Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Nghiên cứu xác định một số thông số kết cấu hợp lý của bộ phận bón phân trên máy bón phân cho cây cao su đã phát tán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 72 trang )


1
MỞ ĐẦU
L do chn đ ti:
Cây cao su là cây công nghiệp chủ lực, là một trong mười mặt hàng xuất
khẩu chủ yếu của nước ta hiện nay. Sản phẩm cây cao su được dùng chủ yếu xuất
khẩu (tới 90 %). Hiện tại Việt Nam đứng thứ tư trên thế giới về xuất khẩu mủ cao
su. Năm 2012, tổng diện tích cây cao su trong nước là 910.500 ha, với năng suất ổn
định gần 1,72 tấn mủ/ha, mang lợi nhuận về cho Đất nước hàng tỉ đô la. Cây cao su
góp phần “xóa đói giảm nghèo”. Các Vùng trồng cao su gần biên giới còn là “Phiên
Dậu” cho Tổ quốc. Với vai trò kinh tế của mình, cây cao su còn được mệnh danh “
dòng sữa vàng mới lên ngôi". Nhiều địa phương đã đưa cao su vào cơ cấu cây trồng
chủ lực của mình với hy vọng sẽ kích cầu nền kinh tế.
Ở nước ta hiện nay Chính phủ đã có những định hướng cho phát triển loài
cây cao su, cụ thể tại Quyết định số 150/2005/QĐ-TTg, ngày 20/06/2005 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt " Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông,
lâm nghiệp, thuỷ sản cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020; ý kiến chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng với Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt
Nam về tiếp tục phát triển trồng mới ở nơi có đủ điều kiện về đất đai, khí hậu và cơ
sở hạ tầng; văn bản số 310/TB-VPCP, ngày 30/10/2008 Thông báo kết luận của Phó
Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng- Trưởng ban chỉ đạo Tây Bắc, tại hội nghị chuyên
đề về phát triển nông nghiệp vùng Tây Bắc; Chỉ thị số 139/CT-BNN-TT ngày
17/5/2007; Quyết định số 2855/QĐ-BNN-KHCN ngày 17/09/2008 của Bộ Nông
nghiệp và PTNT về việc phát triển và công bố cây cao su là cây đa mục đích. Trên
cơ sở đó bước đầu ngành cao su đã có những chương trình định hướng mới cho việc
phát triển bền vững cây cây cao su, trong đó có việc cơ giới hóa canh tác cao su với
các công đoạn chủ yếu là khai hoang, trồng và chăm sóc cây cao su.
Về phát triển kinh tế, xã hội: Cây cao su là cây có hàng vạn lao động cùng
hàng chục vạn người đang có đời sống kinh tế phụ thuộc vào. Đây cũng là cây có
tiềm năng xuất khẩu rất cao, mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho Đất nước. Kết quả


2
nghiên cứu của đề tài góp phần tăng năng suất, sản lượng, giảm chi phí sản xuất có
ý nghĩa sâu sắc về kinh tế, xã hội.
Về chính sách xóa đói, giảm nghèo, vùng sâu, vùng xa: Vùng canh tác cao su
thường là những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số của nước ta. Vì
vậy việc ứng dụng máy bón phân chăm sóc cao su tự động góp phần nâng cao đời
sống nhân dân tại đây có ý nghĩa chính trị sâu sắc trong chương trình xóa đói giảm
nghèo, vùng sâu, vùng xa của Đảng và Chính phủ cũng như chính quyền các cấp tại
đây.
Về cơ chế, chính sách cơ giới sản xuất nông nghiệp thì vùng canh tác cao su
thường là những vùng sâu, vùng xa đang thiếu lao động. Việc áp dụng cơ giới hóa
canh tác cây cao su trong đó có cơ giới hóa bón phân chăm sóc cao su chính là đưa
tiến bộ khoa học, công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành sản
xuất, cải thiện điều kiện lao động tại đây.
Khi cây cao su đã phát tán thì công việc chủ yếu trong canh tác cao su chỉ
còn là bón phân giúp cho cây sinh trưởng phát triển cho thu hoạch mủ tốt và tấp lá
vào gốc để tăng độ mùn, hạn chế bốc hơi nước trong mùa khô hạn và cháy rừng.
Tuy nhiên đến thời điểm này thì việc cơ giới hóa khâu chăm sóc cây cao su vẫn còn
mò mẫm, vì chưa có các mẫu máy chăm sóc phù hợp, trong đó có máy bón phân
chăm sóc cây cao su đã phát tán. Tất cả các mẫu máy bón phân chăm sóc cao su
hiện nay vẫn chỉ ở dạng đơn chiếc, có được từ sự yêu thích của các tác giả mầy mò
sáng tạo, không theo hệ thống lý thuyết và thực nghiệm quy định nên còn nhiều tồn
tại và chưa thỏa mãn yêu cầu nông học.
Mặt khác, năng suất khai thác cây cao su phụ thuộc chủ yếu vào kỹ thuật
chăm sóc. Với diện tích canh tác lớn, việc chăm sóc cho cây, trong đó có bón phân
cho cây cao su đã phát tán là cây vào thời kỳ khai thác trở thành vấn đề hết sức khó
khăn. Vì vùng canh tác cây cao su tập trung ở những vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới, nơi có mật độ dân cư thấp, lao động thiếu. Nhất là khi ngành cao su đang mở
rộng diện tích canh tác lên các tỉnh Phía Bắc nước ta và sang các nước bạn Lào,
Căm Pu Chia và Mã lai xia.


