Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng thủy sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.27 KB, 96 trang )

LỜI MỞ ĐẨU
1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam đang hướng tới một quốc gia kinh tế biển. Nước ta là một quốc gia
có biển lớn trong vùng biển đông với chỉ số biển khoảng 0.01, gấp 6 lần giá trị trung
bình thế giới. Biển Việt Nam dài và đẹp, lại chứa đựng nguồn tài nguyên phong phú
và đa dạng với trữ lượng, qui mô thuộc loại khá, cho phép phát triển nhiều lĩnh vực
kinh tế biển quan trọng. Kinh tế biển đã và đang đóng góp một phần rất lớn cho nền
kinh tế nước nhà. Trong xây dựng và phát triển kinh tế biển, ngành công nghiệp
đánh bắt, nuôi trồng và chế biến hải sản đóng vai trò quan trọng.
Thủy sản là một trong những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu chiếm tỉ trọng
lớn trong cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta. Năm 2006 được đánh dấu bằng cột
mốc mới về xuất khẩu thủy sản với việc đạt con số 3,4 tỷ USD, góp 8.6% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu chung cả nước. Sang năm 2007, xuất khẩu thủy sản Việt Nam
ở vị trí một trong mười nước có giá trị xuất khẩu hàng đầu thế giới và nằm trong
nhóm bốn ngành hàng có giá trị xuất khẩu trên 3 tỷ USD của Việt Nam. Tới năm
2008, giá trị xuất khẩu đã tăng lên trên 4.5 tỉ USD, tăng 19.8% về giá trị so với năm
2007. Những con số đó đã nói lên rằng thủy sản ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong cơ cấu kinh tế Việt Nam.
Ngành thủy sản đang trong quá trình đầu tư để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Kể từ sau năm 1986, khi chính sách đổi mới của Đảng được thực hiện trong cả nước,
thị trường thủy sản được mở rộng và tăng trưởng với tốc độ rất nhanh. Sự mở rộng
thị trường đã kích thích sản xuất phát triển. Có thể nói thị trường xuất khẩu thủy sản
đã mở đường, hướng dẫn cho quá trình chuyển đổi mạnh mẽ các vùng diện tích sản
xuất nông nghiệp kém hiệu quả thành những vùng sản xuất nguyên liệu lớn, phục vụ
cho ngành nghề chế biến thủy sản xuất khẩu. Hiện nay, Bộ thủy sản đã có kế hoạch
đầu tư cơ sở vật chất, kĩ thuật, khoa học công nghệ cũng như nguồn nhân lực để phát
triển ngành thủy sản với tầm nhìn đến năm 2020.
Suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế thế giới nói chung
cũng như kinh tế Việt Nam nói riêng, và ngành thủy sản cũng là một trong những
ngành gánh chịu hậu quả nặng nề. Trong bối cảnh suy thoái, các nước đã tận dụng
triệt để hàng rào kĩ thuật gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Năm 2009,


nước ta chỉ còn giữ được 122 thị trường xuất khẩu, giảm 37 thị trường so với năm
2008. Lần đầu tiên sau 10 năm, xuất khẩu thủy sản 2009 tăng trưởng âm. Hiện nay,
kinh tế thế giới đang phục hồi tuy nhiên đây chỉ mới là những dấu hiệu ban đầu,
cùng với sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa, nguy cơ một cuộc khủng hoảng
mới không phải là điều không thể có.
Với những lí do trên, người viết đã chọn thực hiện khóa luận với đề tài “ Giải
pháp thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng thủy sản Việt Nam trong bối cảnh suy
giảm kinh tế toàn cầu”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Luận văn đưa ra cái nhìn tổng quan về tình hình suy giảm kinh tế toàn cầu diễn
ra vào năm 2008-2009, thị trường thủy sản thế giới và thực trạng thủy sản Việt
Nam trong năm 2008-2009
- Thực trạng hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam chủ yếu trong 2 năm 2008-
2009, đồng thời phân tích tác động của suy giảm kinh tế toàn cầu đối với hoạt
động xuất khẩu thủy sản Việt Nam
- Trên cơ sở đánh giá những thách thức, khó khăn và cơ hội đối với hoạt động xuất
khẩu thủy sản, từ đó đề xuất các giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thủy
sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam chủ yếu trong 2 năm 2008-
2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu đề ra, khóa luận đã sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu định tính kết hợp với định lượng, các phương pháp so sánh, mô
tả, phân tích, thống kê, và tổng hợp để xử lí số liệu. Đồng thời khóa luận cũng
vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm khái
quát, hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu.

5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục từ viết tắt, danh mục bảng, hình, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3 chương:
Chương I: Khái quát về tình hình suy giảm kinh tế toàn cầu, thị trường thủy
sản thế giới, và tổng quan về thủy sản Việt Nam trong thời gian qua
Chương II: Tác động của suy giảm kinh tế toàn cầu đối với hoạt động xuất
khẩu thủy sản Việt Nam
Chương III: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong bối cảnh
suy giảm kinh tế toàn cầu
Do khó khăn trong việc tìm kiếm tài liệu và sự hiểu biết còn hạn chế của bản
thân, bài khóa luận này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của quý thầy cô, bạn bè để đề tài hoàn
thiện hơn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè và đặc biệt là Ts. Đào Thị Thu
Giang đã giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày tháng năm
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GDP Gross Dosmetic Production
Tồng giá trị sản phẩm quốc nội
FED Federal Reserve System
Cục dự trữ liên bang Mỹ
WTO World Trade Ognization
Tổ chức thương mại thế giới
ILO International Labour Ognization
Tổ chức thương mại thế giới
ECB Europe Center Bank
Ngân hàng trung ương châu Âu
FAO Food and Agricultural Ognization
Tổ chức lương thực thế giới
KTHS Khai thác hải sản

NTTS Nuôi trồng thủy sản
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU
2008-2009, THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN THẾ GIỚI VÀ TỔNG QUAN VỀ THỦY
SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
1.1 Khái quát về tình hình suy giảm kinh tế toàn cầu thời gian qua
1.1.1 Tổng quan về suy giảm kinh tế trên thế giới 2008-2009
Theo Wikipedia- từ điển bách khoa toàn thư trực tuyến thế giới – gọi cuộc suy
thoái toàn cầu 2008-2009 là cuộc suy thoái cuối thập niên 2000 (Late-2000s recession)
để phân biệt với các cuộc suy thoái khác trong lịch sử.
Suy thoái kinh tế cuối thập niên 2000 là cuộc suy thoái kinh tế và suy giảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế diễn ra đồng thởi ở nhiều nước và nhiều khu vực trên thế giới. Nó có
nguồn gốc từ suy thoái kinh tế Hoa Kỳ cuối thập niên 2000 và khủng hoảng tài chính
2007-2010.
Bong bóng nhà ở của Hoa Kỳ dẫn tới khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp rồi
phát triển thành một cuộc khủng hoảng tài chính mà hậu quả là tình trạng đói tín dụng
ảnh hưởng tới khu vực kinh tế thực. Vỡ bong bóng nhà ở cũng dẫn tới suy giảm tiêu
dùng cá nhân ở Hoa Kỳ. Sự bất trắc trong đời sống kinh tế và kinh doanh càng làm cho
tiêu dùng và sản xuất bị hạn chế. Ba nhân tố này gây ra suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ từ
năm 2008. Nhiều nước trên thế giới có các tổ chức tài chính đã tham gia vào thị trường
tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Khi các tổ chức tài chính này bị thua lỗ, tình trạng rối
loạn tài chính, thậm chí là tình trạng khủng hoảng tài chính đã xảy ra ở nhiều nước
khiến cho các nước này rơi vào suy thoái kinh tế hoặc suy giảm tốc độ tăng trưởng. Do
Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản là những thị trường xuất khẩu quan trọng của nhiều
nước đang phát triển (nhất là khu vực Đông Á) nên suy thoái và suy giảm kinh tế từ thế
giới phát triển đã làm giảm xuất khẩu của các nước đang phát triển. Đồng thời vì các
nước phát triển là nguồn cung cấp các khoản vay ngân hàng, các khoản vốn đầu tư trực
tiếp và gián tiếp cho các nước đang phát triển, nên khi các nước phát triển dừng cho vay,
dừng giải ngân hay rút vốn về, nhiều nền kinh tế đang phát triển đã bị tác động tiêu cực
nghiêm trọng.[25]


