự
hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá trị biến thành giá cả
sản xuất gồm có: đại công nghiệp cơ khí tự bản chủ nghĩa phát triển; sự liên
hệ rộng rãi giữa các ngành sản xuất, quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do
di chuyển từ ngành này sang ngành khác. Trước đây, khi chưa xuất hiện
phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hoá xoay quanh giá trị hàng hoá.
13
Page | 14
Trân Thị Hoài Thu
Giờ đây, giá cả hàng hoá xoay quanh giá cả sản xuất. Xét về mặt lượng ở
mỗi ngành giá cả sản xuất và giá trị hàng hoá có thể không bằng nhau,
nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá cả sản xuất luôn bằng tổng giá trị hàng
hoá. Trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ sở , là nội dung bên trong
của giá cả sản xuất; giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá cả

thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.
- Trong thời kỳ tư bản độc quyền: giá trị biểu hiện thành quy luật giá
cả độc quyền. Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã
áp đặt giá cả độc quyền ; giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền
cao khi bán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa giá trị không còn hoạt động. Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn
không thoát ly và không phủ định cơ sở của nó là giá trị . Các tổ chức độc
quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là chiếm đoạt một
phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác. Nếu xem xét trong
toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số
giá trị. Như vậy, nếu như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất, thì trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.
1.2.2. Biểu hiện giá trị trong nền kinh tế thị trường
14
Page | 15
Trân Thị Hoài Thu
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày nay (cũng
như hầu hết các nền kinh tế hiện đại ngày nay) là một nền kinh tế chịu sự chi
phối của cả bàn tay vô hình và bàn tay hữu hình tức là có sự phối hợp điều
tiết giữa cơ chế thị trường và các kế hoạch của chính phủ để nền kinh tế vận
hành một cách có hiệu quả nhất. Như trên đã nói, cơ chế thị trường là cơ chế
vận động của hệ thống quy luật mà trung tâm là giá trị. Các quy luật khác
nhau như quy luật cung cầu, giá cả, cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ chỉ
là những biểu hiện hoạt động của giá trị mà thôi. Giá trị còn là cơ sở để
chính phủ điều tiết nền kinh tế thông qua các công cụ thuế, chính sách tài
khoá, chính sách tiền tệ…Tất cả những quy luật và công cụ, phương tiện
trên chính là cách thức biểu hiện hoạt động và vận dụng giá trị trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.3. VAI TRÒ CỦA GIÁ TRỊ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ

TRƯỜNG
1.3.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
- Trong quá trình sản xuất hàng hoá: Điều tiết sản xuất tức là điều hoà,
phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Tác dụng này của giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị
trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung
nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy, lãi
15
Page | 16
Trân Thị Hoài Thu
cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức
lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở
nành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm xuốn, hàng hoá bán không chạy
và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản
xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao.
- Trong quá trình lưu thông hàng hoá: Điều tiết lưu thông của giá trị
cũng thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường
cũng do tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do
đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.
1.3.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng
suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh
- Người sản xuất phải hạ thấp chi phí cá biệt: Trong nền kinh tế hàng
hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết
định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất
khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có
hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội củ hàng hoá ở thế
có lợi, sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt
lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành
lợi thế trng cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao
16

Page | 17
Trân Thị Hoài Thu
phí lao động cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần
thiết.
- Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: để có lợi thế họ phải tìm cách
cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng
năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này
diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội, Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội
được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ
1.3.3. Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất
hàng hoá thành kẻ giàu người nghèo
- Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên: quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị
tất yếu dẫn đến kết qủa là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có
trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt
thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh
chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rỗng kinh doanh. Ngược lại
những người không có điều kiện thuận lợi làm ăm thua kém, hoặc gặp rủi ro
trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành nghèo khó.
- Phân hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo: xã hội bị phân hoá thành
kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội; thúc đẩy quá trình
tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có
xã hội cao, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi,
17
Page | 18
Trân Thị Hoài Thu
hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng
nhu cầu phát triển của đất nước.
- Tổ chức xã hội: giá trị đóng vai trò quan trọng trong việc làm phong
phú thêm nội dung kinh tế của các mối quan hệ kinh tế giữa xã hội với các
tập thể lao động (các đơn vị kinh doanh), giữa các tập thể lao động với nhau