3
Máy chăm sóc bón phân cây cao su có sự khác biệt so với các cây trồng cạn
khác là khi cây đã phát tán thì hệ rễ cây nằm phát triển rộng khắp gần bề mặt đất,
việc rạch hàng sâu để rải phân bón hay xới sâu toàn bề mặt sẽ làm giảm nghiêm
trọng đến đời sống và năng suất cho mủ cao su của cây. Trong quá trình làm việc,
phân bón chứa trên máy chăm sóc bón phân với số lượng lớn bị lèn chặt làm cản trở
việc vận chuyển phân xuống rãnh đã rạch. Vì vậy tồn tại lớn nhất trong việc tìm ra
mẫu máy chăm sóc cao su đã phát tán là xác định được nguyên lý làm việc và các
thông số kết cấu cho bộ phận bón phân. Vấn đề khoa học này có tính cấp thiết, tính
thời sự, mang ý nghĩa khoa học, khi trong sản xuất chưa có một mẫu máy chăm sóc
cao su nào có tính khả dụng.
Được sự chấp thuận của phòng Sau đại học, khoa Cơ điện và Công trình,
Ban Giám hiệu trường Đại học Lâm nghiệp Hà Nội và dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Trần Thị Thanh, tôi xin thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu xác định một số thông số kết cấu hợp lý của bộ phận bón
phân trên máy bón phân cho cây cao su đã phát tán”
Mc tiêu tng qut:
Cơ giới hóa công việc chăm sóc bón phân cây cao su đã phát tán theo hướng:
+ Giảm chi phí chăm sóc cây cao su (giảm chi phí chăm sóc trên 60 %) nói chung
và chi phí lao động (giảm trên 80% lao động ) nói riêng;
+ Nâng cao hiệu quả khai thác mủ cây cao su nhờ bón phân đúng theo quy định của
ngành cao su;
+ Hạn chế thất thoát vật tư trong việc bón phân cho cây cao su.
Mc tiêu c thể:
Xác định bằng lý thuyết và thực nghiệm một số thông số kết cấu hợp lý của
bộ phận bón phân trên máy bón phân cho cây cao su đã phát tán.
 ngha đ ti:
Mặc dù các nguyên lý bón phân cho cây trồng được nghiên cứu và tổng kết
biên soạn nhưng chưa bộ phận bón phân nào mang tính khả dụng cho máy bón phân


4
cho cây cao su đã phát tán. Vì vậy kết quả nghiên cứu của đề tài mang tính mới cả
về lý luận lẫn ứng dụng.
 ngha khoa hc ca đ ti:
Đề tài phát triển các vấn đề khoa học mới đặt ra bằng thực nghiệm tối ưu trên
cơ sở giải quyết các vấn đề kỹ thuật còn tồn tại là:
+ Rạch hàng để rải phân với yêu cầu đặt ra là làm tổn thương đến bộ rễ của cây cao
su là thấp nhất.
+ Giải quyết hiện tượng nén tạo vòm trong thùng chứa phân.
+ Chuyển động ổn định của dòng phân bón rải xuống rãnh được rạch.
 ngha thực tiễn ca đ ti:
Đề tài góp phần cơ giới hóa canh tác cây cao su nói chung và bón phân chăm
sóc cho cây cao su đã phát tán nói riêng theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế, kỹ
thuật.


















5
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tng luận các công trình đã công bố v máy bón phân chăm sóc cây cao
su đã pht tán
Trước thập những năm 1990 công việc chăm sóc cao su bao gồm làm cỏ
(thường kết hợp phòng cháy), bón phân, phun thuốc bảo vệ thực vật để phòng trừ
dịch bệnh. Công việc làm cỏ thường dùng máy phạt cỏ (đeo vai hay liên hợp với
máy kéo). Vào đầu mùa mưa, khi cây cao su chưa phát tán, người ta thường dùng
liên hợp máy kéo với cày chảo lật rạ (6 hoặc 7 chảo) cày úp diệt cỏ kết hợp canh tác
những cây ngắn ngày như bắp, đậu, mè,…Khi cây cao su vào cuối giai đoạn kiến
thiết cơ bản trở đi, do tán đã rộng thì công việc cày đất chỉ nhằm diệt cỏ. Thường
giữa hai hàng đi 2 lần dạng úp sống trâu hay lồng máng xen kẽ theo đợt chăm sóc.
Phương pháp diệt cỏ bằng cày đất cho năng suất cao, đơn giản nhưng làm ảnh
hưởng đến sự sinh trưởng của cây cao su như làm đứt rễ, gây thoái hóa đất do bị
mưa làm xói mòn, vi phạm quy định chăm sóc cao su. Ngày nay phương pháp này
chỉ dùng cho cây cao su mới trồng, thực hiện việc xen canh để phủ xanh mặt đất
nhằm chống xói mòn, hạn chế cỏ dại phát triển và ngăn ngừa cháy rừng cao su
trồng.
Cũng trong giai đoạn này, việc bón phân chăm sóc cho cây cao su chủ yếu
thực hiện bằng thủ công kết hợp công cụ cầm tay như cuốc, xẻng để tạo rãnh và lấp
đất. Một số nông trường đã sử dụng máy tung phân vôi kiểu đĩa vung để rải phân
trên khắp mặt đồng, sau đó dùng cày chảo lật rạ cày lấp đất. Ưu điểm của phương
pháp này cho năng suất cao, giá thành hạ và có những nhược điểm là phân được rải
ở gần các hàng cây không được lấp, vì phải cày đất cách gốc 1 m. Không những thế,
phân bón có thể rơi vào bát đựng mủ (đối với vườn cây đang khai thác nếu không
úp bát chứa mủ thu hoạch xuống). Vì phải cày lấp đất nên vi phạm quy định về yêu

cầu nông học chăm sóc cao su. Đó là chưa kể đến việc chăm sóc phức tạp do phải
hai lần liên hợp máy đi lại trên đồng, làm tăng chi phí chăm sóc bón phân cho cây