Hình 1.1: Tốc độ tăng trưởng GDP hàng quí của thế giới
(Đơn vị: phần trăm)
(Nguồn: /> Hình 1.1 cho ta thấy tốc độ tăng trưởng GDP hàng quí của thế giới từ năm 2005
đến năm 2009. Trong giai đoạn từ năm 2005 đến 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế
giới cũng như các nước phát triển và các nước đang phát triển tương đối ổn định. Tuy
nhiên, bắt đầu từ năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới bắt đầu giảm mạnh, đặc
biệt giai đoạn từ quí 2 năm 2008 đến quí 1 năm 2009, con số này luôn âm ở hầu hết các
nền kinh tế trên thế giới. Cụ thể, giai đoạn từ năm 2005 đến 2007, tốc độ tăng trưởng
kinh tế thế giới chỉ dao động trong khoảng 3,5-5,5%, trong đó các nước phát triển là
1,5-3,5% và các nước đang phát triển là 7-10.5%. Năm 2008, thế giới chỉ tăng trưởng
3.75%, sụt giảm 5% so với năm 2007, hơn 20 nước chính thức tuyên bố suy thoái, trong
đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản, và EU- đây cũng là lần đầu tiên 3 nền kinh tế lớn nhất thế giới
cùng suy thoái kể từ năm 1945 đến nay; tăng trưởng tại các nền kinh tế mới nổi như
Trung Quốc (Quí 1/2008: 10,6%; Quý 2/2008: 10,1%; Quý 3/2008: 9%), Ấn Độ (8,8-
7,9%), Hàn Quốc (5,86-3,63%), Thái Lan (6,05-3,96%)[] và các nước đang phát triển
khác đều sụt giảm, trong đó có Việt Nam cũng chỉ ở mức 6,23%, mức thấp nhất trong
thập kỉ qua. Suy thoái kinh tế tiếp tục gây ảnh hưởng nặng nề cho nhiều quốc gia vào
đầu năm 2009, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2009 là 8,7%, (Quý 1/2009: 6,2%;
Quý 2/2009: 7,9%; Quý 3/2009: 9.1%; Quý 4/2009: 10.7%)[2]; Việt Nam 6 tháng đầu
năm 2009 là 3,76% so với cùng kỳ năm 2008 [3]. Theo nhận định của các chuyên gia
kinh tế, như kinh tế gia trưởng Justin Lin củaWorld Bank, chuyên gia kinh tế của đại
học tổng hợp New York – Nouriel Roubini thì đây là cuộc suy thoái tồi tệ nhất của kinh
tế thế giới từ sau Đại khủng hoảng 1930.[25]
Từ cuối năm 2009, kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu phục hồi, tuy nhiên bên
cạnh những nhà kinh tế lạc quan cho rằng kinh tế thế giới đang phục hồi theo hình chữ
U, thì cũng không ít nhà kinh tế dự báo rằng, kinh tế thế giới chỉ tăng trưởng một thời
gian sau đó lại đi xuống, có nghĩa là sẽ đi theo hình chữ W. Theo nhận định của cựu chủ
tịch FED Alan Greenspan “thế giới sẽ còn phải trải qua những cuộc khủng hoảng tài
chính nữa trong tương lai”. Nói về khủng hoảng, ông cũng cho biết thêm “ Đó là lẽ tự
nhiên của con người. Trừ phi một ai đó có thể tìm ra cách thay đổi tự nhiên, chúng ta sẽ

còn phải chứng kiến thêm những cuộc khủng hoảng nữa, và không một cuộc khủng
hoảng nào trong số đó giống như lần khủng hoảng này. Bởi vì không có hai cuộc khủng
hoảng nào lại có bất kì điểm chung gì, trừ lẽ tự nhiên của con người”.[14]
1.1.2 Tác động của suy thoái tới kinh tế toàn cầu
1.1.2.1 Tác động tiêu cực
Thương mại toàn cầu sụt giảm: Nhìn chung nhu cầu tiêu thụ ở các thị trường
lớn trên thế giới giảm mạnh, đặc biệt là ở thị trường Mỹ vốn là thị trường xuất khẩu
chính của nhiều nước, khiến thương mại bị ảnh hưởng mạnh. Theo Pasca Lamy – tổng
giám đốc WTO thì “ thương mại thế giới đã sụt giảm 12% trong năm 2009”, mức giảm
sút thấp nhất kể từ Đại chiến thế giới II [14]. Xuất khẩu của Đức, nước xuất khẩu lớn
nhất thế giới trong tháng 12 năm 2008 đã giảm 3,7% sau khi giảm kỉ lục 10.8% trong
tháng trước đó. Nhật Bản cũng rơi vào tình cảnh tương tự khi kim ngạch xuất khẩu của
nước này đã giảm tới mức 35%, trong khi nhập khẩu cũng giảm mạnh. Khối lượng xuất
nhập khẩu của Mỹ đã giảm 5 tháng liên tiếp và Trung Quốc- “công xưởng thế giới” kim
ngạch xuất khẩu giảm 17,5 % ngay trong tháng 1/2009. Trong năm 2008, thương mại
thế giới chỉ tăng ở mức 4% so với mức 5,5% trong năm 2007, thậm chí còn tăng trưởng
âm trong tháng 11. Ông Lamy cũng nhận định rằng đầu năm 2010, thương mại toàn cầu
đã có sự phục hồi khiêm tốn, tuy nhiên không thể xác định được sự khởi sắc này sớm
kết thúc hay có thể kéo dài [14]. Thương mại toàn cầu giảm khiến nhiều ngành công
nghiệp điêu đứng, kể đến như vận tải biển, sản xuất ô tô, xây dựng,… thêm vào đó là sự
suy thoái về dịch vụ và tiêu dùng khiến những nước dựa chính xuất khẩu có nguy cơ sụt
giảm kinh tế sâu hơn.
Giá cả hàng hóa và nguyên vật liệu thô giảm: Sự tăng trưởng chậm lại của
hai “đầu máy” kinh tế thế giới- trung tâm kinh tế Mỹ và nền kinh tế tăng trưởng nhanh
nhất thế giới- Trung Quốc đã kéo theo sự sụt giảm mạnh nhu cầu của các loại hàng hóa
như dầu, thực phẩm và khoáng sản, đồng thời nhu cầu yếu đi tại hầu hết các quốc gia đã
gây sức ép giảm giá các mặt hàng khác. Suy thoái làm thương mại toàn cầu sụt giảm,
sản xuất thu hẹp, vì vậy nhu cầu về nguyên liệu giảm sút, do đó kéo giá nguyên vật liệu
thô giảm. So với mức giá cao hồi tháng 7/2008, chỉ số giá hàng hóa Dow Jones- AIG tại
thị trường Mỹ vào giữa năm 2009 đã mất một nửa giá trị, nếu tháng 7/2008, giá dầu thế