cũng như giữa các tập thể với từng người lao động. Giá trị tạo cho chủ nghĩa
xã hội các công cụ kinh tế quan trọng để thực hiện, củng cố và phát triển sự
xã hội hoá sản xuất trên thực tế. Sự xã hội hóa trên thực tế là sự tác động lẫn
nhau một cách chặt chẽ và hợp lý, giữa các đơn vị kinh tế, tạo cơ sở cho
người tham gia sản xuất hoạt động theo phương án thống nhất, đảm bảo các
lợi ích của xã hội, tập thể và người lao động.
- Kích thích xã hội: Giá trị phục vụ quá trình phân phối, nhằm tính đến
hiệu quả kinh tế. ở đây, việc phân phối bao gồm sự phân chia các nguồn lực
cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, các sản phẩm tiêu dùng và sự trả lương
cho lao động. Giá trị kích thích sự phát triển của các hoạt động sản xuất kinh
doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Bảo đảm xã hội: việc tuân thủ các yêu cầu của giá trị sẽ định hướng
nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội hướng vào hiệu quả kinh tế, đảm bảo sự
phát triển lực lượng sản xuất và tạo điều kiện khai thác các nguồn lực để đẩy
mạnh tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, việc trao đổi ngang giá theo yêu cầu
18
Page | 19
Trân Thị Hoài Thu
của giá trị đã tạo ra điều kiện cần thiết bảo đảm cho xí nghiệp làm ăn tốt,
chống lại việc phân phối vô căn cứ đối với các nguồn vốn sản xuất kinh
doanh. Đây chính là đóng góp của giá trị trong việc đảm bảo xã hội ổn định
và phát triển.
19
Page | 20
Trân Thị Hoài Thu
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VẬN DỤNG LÝ LUẬN GIÁ TRỊ CỦA C.MÁC VÀ
GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN LÝ LUẬN GIÁ
TRỊ Ở NƯỚC TA
2.1. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG LÝ LUẬN GIÁ TRỊ Ở NƯỚC TA

2.1.1. Thực trạng
- Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh
tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh và đặc biệt là giá trị. Sự tác động của các quy
luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Các doanh nghiệp, các
hộ gia đình tự quyết định hành vi của mình để trả lời thoả đáng ba câu hỏi:
sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào. Trên thị trường hàng
hoá và dịch vụ, giá cả điều tiết cung cầu. Tiến hành đổi mới doanh nghiệp
Nhà nước, mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp, xoá bỏ dần việc nhà
nước bao cấp sản xuất và tiêu cực, giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém
hiệu quả, thua lỗ kéo dài.
- Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường: Vì vậy nền kinh tế nước
ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó
sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán còn phổ biến. Mỗi thành phần kinh tế theo
20
Page | 21
Trân Thị Hoài Thu
đuổi mục đích riêng và bằng những phương tiện riêng và chịu sự tác động
của các quy luật kinh tế đặc thù.
- Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại,
hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát
triển kinh tế – kỹ thuật của nước ta thấp so với hầu hết các nước khác. Toàn
cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đựt ra chung cho các nước cũng như
nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt. Nhưng nó là xu thế tất
yếu khách quan, nên không đặt vấn đề tham gia hay không tham gia mà chỉ
có thể đặt vấn đề: tìm cách xử sự với xu hướng đó như thế nào? Phải chủ
động hội nhập, chuẩn bị tốt để chủ động tham gia vào khu vực hoá và toàn
cầu hoá, tìm ra “cái mạnh tương đối” của nước ta, thực hiện đa dạng hoá
kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để phát huy nội lực, nhằm thúc đẩy