6
cao su. Phương pháp chăm sóc bón phân này được ngành Cao Su Việt Nam khuyến
cáo không nên sử dụng.
Vào năm 2010, một nhóm tác giả thuộc Binh Đoàn 14 (Bộ Quốc Phòng) đã
đề xuất sử dụng máy cày lật rạ có gắn thêm bộ phận bón phân để thực hiện chăm
sóc bón phân cho cây cao su đã phát tán. Tuy nhiên giải pháp này vẫn còn tồn tại là:
mặt lô cao su vẫn còn bị cày xới nhiều, làm đứt rễ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và
phát triển cây cao su. Mặt khác, việc bón phân theo yêu cầu quy định còn bị hạn chế
do kết cấu bón phân không phù hợp, liên hợp máy thường xuyên phải bổ sung phân
bón. Trong khi cây cao su thường được trồng thành từng lô thửa có diện tích lên tới
hàng chục, thậm chí hàng trăm ha. Vì vậy mà đề xuất này chưa được áp dụng vào
các đơn vị canh tác cây cao su ở trong cả nước.
Giai đoạn 2010 đến nay, đã có một số thử nghiệm tự phát của một số doanh
nghiệp cơ khí ở Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất mô hình máy bón phân
cho cây cao su cho cả hai dạng loại móc và loại treo.
Năm 2011, KS. Phạm Tú Anh Vũ (Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh) giới
thiệu mẫu máy bón phân chăm sóc cao su liên hợp với máy kéo 4 bánh bơm cỡ 1,4
tấn (hình 1.1). Máy thực hiện rải phân xuống rãnh được rạch với độ sâu tới 15 cm
nằm giữa hai hàng cao su.


Hình 1.1: Máy bón phân cho
cây cao su của KS. Phan Tú
Anh Vũ. (Tp. Hồ Chí Minh)
Tồn tại của mẫu máy của KS. Phan Anh Vũ là thùng chứa bằng thép đen
thông thường, nên nhanh bị rỉ sét, phân chứa trong thùng bị nén chặt nên phân
không được rải đều hoặc thậm chí không rải được xuống rãnh. Máy làm việc ở dạng


7
“treo”, nên chỉ thích hợp cho vườn cao su dạng “tiểu điền”. Vì vậy máy không triển
khai vào thực tế sản xuất được.
Cũng trong năm 2011, kỹ sư Nguyễn Trọng Hòa thuộc Nông trường Thành
Long (thuộc công ty Mía Đường BOURBON Tây Ninh) đã giới thiệu mẫu máy bón
phân chăm sóc cho cây cao su loại treo liên hợp với máy kéo 4 bánh bơm cỡ 1,4 tấn
(hình 1.2). Cấu tạo của máy gồm 2 thùng chứa với bộ phận rải phân kiểu vít tải. Bộ
phận rạch đất kiểu lưỡi cày ngầm không cánh. Phân được đưa xuống rãnh và tự lấp.
Ưu điểm của máy đơn giản, thích hợp cho vườn cao su dạng tiểu điền. Nhược điểm
của máy tương tự như máy của KS. Phan Anh Tú thiết kế là không có khả năng bón
phân ướt vì dễ bị nghẽn phân ở vít tải và ống dẫn. Lượng chứa phân trong thùng ít
làm ảnh hưởng đến năng suất và quản lý khi rừng cao su xa kho chứa.

Hình 1.2: Máy bón phân cho cây cao su của anh Nguyễn Trọng Hòa.
(Nông trường Thành Long - công ty Mía Đường BOURBON Tây Ninh).
Năm 2012, công ty VINAMACH (Tp. Hồ Chí Minh) đã giới thiệu trên thị
trường máy bón phân cho cây cao su loại móc liên hợp với máy kéo bánh bơm cỡ
1,4 tấn (hình 1.3). Máy gồm có các bộ phận: thùng chứa phân bằng thép đen thông
thường có dung tích chứa 0,6 m
3
, kết hợp làm nhiệm vụ đảo trộn hỗn hợp bón; bộ
phận rải phân kiểu băng tải đai; bộ phận lấp phân dạng xới trộn đất. Truyền động
cho bộ phận trộn, rải phân và lưỡi xới lấy từ trục thu công suất. Khi làm việc phân

8
được rải xuống đất thành rải và được lưỡi xới đi sau xới trộn với đất. Tồn tại của
loại máy xới bón này là ở chỗ vi phạm quy định chăm sóc cao su do xới đất rộng và
sâu làm đứt rễ, làm tăng mức độ chống xói mòn đất. Với cách bón và lấp đất khi
bón phân gặp mưa sẽ làm thất thoát phân bón. Đó là chưa kể đến kết cấu máy không

phù hợp về mặt động lực học do bộ phận chuyển động quay là trục xới đất đặt xa
máy kéo lại ở dạng treo. Giảm khả năng chịu tải của khung, gây rung máy lớn.
Ngoài ra, vì bánh xe tựa có kích thước bé, chưa tính đến áp lực trên nền, nên việc di
chuyển của liên hợp máy còn gây nên phá vỡ kết cấu đất trồng. Các tồn tại khác
tương tự như các máy bón phân của hai tác giả Phan Anh Vũ và Nguyễn Trọng
Hòa. Chính vì vậy mẫu máy này chưa được Tập đoàn Cao su Việt Nam chấp nhận
đưa vào sản xuất thử nghiệm.