giới là 150USD/thùng thì trong quý II/2009 giá chỉ còn 50 USD/thùng. Không chỉ là giá
dầu, mà giá những nguyên vật liệu khác cũng giảm mạnh, như giá kim loại, giá nông
sản,… Giá cả hàng hóa và nguyên vật liệu thô giảm gây khó khăn cho những nền kinh
tế đang phát triển vì nền kinh tế các nước này chủ yếu dựa vào xuất khẩu nguyên liệu
thô.
Hình 1.2: Chỉ số giá dầu thô qua các năm
(Nguồn: /> Niềm tin của nhà đầu tư và người tiêu dùng sụt giảm: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã
gây ra tình trạng thắt chặt thanh khoản và tín dụng trên Phố Wall, tình trạng này lan
rộng ra thị trường tài chính nhiều nước. Một lượng trái phiếu bất động sản chứa đựng
đầy rủi ro và nợ thế chấp của Mỹ đã được bán ra cho các nhà đầu tư nước ngoài, gây
nên thất thoát tài chính do tình trạng vỡ nợ ở nhiều nơi tụ trên thế giới.
Do thua lỗ nặng nề, các tập đoàn đa quốc gia bắt đầu cắt giảm đầu tư vào các nhà
máy ở nhiều nơi trên thế giới. Thêm vào đó, các tập đoàn châu Âu cũng chịu tác động
đặc biệt lớn do họ phụ thuộc vào các khoản vay ngân hàng nhiều hơn các doanh nghiệp
Mỹ.
Bảng 1.1 Thiệt hại của một số ngân hàng, chức tài chính lớn trên thế giới tính
đến tháng 5/2008
(Đơn vị: tỷ USD)
UBS 37,7
Citygroup 24,1
Merrill Lynch 22,5
HSBC 17,2
Morgan Stanley 10,3
Bank of America 9,4
Deutssche Bank 7,0
JP Morgan Chase 2,9
Goldman Sachs 1,5
(Nguồn: tổng hợp từ NYT, FT, Economist, AFP)
Nhìn vào bảng tổng hợp có thể hình dung phần nào mức độ ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế Mỹ tới thế giới. Thiệt hại lớn nhất của ngân hàng số 1 Thụy Sĩ

UBS với mức 37,7 tỷ USD. Những “ông lớn” khác trên thị trường tài chính thế giới.
như Citygroup, HSBC,… cũng không thoát khỏi những con số thua lỗ nặng nề.
Suy thoái kinh tế toàn cầu cũng đã gây nên sự sụt giảm mạnh mẽ của thị trường
chứng khoán. Triển vọng kinh tế nghèo nàn ảnh hưởng đến niềm tin của các nhà đầu tư.
Chỉ số chứng khoán của hầu hết các nền kinh tế phát triển và đang phát triển đều giảm
nghiêm trọng khoảng 30-60% trong năm 2008, trong đó chỉ số VN-Index của Việt Nam
giảm đến 65,9% cao nhất khu vực châu Á. Sự sụt giảm thị trường chứng khoán cũng
đồng nghĩa với sự thu hẹp của thêm một kênh vốn đầu tư cho sản xuất, khiến sản xuất
thêm trì trệ.
Bảng 1.2: Toàn cảnh chứng khoán thế giới 2008
Toàn cảnh chứng khoán thế giới 2008
Thị
trường
Chỉ số Giá
trị đóng
cửa 30/12
Tăng/giảm
so với năm
2007(điểm)
Tăng/giảm
so với
2007(%)
Mỹ
Dow Jones 8.668,39 4.375,57 34,6
Nasdaq 1.550,70 1.058,93 41,5
S&P 500 890,64 556,52 39,3
Anh FTSE 100 4.392,68 2.024,02 31,5
Đức DAX 4.810,20 3.138,91 39,5
Pháp CAC 40 3.217,13 2.333,23 42,0
Đài Loan Taiwan

Weighted
4.589,04 3.734,01 44,8
Nhật Nikkei 225 8.859,56 5.831,85 42,1
Hồng
Kông
Hang Seng 14.235,50 13.325,02 48,8
Hàn Quốc KOSPI
Composite
1.124,47 728,98 40,7
Singapore Straits
Times
1.770,65 1.690,57 49,0
Trung
Quốc
Shanghai
Composite
1.832,91 3.428,65 65,2
Ấn Độ BSE 30 9.716,16 10.749,14 52,2
Australia ASX 3.591,40 2.842,70 44,1
Việt Nam VN-Index 316,32 604,75 65,9
Nguồn:CNBC, Thomson Reuters, Bloomberg
Hình 1.3 Biểu đồ tăng/giảm của một số chỉ số chứng khoán tiểu biểu năm 2008
Nguồn: />gioi-2008-kho-tin-nhung-la-thuc-te!.htm

Từ bảng và biểu đồ ta thấy năm 2008 là năm đánh dấu sự sụt giảm mạnh mẽ của các thị
trường chứng khoán trên khắp thế giới thể hiện qua việc xuống điểm mạnh so với năm
2007 của chỉ số chứng khoán tại các sàn trên thị trường thế giới. Tất cả các sàn đều
giảm điểm trên 30% so với năm 2007, trong đó điều đáng buồn là chỉ số Vn-Index giảm
mạnh nhất (-65,9%). Nhìn chung thị trường châu Á giảm điểm nhiều hơn hẳn so với thị
trường Mỹ và Châu Âu, các thị trường châu Á đều giảm trên 40%, trong khi thị trường

Mỹ và Châu Âu nằm trong khoảng từ 30-40%. Thị trường chứng khoán phản ánh sức
khỏe nền kinh tế, trong khi các quốc gia châu Á đa số là các nước có nền kinh tế phụ
thuộc vào xuất khẩu. Do đó, khi khủng hoảng xảy ra, thương mại toàn cầu giảm sút đã
tác động rất lớn đến nền kinh tế các nước xuất khẩu.
Trước những tin xấu của nền kinh tế toàn cầu, niềm tin của người tiêu dùng trên
khắp thế giới cũng trở nên yếu đi hơn bao giờ hết, vì vậy đã ảnh hưởng tới sức mua
người tiêu dùng trên thế giới.
Hình 1.4: Chỉ số giá tiêu dùng toàn cầu và chỉ số giá thực phẩm nông nghiệp
toàn cầu
(Nguồn: Global trade overview by Adun Lem
/>Từ hình 1.2 ta thấy chỉ số giá tiêu dùng toàn cầu và chỉ số giá thực phẩm FAO cùng biến
động theo hình chữ V ngược. Nếu như từ năm 2006 trở về trước, chỉ số này ở mức rất
thấp, dưới 125, thì sau đó những con số này tăng liên tục và đạt đỉnh điểm vào giữa năm
2008 (ở mức xấp xỉ 275), đây là giai đoạn nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng mạnh mẽ.
Tuy nhiên sau đó, bắt đẩu từ giữa năm 2008 đến quý I/2009, 2 chỉ số này giảm nhanh,
nguyên do là đây là giai đoạn nền kinh tế thế giới gặp khó khăn do ảnh hưởng của suy
thoái kinh tế.
Một khi niềm tin của nhà đầu tư và người tiêu dùng trên thế giới giảm thì tất yếu
sản xuất sẽ bị thu hẹp, ảnh hưởng đến quy mô kinh tế thế giới.
Tỉ lệ thất nghiệp gia tăng mạnh: Hiện tượng đồng hành với suy thoái kinh tế là
giảm khả năng đầu tư và nhu cầu tiêu dùng, kéo theo hàng loạt doanh nghiệp phá sản
hoặc thu hẹp sản xuất kinh doanh. Hệ quả là tỉ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên. Tại Mỹ- nơi
bắt nguồn của sự suy thoái, tình trạng mất việc làm là khắc nghiệt nhất. Thị trường lao
động ở Mỹ đã mất đi 5,1 triệu việc làm từ khi kinh tế bắt đầu đi xuống vào cuối năm
2007. Trong tháng 3/2009, tỉ lệ thất nghiệp tại Mỹ lên đến 8,8%- mức cao nhất trong
vòng 25 năm trở lại, trong đó, ngành công nghiệp mất 305.000 việc, dịch vụ là 358.000
việc [12]. Tháng 1/2009, tỉ lệ thất nghiệp của toàn châu Âu là 7,6%, trong đó khu vực
đồng EU là 8,2%. Ở các nước đang phát triển, con số này cũng gia tăng, Trung Quốc-
đất nước với dân số đông nhất thế giới đã có 20 triệu lao động nông thôn mất việc làm ở
thành phố; ở Ấn Độ hơn nửa triệu việc làm bị biến mất trong ba tháng cuối năm 2008.