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, định hướng đi lên xã
hội chủ nghĩa.
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Xoá bỏ hoàn toàn cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực chất đây là quá trình đổi mới cả hệ thống
các công cụ, chính sách quản lý kinh tế, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị
trường và tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước.
2.1.2. Thành tựu và hạn chế
21
Page | 22
Trân Thị Hoài Thu
- Thành tựu:
+ Kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng
động, có hiệu quả.
+ Sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng
cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (tổng cầu). Nhờ đó ta có
thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân về hàng ngàn, hàng vạn sản
phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một
số công việc lớn, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong
quá trình ra các quyết định.
+ Kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Sức ép của cạnh
tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức
tối thiểu bằng cách áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất như không ngừng
đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới sản xuất, đổi mới tổ chức
sản xuất và quản lý kinh doanh, nân cao hiệu quả.
+ Thực hiện phân phối nguồn lực một cách tối ưu. Trong nền kinh
tế thị trường với sự hoạt động mạnh mẽ của giá trị, việc lưu động, di chuyển
phân phối các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thị trường;
chúng sẽ chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các

nguồn lực kinh tế được phân bố một cách tối ưu.
22
Page | 23
Trân Thị Hoài Thu
+ Tạo sự mềm dẻo và linh hoạt và có khả năng thích nghi cao hơn
nữa trước những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản
xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
+ Nền kinh tế tăng trưởng liên tục trong giai đoạn 1986 – 2004,
nhiều năm đạt tố độ cao: Từ thập kỷ 90 nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ
9,5%, hoàn thành vượt mức kế hoạch 5 năm (1991-1995). Sản xuất đã đáp
ứng được tiêu dùng và dành một phần cho tích luỹ (1991: 10%, 1995: 20%,
2000: 27% GDP). Nông nghiệp đạt sản lượng tăng từ 21,5 triệu tấn (1990)
lên 36 triệu tấn (2002), bình quân mỗi năm tăng 1,4 triệu tấn. Công nghiệp :
tăng trưởng liên tục với hai con số, đạt 13,7% (1991-1995), tăng 13,2 %
(1996-2000). Bình quân đầu người nhiều sản phẩm công nghiệp tăng lên.
Xây dựng mới và nâng cấp hệ thống giao thông vận tải và bưu điện. Hoạt
động thương mại và dịch vụ có nhiều chuyển biến mạnh mẽ.
- Hạn chế:
+Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng
chưa đồng bộ. Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được
tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống
nhất. Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn
nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn
làm rối loạn thị trường. Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha,
23
Page | 24
Trân Thị Hoài Thu
một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện
nhưng đã nảy sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là
sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về

sức lao động giản đơn lại vượt quá cầu, nhiều người có sức lao động không
tìm được việc làm. Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ
nhưng vẫn còn nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mức thủ tục, trong khi
đó nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không hteer cho
vay để ứ đọng trong két dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại đã
đến mức báo động. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa có
nhiều “hàng hoá” để mua – bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện
tham gia thị trường này.
+ Sự cạnh tranh không hoàn hảo, do sự vận dụng giá trị còn chưa
được hiệu quả nên vẫn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có thể giảm
sản lượng, tăng giá để thu lợi nhuận cao, mặt khác, khi xuất hiện độc quyền,
thì không có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật.
+ Hiệu quả kinh tế xã hội không được đảm bảo do mục đích của các
chủ thể kinh tế là lợi nhuận tối đa; họ lạm dụng tài nguyên và gây ô nhiễm
môi trường sống.
24
Page | 25
Trân Thị Hoài Thu
+ Phân phối thu nhập không công bằng, dưới tác dụng của giá trị sẽ
có sự phân chia kẻ giàu người nghèo nhưng do sự vận dụng còn bị hạn chế
nên không đem lại được sự công bằng cho mọi người dân bằng các chính
sách trợ giúp xã hội.
+ Không thể tránh khỏi khủng hoảng kinh tế chu kỳ và thất nghiệp,
tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta còn tương đối cao và gần đây lạm phát đã lên tới
10%.
+ Trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở
giai đoạn sơ khai: Nền kinh tế vẫn chủ yếu là nông nghiệp công nghiệp nhỏ
bé, kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém, chưa xây dựng được
bao nhiêu, cơ cấu lao động chậm biến đổi, 75% dân số sống ở nông thôn.

Nước ta còn nghèo nhưng chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết
kiệm trong tiêu dùng, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và đầu tư cho phát triển
còn thấp. Nền kinh tế đạt mức tăng trưởng khá nhưng năng suất và hiệu quả
còn kém.
2.1.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế
- Nguyên nhân của những thành tựu:
+ Sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước Việt Nam quản lý nền
kinh tế thị trường trước hết đã dựa trên những yêu cầu khách quan của các
quy luật kinh tế thị trường mà trong đó có giá trị. Nhà nước thiết lập khuôn
25

×