Hình 1.3: Máy bón phân cho cây cao su
của công ty VINAMACH (Tp. Hồ Chí
Minh).
Hình 1.4: Máy bón phân cho cây cao
su của anh Trần Quốc Hải.
Năm 2012, anh Trần Quốc Hải, chủ cơ sở sản xuất cơ khí ở huyện Tân Châu
tỉnh Tây Ninh đã giới thiệu mẫu máy bón phân cho cây cao su loại treo liên hợp với
máy kéo 4 bánh bơm cỡ 1,4 tấn (hình 1.4). Thực chất đây là loại máy chép mẫu
nguyên bản máy tung phân vôi của công ty KUBOTA (Nhật Bản sản xuất ) với tên
gọi mới là máy bón phân chăm sóc cho cây cao su. Máy thực hiện rải đều phân trên
bề mặt đất, nên không đảm bảo được yêu cầu kỹ thuật nông học.
Ở những nước phát triển như Braxin, Mãlaixia, có sự khác biệt với Việt
Nam về công nghệ bón phân chăm sóc cho cây cao su. Phân bón ở dạng hạt, tinh thể

9
và dạng bột được bón dưới dạng phun. Hình 1.5 giới thiệu mẫu máy bón phân theo
kiểu phun do Mãlaixia sản xuất.


Hình 1.5: Máy bón phân theo kiểu phun Turbo Mini 300 do Mãlaixia sản xuất.


Bảng 1.1. Giới thiệu đặc trưng kỹ thuật của các máy bón phân theo kiểu phun do
Mãlaixia sản xuất.
Cc đặc trưng kỹ thuật,
đơn vị đo
Mã hiệu
Turbo Mini 300
Turbo-Spin 650
Turbo-Spin 850
Dung tích bồn chứa , lít
300
650
850
Trọng tải tương ứng, kg
300
650
850
Vật liệu bồn chứa
sợi thủy tinh và
nhựa
sợi thủy tinh và
nhựa
Sợi thủy tinh và
nhựa
Hình dáng bồn chứa
Ovan / vuông
Vuông
Vuông, mở rộng
miệng bồn
Độ rộng đường phun, m
15 – 18

15 – 25
15 – 25
Tốc độ trục thu công suất
yêu cầu , vg/ph
540
540
540

10
1.2. Cơ sở l luận ca vấn đ nghiên cứu
1.2.1. Cây cao su
Cây cao su có tên gọi Hevea brasiliensis, là một loài cây thân gỗ thuộc về họ
Đại kích (Euphorbiaceae) chi Hevea. Nó có tầm quan trọng kinh tế lớn là do chất
lỏng chiết ra tựa như nhựa cây của nó (gọi là nhựa mủ-latex) mang lại nguồn thu
lớn.
Cây cao su có thể cao tới trên 20m. Khi cây đạt độ tuổi 5-6 năm thì người ta
bắt đầu thu hoạch nhựa mủ. Các cây già hơn cho nhiều nhựa mủ hơn, nhưng chúng
sẽ ngừng sản xuất nhựa mủ khi đạt độ tuổi 26-30 năm.
Năm 1897 đã đánh dầu sự hiện diện của cây cao su ở Việt Nam. Công ty cao
su đầu tiên được thành lập là Suzannah (Dầu Giây, Long Khánh, Đồng Nai) năm
1907. Tiếp sau, hàng loạt đồn điền và công ty cao su ra đời, chủ yếu là của người
Pháp và tập trung ở Đông Nam Bộ : SIPH, SPTR, CEXO, Michelin … Một số đồn
điền cao su tư nhân Việt Nam cũng được thành lập.
Đến năm 1920, miền Đông Nam Bộ có khoảng 7.000 ha cho sản lượng 3.000
tấn. Cây cao su được trồng thử ở Tây Nguyên năm 1923 và phát triển mạnh trong
giai đoạn 1960 – 1962, trên những vùng đất cao 400 – 600 m, sau đó ngưng vì chiến
tranh. Trong thời kỳ trước 1975, để có nguồn nguyên liệu cho nền công nghiệp
miền Bắc, cây cao su đã được trồng vượt trên vĩ tuyến 17
0
Bắc (Quảng Trị, Quảng

Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Phú Thọ) với diện tích lên đến khoảng 6.000 ha. Đến
1976, Việt Nam còn khoảng 76.000 ha, tập trung ở Đông Nam Bộ khoảng 69.500
ha, Tây Nguyên khoảng 3.482 ha, các tỉnh duyên hải miền Trung và khu 4 cũ
khoảng 3.636 ha. Sau 1975, cây cao su được tiếp tục phát triển chủ yếu ở Đông
Nam Bộ. Từ 1977, Tây Nguyên bắt đầu lại chương trình trồng mới cao su, thoạt tiên
do các nông trường quân đội, sau 1985 do các nông trường quốc doanh. Từ 1992
đến nay tư nhân đã tham gia trồng cao su. Ở miền Trung sau 1984, cây cao su được
phát triển ở Quảng trị, Quảng Bình trong các công ty quốc doanh. Đến năm 1999,
diện tích cao su cả nước đạt 394.900 ha, cao su tiểu điền chiếm khoảng 27,2%. Năm
2004, diện tích cao su cả nước là 454.000 ha, trong đó cao su tiểu điền chiếm 37%.