Suy thoái kinh tế kéo theo nhu cầu nhập khẩu lao động của các nước trên thế giới giảm,
chính phủ Malaysia đã tìm cách cắt giảm lao động nước ngoài mỗi năm 400.000 người
kể từ năm 2008. Tỉ lệ thất nghiệp tăng cao ở các nước đang phát triển dẫn đến nguy cơ
đói nghèo gia tăng.
Bảng 1.4: Tỉ lệ thất nghiệp ở một số quốc gia trong tháng 11, 12 năm 2008
(Đơn vị: phần trăm)
Tháng 11/2008 Tháng 12/2008
Anh 3,3% 3,6%
Croatia 13,2% 13,7%
Đan Mạch 1,9% 2,1%
Đức 7,7% 7,8%
Hà Lan 3,8% 3,9%
Na Uy 2% 2,6%
Rumani 4,1% 4,4%
Thụy Điển 6,2% 6,4%
Thụy Sĩ 2,7% 3%
(Nguồn: Bài “Tình trạng thất nghiệp tại 15 nước”
/> Bảng trên cho thấy tình trạng thất nghiệp tại 10 nước châu Âu trong tháng 11, 12
năm 2008. Liên tiếp trong 2 tháng cuối năm 2008, tỉ lệ thất nghiệp ở các nước trên gia
tăng từ mức 0,1%-0.6%. Nếu như năm 2008, tỉ lệ thất nghiệp thế giới là 5,7% thì trong
năm 2009 con số này đã lên đến 6,2%.
Theo ILO- tổ chức lao động quốc tế đưa ra nhận định khủng hoảng kinh tế có thể
làm tăng thêm 51 triệu người thất nghiệp, trong năm 2009 toàn thế giới sẽ có tới 230
triệu người không có việc làm. Tình trạng thất nghiệp tăng làm tăng thêm gánh nặng
kinh tế đối với từng gia đình, cá nhân, gây nên những bất ổn về mặt xã hội.
Nguy cơ gia tăng bảo hộ mậu dịch trên thế giới: Trong suốt thế kỉ 20, xu hướng
toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, làm cho các nước xích lại gần nhau, cùng hợp tác, phát
triển. Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, toàn cầu hóa lại là một nguyên
nhân gây nên phát tán khủng hoảng, dẫn đến nguy cơ về sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo
hộ mậu dịch. Các nước đã đưa ra các gói kích thích kinh tế lớn và khuyến khích dùng

hàng nội để giảm bớt gánh nặng cho nhà sản xuất. Tại Mỹ, chính quyền đã tung ra gói
kích thích kinh tế trị giá hơn 900 tỷ USD, trong đó có điều khoản “Người Mỹ dùng hàng
Mỹ”, theo đó Chính phủ nước này không cấp ngân sách cho bất cứ dự án xây dựng,
nâng cấp hay sửa chữa công trình công cộng nào nếu không sử dụng toàn bộ sắt thép
hay hàng hóa sản xuất trong nước. Liên minh châu Âu cũng đưa ra chính sách trợ cấp
xuất khẩu cho sản phẩm sữa, hay tại Pháp, tổng thống Nicolas Sarcozy đề nghị gói hỗ
trợ 5 tỷ cho các nhà sản xuất ô tô vơí điều kiện chỉ sử dụng các thành phần sản xuất ở
Pháp và sử dụng nhân công bản địa. Tại Châu Á, nhiều nước cũng áp dụng những hình
thức bảo hộ riêng, tại Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia đã trục xuất hàng vạn lao động
ngoại quốc về nước, hay ở Indonesia- nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á, chinh quyền
đã yêu cầu người dân trong nước, đồng thời ban hành nhiều biện pháp nhằm hạn chế
nhập khẩu các mặt hàng như điện tử, thực phẩm, và thời trang [10].
Trên thực tế, việc bảo hộ mậu dịch đi ngược lại quá trình tự do hóa thương mại
toàn cầu, đặc biệt là tác động tiêu cực đến các nền kinh tế lệ thuộc vào xuất khẩu. Bảo
hộ kinh tế khiến suy thoái kinh tế toàn cầu trầm trọng hơn, cuộc Đại khủng hoảng 1930
là minh chứng cho điều đó. Tuy nhiên, các nước trên thế giới vẫn đưa các những biện
pháp để bảo vệ nền sản xuất của nước mình trong bối cảnh suy thoái kinh tế.
Khó khăn trong việc điều hành chính sách để đối phó với suy thoái: Thông
thường khi nền kinh tế có dấu hiệu bất thường, ngân hàng trung ương các nước thường
phản ứng nhanh để đối phó với những dấu hiệu đó. Có nhiều người tin rằng khi khủng
hoảng kinh tế xảy ra, các ngân hàng trung ương có thể cứu thế giới thoát khỏi khủng
hoảng. Chẳng hạn như thời kì suy thoái 2001, FED đã cắt giảm lãi suất từ 6,5% xuống
còn 1%, ngân hàng trung ương châu Âu ECB giảm lãi suất từ 4% xuống còn 2%, ngân
hàng trung ương Nhật BOJ giảm lãi suất xuống 0%[13]. Tuy nhiên, ngày nay lạm phát
tăng cao khiến khả năng của các ngân hàng trung ương trong việc sử dụng các công cụ
tiền tệ để kích thích tăng trưởng và giảm bớt suy thoái bị hạn chế rất nhiều.
Khi khủng hoảng xảy ra, hầu hết các ngân hàng trung ương đều cắt giảm lãi suất,
đồng tiền trong nước mất giá, những nhà xuất khẩu trong nước được lợi. Tuy nhiên,
nhìn nhận ở góc độ toàn cầu, điều này ảnh hưởng xấu đến khả năng cạnh tranh và tăng
trưởng của những đối tác thương mại với nước đó.