11
Năm 2005, diện tích cao su cả nước là 464.875 ha. Đến năm 2007 diện tích Cao Su
ở Đông Nam Bộ (339.000 ha), Tây Nguyên (113.000 ha), Trung tâm phía Bắc
(41.500 ha) và Duyên Hải miền Trung (6.500 ha).
Cây cao su được trồng thành vườn hay rừng (hình 1.6). Tùy theo từng loại
đất và địa hình mà bố trí cho phù hợp. Thông thường khoảng cách 7 x 3 m hoặc 6 x
3m hoặc 7 x 2,5 m, tương ứng với mật độ 476, 555 và 571 cây/ha. Hố trồng có kích
thước 70 x 70 x 70 cm, hoặc khoan bằng máy với đường kính 0,5 m, sâu 0,7 m.
Phân bón lót cho mỗi hố trước khi trồng 10 kg phân chuồng, 0,2 kg Super Lân / hố.
Cây cao su có thể trồng bằng tum ghép tức là bằng gốc rể trần. Cắt rể đuôi chuột sát
nách rể trụ chỉ để dài 60 cm. Xử lý bằng chất kích thích ra rể NAA sẽ giúp rể mọc
nhanh và nhiều. Dùng tum trần 18 tháng, hoặc tum cắt cao trên 30 tháng (là biện
pháp rút ngắn thời gian kiến thiết cơ bản vài năm). Dùng bầu PE nguyên sinh, dày
0,08 mm, nửa chiều dài bầu ở phần đáy có đục nhiều lỗ. Bầu có kích thước 18 cm x
35 cm hoặc 16 cm x 33 cm đối với tum 6 – 8 tháng tuổi, đất trong túi đủ sét để bầu
khỏi vỡ khi cắt bỏ túi.


Hình 1.6: Rừng cao su.



12
1.2.2. Kỹ thuật chăm sóc cây cao su đã phát tán
Cây cao su thực hiện các công việc chăm sóc sau:
1) Làm cỏ: Thực hiện làm sạch cỏ trên dải cao su trồng cách gốc 1,5m và giữ thảm
cỏ phần còn lại rộng 4m để bảo vệ đất chống xói mòn. Không được cày sâu giữa
hàng cao su.
2) Tủ gốc giữ ẩm: Cuối mùa mưa hàng năm cần tiến hành tủ gốc cho cao su để giữ
ẩm, vật liệu chủ yếu là bã mía, cỏ khô. Ngày nay người ta thường dùng máy thổi lá
để tủ gốc cao su chính bằng lá rụng của nó.
3) Tỉa chồi dại: Sau khi trồng 2 tháng, thường xuyên kiểm tra để tỉa chồi dại mọc ra
từ gốc.
4) Bón phân:
 Trong thời kỳ kiến thiết cơ bản (KTCB):
Phân vô cơ được chia bón làm 2 - 3 đợt trong năm. Năm đầu tiên thời gian
giữa các lần bón phân cách nhau ít nhất 1 tháng. Năm thứ hai trở đi bón vào đầu và
cuối mùa mưa. Cách bón: Bón phân khi đất đủ ẩm, không bón phân vào thời điểm
có mưa lớn và mưa tập trung. Từ năm thứ nhất đến năm thứ tư: Cuốc rãnh hình
vành khăn hoặc xăm nhiều lỗ quanh gốc cao su theo mép của tán lá để bón phân,
sau đó lấp đất vùi phân. Khi cây cao su đã giao tán: Đất bằng phẳng hoặc ít dốc thì
rải đều phân thành băng rộng 1 m giữa hàng cao su. Đối với đất dốc thì bón vào hệ
thống hố giữ màu và vùi kín phân bằng lá, cỏ mục hoặc đất.
Bảng 1.2, trình bày lượng phân bón cho cao su thời kỳ KTCB thay đổi tùy
theo mật độ trồng và tuổi cây
 Trong thời kỳ khai thác
Phân vô cơ được chia làm 2 lần/năm, lần đầu bón 2/3 lượng phân N và K và
toàn bộ lân vào tháng 4, 5 (đầu mùa mưa) khi đất đủ ẩm, lần hai bón lượng còn lại
vào tháng 10.
Cách bón: Trộn kỹ, chia, rải đều lượng phân thành băng rộng 1 - 1,5 m giữa

luống cao su. Đối với đất có độ dốc trên 15% thì bón vào hệ thống hố giữ màu và
vùi lấp kín phân bằng lá, cỏ mục hoặc đất.