Trong bối cảnh suy thoái, nhu cầu của người dân giảm sút mạnh mẽ trong khi
nguồn cung hàng hóa, nhà cửa rất dư dả, do đó, phải tốn khoảng thời gian dài để người
dân mới có thể tiêu thụ hết lượng hàng hóa đó. Thêm vào đó, suy thoái cũng làm cho
khả năng trả nợ của cá nhân doanh nghiệp giảm sút, khiến tình trạng vỡ nợ có khả năng
tăng vọt, nhiều doanh nghiệp, tổ chức tín dụng đứng bên bờ vực phá sản.
Nền kinh tế thế giới ảm đạm, nhiều nước trong tình trạng thâm hụt ngân sách, đặc
biệt là các cường quốc kinh tế như Mỹ, EU, Nhật Bản. Điều này làm hạn chế khả năng
áp dụng các biện pháp kích thích tài chính của chinh phủ để cứu vớt nền kinh tế. Trong
lần suy thoái vào năm 2001, ngân sách của Mỹ đi từ chỗ thặng dư 2,5% vào năm 2000
đến chỗ thâm hụt 3,2% GDP vào năm 2004. Trong cuộc khủng hoảng vừa rồi, thâm hụt
ngân sách của Mỹ đã ở mức cao và chính phủ chỉ có thể thực hiện kích thích tài chính
bằng 1% GDP[12].
Trong quá trình điều hành nền kinh tế, có rất nhiều vấn đề xảy ra, chính phủ có
thể đưa ra những biện pháp có lợi trong ngắn hạn, tuy nhiên về lâu dài có thể gây ảnh
hưởng không tốt tới nền kinh tế. Đặc biệt trong bối cảnh suy thoái kinh tế, việc đưa ra
những chính sách đúng đắn để khắc phục tình trạng khó khăn trước mắt mà không ảnh
hưởng xấu tới nền kinh tế trong tương lai là điều không phải dễ đối với những người
lảm chính sách.
1.1.2.2 Tác động tích cực
Suy thoái kinh tế đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế toàn
cầu, tuy nhiên nhìn nhận ở một góc độ khác, suy thoái chính là cơ hội để xây nên nền
tảng phát triển bền vững.
Tạo lập nền tảng để tăng trưởng bền vững trong tương lai: Mặc dù suy thoái
kinh tế làm cho sản xuất sụt giảm, nền kinh tế tăng trưởng thấp, tỉ lệ thất nghiệp gia tăng
và có thể dẫn đến nhiều hệ lụy cho xã hội. Tuy nhiên suy thoái giúp nền kinh tế tái lập
nền tảng vững chắc để tăng trưởng bền vững trong tương lai. Khi khủng hoảng xảy ra,
những bong bóng kinh tế như bong bóng tài chính, bong bóng bất động sản, bong bong
trên thị trường chứng khoán,… sẽ bị nổ, vấn đề yếu kém của một nền kinh tế được
thanh lọc, tạo tiền đề phát triển nền kinh tế ổn định. Một khi những “căn bệnh” của nền
kinh tế được chữa trị tận gốc, nền kinh tế đó sẽ phát triển “khỏe mạnh”.

Thời cơ đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ cho các nước: Suy thoái cũng là thời
kỳ mà giá cả hàng hóa giảm, trong đó có giá máy móc, thiết bị, công nghệ. Vì vậy, giai
đoạn này chính là cơ hội cho các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển đổi mới
công nghệ với chi phí thấp, từ đó tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Đầu tư
máy móc, thiết bị sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa của các nước đó trên
thị trường thế giới, từ đó rút ngắn khoảng cách kinh tế giữa các nước phát triển và đang
phát triển.
1.2 Sơ lược về thị trường thủy sản thế giới trong năm 2008-2009
Trong những năm gần đây, xuất khẩu thủy sản thế giới luôn tăng với mức độ cao,
ổn định, khoảng 7-9% mỗi năm, từ 86 tỉ năm 2006 lên 92 tỉ năm 2007[19]. Tuy nhiên,
dưới tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu, mậu dịch thủy sản thế giới đã bị chững lại
trong hai năm 2008- 2009. Thị trường thuỷ sản thế giới năm 2008, 2009 không quá biến
động như những thị trường hàng hoá khác. Liên minh châu Âu (EU), thị trường Trung
Đông và một số nước châu Á như Trung Quốc đang nổi lên thành những thị trường thuỷ
sản có tốc độ tăng tiêu thụ mạnh. Điểm nổi bật của thị trường thủy sản thế giới năm
2008, 2009 là giá thủy sản tăng mạnh vào đầu năm 2008 do đợt rét khắc nghiệt ở châu
Á, vào cuối năm 2008 và đầu năm 2009 giá thủy sản giảm mạnh do suy thoái kinh tế
toàn cầu, thị trường thủy sản thế giới có những dấu hiệu phục hồi chậm từ giữa năm
2009 trở đi.
1.2.1 Kim ngạch thương mại thủy sản trên thế giới
Theo ước tính của FAO, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản thế giới năm 2008 là
99,5 tỉ USD, mức cao nhất trong lịch sử , trong đó có khoảng 50% giá trị được xuất ra
từ các nước đang phát triển. Trong khi đó, 80% nhà nhập khẩu lại là các nước phát triển.
Giá trị ròng của thuỷ sản xuất khẩu từ các nước đang phát triển đạt mức 25.4 triệu USD
trong năm 2008. Điều này cho thấy được tầm quan trọng to lớn của ngành xuất khẩu
thuỷ sản trên trường quốc tế đối với các quốc gia đang phát triển. Giá trị nhập khẩu cao
hơn, đạt 104,7 tỉ USD, Nhật Bản đã giành lại được vị trí là nhà nhập khẩu thuỷ sản lớn
nhất thế giới trong năm 2008, sau khi để cho Mỹ vượt qua năm 2007 với giá trị nhập
khẩu lên tới 14,5 tỉ USD, chiếm 13,8% tồng kim ngạch nhập khẩu thế giới, tiếp đến là
Hoa Kỳ với 14,1 tỉ USD, chiếm 13,5%[22]. Xét về giá trị nhập khẩu thuỷ sản, EU chiếm

tới 46,8% tổng giá trị thế giới (49 tỉ USD), tổng cộng 3 nhà nhập khẩu lớn nhất này đã
chiếm tới 74,1% tống giá trị nhập khẩu thủy sản thế giới.
Hình 1.6 : Những thị trường xuất khẩu thủy sản chính 2008
(Nguồn: Global trade overview by Adun Lem
/>Từ hình 1.6, ta thấy EU là khu vực kinh tế xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới
chiếm tỉ trọng 26%, Trung Quốc là quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn nhất với tỉ trọng
10% trong cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản thế giới 2008. Năm 2008, kim ngạch
xuất khẩu thủy sản Việt Nam xếp thứ 5 thế giới.
Năm 2009, kim ngạch thương mại thủy sản thế giới đã giảm sút, đặc biệt là trong
quý đầu năm 2009, sau đó con số này bắt đầu hổi phục từ quý thứ hai. Ở những thị
trường lớn, kim ngạch nhập khẩu giảm mạnh nhất, nguyên nhân chủ yếu do suy thoái
kinh tế đã khiến nhu cầu sụt giảm, thêm vào đó các nước gia tăng bảo hộ để bảo vệ nền
sản xuất trong nước.
1.2.2 Tình hình khai thác, nuôi trồng thủy sản
Do chi phí sản xuất cao mà giá thành sản phẩm thấp, ngành nuôi trồng thủy sản
thế giới đang bị sa sút. Ngược lại với vài năm qua, sức tăng trưởng mạnh mẽ trong nuôi
trồng thuỷ sản đã bị chững lại trong năm 2008 và 2009. Năm 2008, tổng sản lượng thủy
sản thế giới đạt 141,6 triệu tấn, tăng mạnh so với 126 triệu tấn năm 2003.[17]
Bảng 1.5: Sản lượng thủy sản trên thế giới
Đơn vị: Triệu tấn
Milion t 2007 2008 2009 2009/2008
Capture 90 90 90 0
Farmed 50 52 52 0.8%
Total 140 142 142 0.3%
(Nguồn: : Global trade overview by Adun Lem
/>Từ bảng số liệu ta thấy tổng sản lượng thủy sản thế giới trong ba năm 2007, 2008,
2009 hầu như không thay đổi, trong đó tổng sản lượng khai thác ba năm bằng nhau,
tổng sản lượng nuôi trồng năm 2008, 2009 bằng nhau và nhỉnh hơn năm 2007 một chút.
Nhìn chung trong tổng sản lượng thủy sản, tổng sản lượng khai thác vẫn chiếm ưu thế
hơn hẳn so với nuôi trồng.

Sản lượng cá rôphi tăng nhanh chóng trong mấy năm gần đây cũng sụt giảm mạnh
trong năm 2008 xuống còn 2,06 triệu tấn. Nguồn cung cá minh thái Alaska giảm gần
11% trong năm 2008 xuống còn 2,5 triệu tấn. Năm 2008, sản lượng cá minh thái Alaska
của Mỹ giảm xuống còn 1 triệu tấn. So với năm 2005, sản lượng loài thuỷ sản này đã
giảm hơn 32%. Ngược lại, sản lượng của Nga lại tăng 4% lên 1,2 triệu tấn và tăng hơn
8% vào năm 2009, đạt 1,3 triệu tấn. Sản lượng cá tuyết Đại Tây Dương giảm nhẹ (2%)
còn 770.000 tấn trong năm 2008. [18]
Trung Quốc là nhà sản xuất thủy sản lớn nhất thế giới. Ngành thuỷ sản Trung
Quốc duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn định trong năm 2008 nhờ sản lượng thuỷ sản
nuôi tăng 3% so với năm trước, đạt 48,9 triệu tấn. Bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu, thặng dư thương mại thuỷ sản nuôi của Trung Quốc vẫn tăng 190 triệu USD
(5,78%) lên 3,49 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2008 [22]. Ngoài cuộc khủng hoảng tài
chính, ngành nuôi trồng thuỷ sản nước này còn thường xuyên phải đối phó với thiên tai,
như thời tiết đông giá vào đầu năm và bão lụt hồi giữa năm. Tuy nhiên, sản lượng của
ngành này vẫn tăng nhờ việc cải tiến các đầm nuôi, thiết lập hệ thống kiểm tra, kiểm
dịch và hệ thống sản xuất con giống tốt.
1.2.3 Cơ cấu sản phẩm
Các mặt hàng thủy sản thế giới rất đa dạng: tôm, cá, mực, bạch tuộc, thủy sản khô,
ngao, sò, điệp,… tuy nhiên người tiêu dùng trên thế giới chủ yếu tiêu thụ những sản
phẩm tôm, cá ngừ, cá hồi, cá thu, cá da trơn.
Tôm:
Giá tôm thế giới tăng mạnh từ cuối năm 2007 tới gần hết quý I/2008, sau đó giảm
nhẹ vào đầu quý II, phục hồi vào quý tiếp theo và giảm trở lại vào cuối năm 2008, tiếp
tục tình trạng đó đến quý I năm 2009, sau đó phục hồi chậm từ quý II/2009. Sự bất ổn
của ở các thị trường tôm hàng đầu thế giới đã ảnh hưởng tới thị trường tôm toàn cầu.
Mỹ là nhà nhập khẩu tôm lớn nhất thế giới, mỗi năm nước này nhập khoảng
550.000 tấn. Tuy nhiên, sau 10 năm tăng tăng liên tục, nhập khẩu tôm vào Mỹ năm 2008
bắt đầu trì trệ. Nhập khẩu tôm vào Mỹ trong 6 tháng đầu năm 2008 đạt tổng cộng
236.000 tấn, hầu như không thay đổi về khói lượng so với cùng kỳ năm 2007. Mặc dù
giá trị nhập khẩu tôm tăng 2,4% song nguyên nhân là do giá tôm nhập khẩu vào Mỹ

tăng 2,5%, chủ yếu là tôm vỏ đông lạnh. Nhìn chung, các nước Châu Á như Thái Lan,
Inđônêxia, Trung Quốc và Việt Nam vẫn chi phối thị trường tôm Mỹ, chiếm 65% tổng
nhâp khẩu. Ecuađo là nhà cung cấp quan trọng với 13% thị phần. Các nước Châu Á
cung cấp nhiều sản phẩ giá trị gia tăng hơn, trong khi các nước Mỹ Latinh chủ yếu cung
cấp sản phẩm tôm bỏ đầu đông lạnh.
Tại Nhật Bản, việc đồng Yên tăng giá so với Đôla Mỹ trong những tháng đầu và
cuối năm 2008 cũng tác động giảm tiêu thụ tôm. Nhập khẩu tôm vào Nhật bắt đầu giảm
từ năm 2007 và tiếp tục giảm trong năm 2008, 2009 nhưng Nhật vẫn là nước nhập nhiều
tôm lớn thứ 2 thế giới, sau Mỹ. Tôm vẫn là loại thuỷ sản được nhập nhiều nhất vào
Nhật, chiếm 16% trong tổng thuỷ sản nhập vào đây năm 2007, với 270.000 tấn[]. Đa số
tôm nhập vào Nhật là tôm chưa chế biến, nhưng khối lượng tôm chế biến nhập vào thị
trường này đã tăng lên trong những năm gần đây. Cũng giống đa số người tiêu dùng ở
các nước phát triển, người tiêu dùng Nhật muốn thưởng thức các sản phẩm giá trị gia
tăng tiện lợi và bảo đảm vệ sinh nhưng không muốn chi nhiều tiền và vì thế họ gây áp
lực đối với người bán lẻ và nhà cung cấp để giữ giá bán thấp trên thị trường. Nói chung
người tiêu dùng Nhật sẽ lựa chọn các loại thuỷ sản đánh bắt trong nước thay tôm và cá
ngừ do giá bán hai mặt hàng này ngày càng tăng khi nền kinh tế suy thoái.
Nhìn chung, nhu cầu tiêu thụ tôm ở châu Âu năm 2008 thấp, trái với xu hướng
tăng liên tục của mấy năm gần đầy. Trong khi nhu cầu thấp ở hầu hết các thị trường:
Tây Ban Nha, Italia, Pháp…. các nước xuất khẩu tôm như Thái Lan, Inđônêixa, Ecuađo,
Ấn Độ… lại đang nỗ lực mở rộng thị phần của mình trên thị trường Châu Âu do gặp
khó khăn ở thị trường Mỹ. Kết quả là giá tôm tại châu Âu cũng giảm xuống, và tiêu thụ
vẫn chậm, đặc biệt là trong năm 2009.
Tôm chân trắng là mặt hàng nổi bật trên thị trường thế giới với tiêu thụ tăng
mạnh, lấn át nhiều loại tôm khác như tôm sú. Do nhu cầu tôm cỡ lớn trên cả thị trường
xuất khẩu lẫn nội địa khiến nhiều nước sản xuất tôm chân trắng ở Đông Nam Á, với
trung tâm là Thái Lan đang phải đẩy mạnh sản xuất tôm cỡ lớn 26/30 hoặc lớn hơn.
Bảng 1.6: Giá tôm chân trắng tại Thái Lan
Giá tôm chân trắng tại Thái Lan (Baht/kg)
Ngày 50 con/kg 60 con/kg 70 con/kg 80 con/kg 90 con/kg 100con/kg