13
Bảng 1.2. Lượng phân bón cho cao su thời kỳ KTCB thay đổi tùy theo mật độ
trồng và tuổi cây.
Mật độ
cây
(cây/ha)
Năm
tuổi
Tổng
lượng phân
kg/ha/năm)
Đạm urê
Lân VĐ
Kali clorua
Lần 1
Lần 2
Lần 1
Lần 2
Lần 1
Lần 2
476
1
215
50
105
150
315

15
32
2
510
120
252
360
756
30
63
3 – 6
60
140
194
420
882
40
84
512
1
215
50
98
150
293
15
29
2
510
120

234
360
703
30
59
3 – 6
645
150
293
450
879
45
88
571
1
215
50
90
150
270
15
27
2
470
110
198
330
595
30
54

3
565
130
234
400
721
35
63
4 – 8
610
140
252
430
753
40
72
Phân bón cho cây cao su trong thời gian khai thác trình bày như bảng 1.3.

Bảng 1.3. Lượng phân hóa học bón cho cao su khai thác theo mật độ và năm khai
thác.
Năm
cạo
Mật độ
(cây/ha)
Loại đất
Đạm
Lân
Kali clorua
kg/ha
g/cây

kg/ha
g/cây
kg/ha
g/cây
1-10
350 –
500
Đất đỏ
ba zan
114-163
326
245-350
700
87-250
250
Đất xám
136-195
390
308-440
880
105-150
300
11-20
350 –
500
Đất đỏ
ba zan
152-217
435
288-411

823
70-100
200
Đất xám
175-250
500
350-500
1.000
87.250
250


14
1.2.3. Yêu cầu kỹ thuật nông học về bón phân cho cây cao su [6, 15, 16]
+ Phải bón đúng thời điểm quy định;
+ Bón đúng loại phân, lượng phân theo quy định;
+ Khi rạch rãnh để rải phân hạn chế làm đứt rễ cây làm ảnh hưởng đến khả năng
sinh trưởng, phát triển và sản lượng mủ khi cây cao su đã phát tán;
+ Phân phải được rải đều và được lấp đất để đảm bảo chất lượng phân cho cây hấp
thụ;
+ Đối với việc bón phân bằng máy: cần hạn chế số lần đi lại thấp nhất; không được
làm ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của cây cao su; máy phải có
mức độ cơ giới hóa, năng suất cao; giảm cường độ cho người lao động theo máy;
hạn chế ô nhiễm môi trường khi máy làm việc; máy bón phân phải dễ vận hành, bảo
dưỡng và sửa chữa; an toàn lao động; máy làm việc có hiệu quả kinh tế cao so với
thủ công.
1.2.4. Máy bón phân chăm sóc cho cây cao su
1.2.4.1. Cấu tạo chung
Máy bón phân chăm sóc cho cây cao su là loại máy nông nghiệp liên hợp với
máy kéo thực hiện việc chăm sóc theo yêu cầu nông học. Cho đến nay hầu như chưa

có công bố về máy chăm sóc bón phân cho cây cao su trong các giáo trình hay tài
liệu chuyên khảo.
Từ nhiệm vụ, chức năng của công tác bón phân chăm sóc cho cây cao su
dạng liên hợp với máy kéo các bộ phận của máy gồm có: bộ phận rạch hàng, bộ
phận bón phân, bộ phận lấp đất và các bộ phận phụ trợ khác như khung, cơ cấu treo,
bánh giới hạn độ sâu.
Vì mỗi bộ phận làm việc của máy bón phân chăm sóc có nhiều nguyên lý
làm việc và cấu tạo, nên không có cấu tạo chung duy nhất, mà máy bón phân chăm
sóc cây cao su gồm sự tích hợp các bộ phận làm việc theo từng nguyên lý khác
nhau.



15
1.2.4.2. Bộ phận rạch hàng
Bộ phận rạch hàng có nhiệm vụ tạo rãnh rải phân bón. Bộ phận rạch hàng
gồm hai loại là bộ phận rạch hàng dạng lưỡi và bộ phận rạch hàng dạng chảo.
Khác với cây trồng cạn khác, cây cao su có rễ cọc cùng càc rễ ngang ăn rộng
gần bề mặt dể lấy dinh dưỡng. Vì vậy hướng chỉ đạo khi rạch hàng bón phân độ sâu
tạo rãnh chỉ từ 8  12 cm, nhằm tránh làm đứt rễ, ảnh hưởng đến khả năng sinh
trưởng phát triển của cây.
a) Bộ phận rạch hng dạng lưỡi
Bộ phận rạch hàng tạo rãnh bón phân gồm có các dạng sau:
+ Lưỡi xới vạn năng có cấu tạo như hình 1.7. Quá trình làm việc, phần lưỡi đi qua
sẽ cắt toàn bộ diện tích đáy lưỡi theo dải hình chữ nhật có bề rộng bằng bề rộng làm
việc của lưỡi, chiều dài là chiều dịch chuyển của lưỡi cùng liên hợp máy, các mặt
đất đúng bằng chiều sâu rạch. Vì vậy với rễ cây nằm trong rải hình chữ nhật này
cũng sẽ bị kéo lên, giựt đứt hay bị trụ lắp lưỡi cắt đứt. Vì vậy không nên dùng loại
lưỡi xới này làm lưỡi rạch hàng tạo rãnh bón phân khi chăm sóc cao su.
+ Lưỡi xới vun có cấu tạo như hình 1.8. Quá trình làm việc của lưỡi xới vun khi tạo

rãnh tương tự như lưỡi xới vạn năng nhưng tạo rãnh với độ sâu và lật đất lớn hơn so
với lưỡi xới vạn năng. Vì vậy không nên dùng loại lưỡi xới này làm lưỡi rạch hàng
tạo rãnh bón phân khi chăm sóc cao su.


Hình 1.7: Cấu tạo lưỡi xới vạn năng.
Hình 1.8: Cấu tạo lưỡi xới vun.

16
+ Lưỡi xới chữ C có cấu tạo như hình 1.9. Quá trình làm việc của lưỡi xới chữ C
khi tạo rãnh tương tự như lưỡi xới vạn năng nhưng tạo rãnh với độ sâu lớn hơn,
nhưng bề rộng rãnh lại quá nhỏ, khó có thể đưa phân xuống rãnh. Vì vậy không nên
dùng loại lưỡi xới này làm lưỡi rạch hàng tạo rãnh bón phân khi chăm sóc cao su.




Hình 1.9: Cấu tạo lưỡi xới chữ C.
Hình 1.10: Cấu tạo lưỡi cày ngầm có cánh.
+ Lưỡi cày ngầm không có cánh có cấu tạo như hình 1.11. Quá trình làm việc của
lưỡi cày ngầm không cánh khi tạo rãnh tương tự như lưỡi xới chữ C nhưng rãnh tạo
ra có độ sâu lớn, bề rộng rãnh nhỏ hơn lưỡi xới chữ C nên rất khó có thể đưa phân
xuống rãnh. Vì vậy không nên dùng loại lưỡi xới này làm lưỡi rạch hàng tạo rãnh
bón phân khi chăm sóc cao su.


Hình 1.11: Cấu tạo lưỡi cày ngầm
không có cánh.
b) Bộ phận rạch hng dạng chảo
Bộ phận làm việc của chảo có dạng chỏm cầu, hoặc hình nón cụt, nhưng

thông dụng hơn cả là dạng chỏm cầu. Vị trí của chảo khi làm việc được xác định
bởi hai góc:

17
- Góc tiến

: Góc hợp thành bởi đường kính nằm ngang của chảo và hướng
chuyển động (Hình 1.12.a).

Hình 1.12: Các góc đặt của chảo khi làm việc.
- Góc nghiêng
n

: Góc hợp thành bởi mặt phẳng chảo và đường thẳng đứng
(Hình 1.12.b).
Giá trị của

,
n

ảnh hưởng đến chất lượng làm việc và chi phí năng lượng
cho máy kéo. Góc tiến

có tác dụng làm cho chảo có khả năng ăn sâu vào đất và
tác dụng làm tơi vỡ đất. Trong trường hợp

= 0
0
chảo không thể ăn sâu vào đất
được. Góc nghiêng

n

tạo cho chảo khả năng lật thỏi đất và tạo ra rãnh có bề rộng
lớn hơn. Góc này bị giới hạn bởi mặt sau tỳ vào đáy luống. Tùy theo mục đích của
quá trình chăm sóc, khi thiết kế máy chăm sóc mía lấy các giá trị

,
n


như sau:
+ Để tăng cường lật và tạo rãnh tham khảo các giá trị

,
n

của cày phá lâm:

= 42
0
– 45
0
,
n

= 15
0
– 25
0
.


(1.1)


+ Để tăng cường làm tơi tham khảo các giá trị

,
n

của cày chảo lật rạ :

= 40
0
- 45
0
hoặc 30
0
– 35
0
,
n

.= 0
0
. (1.2)
Bộ phận xới đất dạng chảo thực hiện cắt đất theo cả hai chiều, nên hạn chế
được việc phá huỷ rễ cây cao su, dễ ràng lăn qua rễ cây cao su cắt lớn. Vì vậy trong

n



18
thiết kế bộ phận rạch hàng tạo rãnh bón phân cho cây cao su chọn nguyên lý cày
chảo phá lâm với các giá trị ghi như công thức 1.2.
1.2.4.3. Bộ phận bón phân
Nhiệm vụ của bộ phận bón phân là rải phân theo định mức bón xuống rãnh
(hay trên bề mặt theo yêu cầu). Cấu tạo chung bộ phận bón phân gồm có thùng
chứa, cơ cấu phân phối (hay định lượng bón), ống dẫn phân, cơ cấu truyền động.
a) Thùng chứa
Thùng chứa có nhiệm vụ chứa phân để bón khi liên hợp máy làm việc. Vì
vậy yêu cầu kỹ thuật của bộ phận bón phân là phải chứa đủ lượng phân bón cho các
đường làm việc của liên hợp máy mà không phải cung cấp giữa chừng và phân phải
tự chảy xuống được bộ phận rải phân. Với yêu cầu này, dung tích chứa của thùng
phân phải bằng hay lớn hơn lượng phân bón cần rải trước khi cung cấp tại đầu bờ.
Thùng chứa thường có dạng hình hộp với đáy hình chóp hay thùng hình nón. Để
đảm bảo điều kiện tự chảy, góc nghiêng của các thùng chứa phải lớn hơn góc ma sát
động giữa phân bón và vật liệu làm thùng. Để hạn chế hiện tượng gỉ sét của thùng,
vật liệu làm thùng thường bằng thép không gỉ (inox) hay bằng polyme.
b) Cơ cấu phân phối
Cơ cấu phân phối phân bón làm nhiệm vụ định mức lượng phân bón theo
quy định khi chăm sóc (hoặc khi trồng). Cơ cấu phân phối phân bón bao gồm các
kiểu sau:
+ Kiểu vít tải: Dựa vào đặc điểm của vít tải cho năng suất vận tải khá ổn định, nên
vít tải thường được dùng làm cơ cấu định lượng. Vít tải làm nhiệm vụ phân phối
lượng phân bón khi bón phân chăm sóc mía ở dạng vít ngang hay vít đứng. Khi
phân bón có tính dính cao (thường do độ ẩm lớn), vít ngang làm việc không tốt do
phân dính vào bề mặt vít làm cản trở sự di chuyển ổn định của phân trên vít hay khả
năng nạp phân chứa trên thùng xuống. Đối với vít tải đứng, nhược điểm này có thể
hạn chế một phần, nhưng cũng không thể khắc phục hoàn toàn. Hầu hết các bộ phận
bón phân của các máy trồng và chăm sóc cây trồng của Thái Lan, Ấn Độ, Trung