30/12/2008 123 116 110 100 92 86
1/6/2008 108 100 93 90 86 80
4/1/2008 120 103 97 90 85
( Nguồn: Tạp chí thương mại thủy sản- Bản tin số 2 ngày 8/1/2008)
Cá ngừ
Khác với mặt hàng tôm, giá cá ngừ tăng khá nhiều trong 3 quý đầu năm 2008 bởi
sản lượng khai thác ở Ấn Độ Dương thấp và chi phí nhiên liệu tăng cao. Tổng cung cá
ngừ ở thị trường Nhật Bản quý I năm 2008 giảm rõ rệt so với cùng kỳ năm 2007, sau
khi sản lượng khai thác nội địa 3 tháng cuối năm 2007 giảm 11% xuống chỉ 50.901 tấn.
Từ mức khoảng 1.300 USD/tấn, giá cá ngừ vằn nguyên liệu đã lên tới 1.600 USD/tấn
vào giữa năm (so với khoảng 800-1.000 USD/tấn một năm trước đó). Cơ quan Nghề cá
Nhật Bản cho biết, giá nhiên liệu cho các tàu khai thác đã tăng gấp 2,3 lần kể từ tháng
3/2004 tới giữa năm 2008 do giá dầu thô tăng liên tục leo thang[16]. Theo số liệu thống
kê của FAO, tổng sản lượng khai thác 5 loài cá Ngừ chủ yếu là cá Ngừ vằn, cá Ngừ vây
vàng, cá Ngừ mắt to, cá Ngừ vây dài và cá Ngừ vây xanh năm 2008 và những năm tới
sẽ không thể tăng hơn mức vốn đã thấp của những năm 2005-2006, khoảng 4,35 triệu
tấn. Nhiều tàu khai thác cá Ngừ ở châu Á thậm chí có thể phải ngừng hoạt đồng do giá
nhiên liệu ngày một tăng, dẫn đến giá cá ngừ sashimi có thể sẽ tăng theo. Ngày càng có
nhiều tàu đã đăng ký nhưng không hoạt động do chi phí nhiên liệu tăng cao trong khi
việc đánh bắt ngày một khó khăn do nguồn cung suy giảm. Tuy nhiên vào những tháng
cuối năm, giá giảm dần do nhu cầu giảm, chịu tác động từ suy thoái kinh tế, và giá nhiên
liệu giảm. Từ mức 1.850 -1900 USD/tấn trong quý III, giá giá mỗi tấn cá ngừ đã giảm
xuống trung bình 1.400 USD.[16]
Cá hồi, cá thu
Theo khảo sát mới đây do Bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp Nhật Bản tiến hành, nhu cầu
đối với cá hồi của Trung Quốc ước tính tăng khoảng 40% năm 2008. Tiêu thụ cá hồi và
nhu cầu nguyên liệu của Trung Quốc cho sản xuất sushi tăng nhanh chóng. Năm 2008,
Trung Quốc nhập khẩu 10.000 tấn cá hồi. Qua phỏng vấn nhiều tổ chức ngành, thì nhu
cầu đối với cá hồi của nước này tăng với tốc độ từ 35-40%/năm. Ở Trung Quốc, cá hồi
là loại thủy sản cao cấp với giá bán khoảng 40 NDT/kg. Trung Quốc dự định nuôi cá hồi

trên qui mô lớn trong tương lai.
Rô phi
Trên thị trường Trung Quốc, đợt rét khắc nghiệt nhất trong vòng 50 năm trở lại đây
xảy ra hồi đầu năm đẩy giá thuỷ sản tăng mạnh bởi tôm cá chết hàng loạt. Theo ước tính
của các nhà cung cấp, hơn 70% sản lượng cá rô phi nuôi của Trung Quốc bị thiệt hại do
đợt rét cuối tháng 1 gây ra, gây khan hiếm nguồn thuỷ sản không chỉ ở nước này mà ảnh
hưởng tới toàn cầu, vì Trung Quốc là nguồn cung cá rô phi chính cho thị trường thế
giới. Trong quý I, theo ước tính, giá cá rôphi trên thị trường Trung Quốc tăng từ 30% -
100%. Giá cá Rô phi giống trên thị trường đã tăng 50% và người nuôi chưa sẵn sàng thả
nuôi tiếp cho đến tháng 4. Sản lượng cá rô phi Trung Quốc năm 2008 ước tính giảm
80% do thời tiết cuối mùa đông khắc nghiệt[10]. Nhu cầu cá rô phi mấy năm gần đây
tăng mạnh. Tại thị trường Châu Âu và Mỹ, đặc biệt khi tiêu thụ những loài cá vốn rất
được yêu thích như là cá tuyết và cá tuyết chấm đen đã bị các nhà môi trường học cực
lực phê phán.
Cá da trơn:
Thị trường cá da trơn thế giới biến động mạnh trong những tháng đầu năm 2008.
Trên thị trường Mỹ, giá thu mua cá da trơn tăng nhẹ so với tháng 4/2008, nhưng lại
giảm so với một năm trước đây, trong khi chi phí sản xuất (nhiên liệu, thức ăn) tăng cao.
Giá thức ăn chăn nuôi cá đã tăng gấp đôi chỉ trong một năm qua do giá ngũ cốc và các
chi phí đầu vào khác đều tăng
1.2.4 Giá cả trên thị trường thủy sản thế giới
Khủng hoàng kinh tế khiến nhu cầu sụt giảm đã kéo giá cả các mặt hàng thủy sản
giảm mạnh trên khắp các thị trường.
Hình 1.7: Chỉ số giá thủy sản thế giới qua các năm
(Nguồn: : Global trade overview by Adun Lem
/> Từ hình 1.7 ta thấy giá thủy sản thế giới tăng mạnh trong những năm gần đây, nếu
coi giá năm 2005 là 100 thì giá thủy sản năm 2008 đạt mức cao nhất, gần 130. Tuy
nhiên do suy thoái kinh tế, từ cuối năm 2008 giá các mặt hàng thủy sản trên thị trường
thế giới bắt đầu giảm mạnh, nhất là trong quý I/2009, từ giữa năm 2009 giá cả bắt đầu
phục hồi, nhưng rất chậm do sự phục hồi chậm của nền kinh tế thế giới.

1.3 Thực trạng phát triển ngành thủy sản Việt Nam
1.3.1. Tiềm năng phát triển kinh tế thủy sản
Việt Nam là một quốc gia biển lớn trong vùng Biển Đông- được đánh giá là một
trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển và là một trong 20 vùng biển có nguồn lợi hải
sản giàu có nhất toàn cầu. Việt Nam có chỉ số biển khoảng 0,01, cao gấp 6 lần giá trị
trung bình của thế giới, có bờ biển dài trên 3.260 km, vùng lãnh hải và vùng đặc quyền
kinh tế khoảng 1 triệu km
2
với trên 4.000 đảo lớn nhỏ trải dọc từ Bắc vào Nam và hai
quần đảo ngoài khơi Hoàng Sa, Trường Sa chiếm vị trí tiền tiêu cực kỳ trọng yếu trong
Biển Đông. Cùng với diện tích đất liền trên 330 nghìn km
2
, hệ thống sông ngòi dày đặc
với nhiều cửa sông, eo vịnh, đầm phá, đặc điểm 8 vùng sinh thái khác nhau, Việt Nam
có thể phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS) từ vùng núi, trung du, đồng bằng đến các
vùng biển đảo và phát triển khai thác thủy sản ở hầu hết các thủy vực từ vùng ven bờ
đến vùng khơi, hay trong nội địa.
1.3.1.1 Hệ sinh thái biển Việt Nam
Đến nay trong vùng biển Việt Nam đã phát hiện chừng 11.000 loài sinh vật cư trú.
Trong đó có khoảng 6.000 loài động vật đáy; trên 2.030 loài cá trong đó trên 130 loài cá
có giá trị kinh tế; 657 loài động vật phù du; 94 loài thực vật ngập mặn; 225 loài tôm
biển; 14 loài cỏ biển; 15 loài rắn biển; 12 loài thú biển; 5 loài rùa biển và 43 loài chim
nước. [5]
Các hệ sinh thái có năng suất sinh học cao thường phân bố tập trung ở vùng bờ và
quyết định hầu như năng suất sơ cấp của toàn vùng biển và đại dương như: Rạn san hô,
thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, vùng triều cửa sông, đầm phá và vùng nước trồi… Các hệ
sinh thái này có khả năng điều hoà dinh dưỡng trong vùng biển thông qua các chu trình
sinh địa hoá; là nơi cứ trú tự nhiên, nơi sinh đẻ và ươm nuôi ấu trùng của nhiều loài thủy
sinh vật không chỉ ở ngay vùng bờ mà còn từ ngoài khơi vào theo mùa (90% các loài
thủy sản sống ở vùng biển thềm lục địa và biển xa có tập tính gắn bó với vùng nước ven

bờ). Các hệ sinh thái biển - ven biển còn có tiềm năng bảo tồn đa dạng sinh học và
nguồn giống hải sản tự nhiên cho nghề khai thác và nuôi trồng hải sản trên biển. Chúng
có tính liên kết sinh thái, tương hỗ mật thiết với nhau và tạo ra những “dây xích sinh
thái” quan trọng trong biển và vùng ven bờ mà một mắt xích bị tác động sẽ ảnh hưởng
đến các mắt xích còn lại.
1.3.1.2 Tiềm năng nguồn lợi thủy sản
Nguồn lợi thủy sản ở vùng biển và ven biển Việt Nam được xem là khu hệ sinh
thái đa dạng và phong phú. Theo các số liệu nghiên cứu, đến nay chúng ta đã phát hiện
được khoảng 11.000 loài động vật và thực vật biển. Khu hệ cá biển có khoảng 2.000
loài trong đó đã kiểm định được 1.700 loài. Tuy nhiên số lượng cá có giá trị kinh tế
khônh nhiều, chỉ khoảng 100 loài với gần 50 loài có giá trị kinh tế cao như: thu, nụ,
song, vược, đối, trác, phèn trích xương, bạc má, chim,… Riêng giáp xác biển có 1.647
loài, trong đó tôm có hơn 70 loài thuộc các họ chính như tôm sú, tôm he, tôm hùm, tôm
gai, tôm vỏ trong đó tôm he được coi là đặc sản quan trọng nhất cả về số lượng cũng
như giá trị kinh tế; nhuyễn thể thống kê được 2.523 loài với một số loài có giá trị kinh tế
cao và rất quan trọng đối với xuất khẩu thủy sản Việt Nam như mực ống, mực nang,
điệp, nghêu ngao, sò huyết, bào ngư, hải sâm nhưng sản lượng không nhiều; bạch tuộc
có 7 loài; rong tảo cũng đa dạng mang lại nguồn lợi kinh tế đáng kể được sử dụng nhiều
trong công nghiệp và xuất khẩu. Bên cạnh đó còn nhiều loại đặc sản quý như bào ngư,
đồi mồi, chim biển và có thể khai thác vây cá, bóng cá, ngọc trai…[5]
Trữ lượng nguồn lợi hải sản ở nước ta cũng tương đối lớn, dao động trong
khoảng 4,0- 4,5 triệu tấn, khả năng khai thác bền vững từ 1,8- 2,0 triệu tấn. Nguồn lợi
thủy sản nội địa dao động trong khoảng 0,6 - 0,7 triệu tấn, khả năng khai thác bền vững
0,2 - 0,3 triệu tấn. Nếu xếp theo loài, cá đáy khai thác khoảng 856.000 tấn/năm, chiếm
khoảng 51,26% khả năng khai thác; cá nổi 694.000 tấn/năm, chiếm 41,5%; cá nổi đại
dương 120.000 tấn/năm, chiếm khoảng 7,24% [7]. Nếu xếp theo vùng lãnh thổ thì phân
bố trữ lượng và khả năng đánh bắt như sau:
Bảng 1.7: Phân bố trữ lượng và tình hình khai thác thủy sản giữa các vùng
Vùng biển Trữ lượng Khả năng khai thác
Tấn Tỷ lệ(%) Tấn Tỷ lệ(%)

Vịnh Bắc Bộ 618.166 14,8 271.467 15,6
Biển Trung Bộ 606.399 14,5 242.560 13,9
Biển Đông Nam Bộ 2.075.889 49,7 830.456 47,7
Biển Tây Nam Bộ 506.697 12,1 202.272 11,6
Vùng giữa Biển Đông 370.000 8,9 195.000 11,2
Tổng cộng 4.177.151 100 1.741.755 100
(Nguồn: Trung tâm tin học thống kê- Bộ NN &PTNT)
Qua bảng 1.7 ta thấy, vùng biển Đông Nam Bộ được đánh giá là ngư trường lớn
nhất với trữ lượng là 2.075.889 tấn, khả năng khai thác là 830456 tấn, chiếm gần 50%
trữ lượng hải sản và khả năng khai thác trong cả nước. So với trữ lượng, khả năng khai
thác không lớn lắm. Do đó, bên cạnh chú ý đến trữ lượng cũng phải chú ý đến sản lượng
khai thác để duy trì được mức độ khai thác an toàn nhằm bảo vệ nguồn lợi tài nguyên
biển.
Tóm lại, Việt Nam là nước có diện tích biển nhiều tạo điều kiện cho nghề cá phát
triển. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn lợi thủy sản khá dồi dào, việc đánh giá
đúng nguồn lợi, tổ chức khai thác tốt, chắc chắn ngoài đáp ứng đủ nhu cầu trong nước,
thủy sản còn là ngành hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta.
1.3.1.3 Nguồn nhân lực
Với nguồn nhân lực dồi dào tham gia vào các hoạt động thủy sản, đặc biệt là dân
cư tập trung khá đông đúc vùng ven biển là một nhân tố quan trọng để phát triển
kinh tế biển nói chung và thủy sản nói riêng. Theo số liệu thống kê, tổng số lao
động thủy sản tính đến năm 2009 là xấp xỉ 10 triệu người, so với năm 1989 là 1
triệu người, như vậy trong vòng 20 năm, số lao động trong ngành thủy sản đã
tăng gấp 10 lần.
Về cơ cấu lao động cũng đang có sự chuyển hướng tích cực rõ rệt. Nếu hơn 20
năm trước, lao động trong ngành thủy sản chỉ tập trung chủ yếu ven biển trong ngành
khai thác ven bờ, thì nay không những chuyển mạnh sang khai thác xa bờ mà số tăng lao
động thủy sản còn tập trung trong nuôi trồng, chế biến và dịch vụ hậu cần thủy sản.
Về chất lượng lao động, trước đây đa phần lao động trong nghề có trình độ văn
hóa thấp, tuy rằng tỷ lệ lao động trẻ có tỉ lệ khá cao. Nhìn chung, lực lượng lao động

hầu hết thành thạo nghề, chịu khó, có kinh nghiệm, chăm chỉ, cần cù. Tuy nhiên, về lâu
dài, những lao động này cần được đào tạo bài bản, được tiếp thu khoa học công nghệ
tiên tiến để nâng cao năng suất lao động.
Dự báo đến năm 2020 riêng dân số vùng ven biển sẽ tăng lên khoảng 30,4 triệu
người, trong đó lao động khoảng gần 19 triệu người. Đây sẽ là lực lượng quan
trọng tham gia vào sự phát triển ngành thủy sản trong tương lai.
1.3.2 Thành tựu của ngành thủy sản và nguyên nhân đạt được
1.3.2.1 Những thành tựu
* Thủy sản liên tục tăng trưởng với tốc độ cao theo hướng nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả; gắn sản xuất với thị trường trong nước và xuất khẩu; đóng góp

×