Quốc,…đều sử dụng vít tải ngang làm cơ cấu phân phối lượng phân bón.

19
+ Kiểu dải băng xoắn: Đây là một dạng cấu tạo của vít tải, với cánh vít không liền
trục. Cơ cấu phân phối kiểu lò xo xoắn cũng thuộc loại này. Nhược điểm của cơ cấu
phân phối kiểu vít tải giống như đối với vít tải. Ngoài ra, độ chính xác định lượng
của cơ cấu phân phối kiểu dải băng xoắn kém chính xác hơn so với loại vít tải liền
trục vì năng suất của dải băng xoắn không ổn định. Vì vậy, khi định lượng bằng
phương pháp thể tích, người ta không dùng dải băng xoắn. Ở Việt Nam, PGS.TS.
Nguyễn Quang Lộc (2003) đã dùng cơ cấu phân phối kiểu lò xo cho máy chăm sóc
mía.
+ Cơ cấu phân phối kiểu trục cuốn: Nguyên lý trục cuốn ứng dụng chủ yếu trong
định lượng cho đối tượng vật liệu khô, rời như định lượng gieo lúa. Mặc dù về
nguyên lý có thể làm cơ cấu phân phối phân bón dạng bột hay hạt khô, nhưng do
khả năng làm việc cho các đối tượng này khi bị ẩm, dính rất kém, nên hầu hết các
máy canh tác mía (máy trồng và chăm sóc) không thấy sử dụng nguyên lý này.
+ Cơ cấu phân phối kiểu đĩa: Tương tự như nguyên lý kiểu trục cuốn, cơ cấu phân
phối kiểu đĩa chỉ áp dụng khi trồng và chăm sóc các loại cây trồng cạn lấy hạt hoặc
rau, quả, không thấy áp dụng cho cây mía.
c) Cơ cấu truyn động
Với chế độ động học của cơ cấu phân phối lượng phân bón có tốc độ thấp,
nên hầu hết cơ cấu truyền động cho bộ phận bón phân là truyền động cơ khí kiểu
truyền động xích, truyền động bánh răng, hay truyền động phối hợp. Đã có một số
máy chăm sóc mía sử dụng truyền động thủy lực cho kết cấu gọn, dễ điều chỉnh và
điều khiển, nhưng do giá thành cao, nên ít được áp dụng.
d) Ống dẫn phân
Nhiệm vụ của ống dẫn phân là dẫn chuyển phân từ cơ cấu phân phối rải lên
mặt đồng theo quy định. Ống dẫn phân thường được làm bằng ống kim loại,
polyme. Ống dẫn phân có hai dạng ống cứng và ống mềm kiểu lò xo hoặc bằng vật
liệu cao su. Ống mềm có ưu điểm dễ dàng thay đổi hướng rải phân. Đường kính ống

rải phân phải đủ lớn để không xẩy ra hiện tượng tắc nghẽn khi làm việc.


20
1.2.4.4. Bộ phận trang phẳng
Bộ phận trang phẳng có nhiệm vụ làm phẳng bề mặt luống trong phạm vi an
toàn hay khỏa lấp phân bón khi chăm sóc. Bộ phận trang phẳng bao gồm cơ cấu
trang và khung treo. Khung treo cơ cấu trang có dạng cơ cấu hình bình hành và tác
động cân bằng của lò xo để có thể làm việc ổn định khi bề mặt luống nhấp nhô, gồ
ghề. Cơ cấu trang có các kiểu sau:
+ Cơ cấu trang kiểu cánh gạt: Cánh gạt có dạng tấm phẳng, hay tấm cong hình
thành lên lưỡi san đất khi làm việc. Cánh gạt được bố trí hợp với hướng chuyển
động (hay luống cao su) một góc  = 30  90
0
. Với góc  nhọn sẽ làm cho hỗn hợp
đất trước cánh gạt không bị ùn trước bề mặt lưỡi và tạo hướng dồn đất theo yêu cầu.
Với cánh gạt dạng tấm phẳng có thể bố trí tấm nghiêng úp, vuông góc hay ngửa lên
phía trên. Ở dạng tấm nghiêng úp, cánh gạt có tác dụng nén đất. Hầu hết bộ phận
trang phẳng kiểu cánh gạt được áp dụng trên các máy trồng hay chăm sóc cây trồng
của Thái Lan, Trung Quốc,…
+ Cơ cấu trang kiểu bừa răng: Sử dụng tính năng của bừa răng là làm nhỏ đất và
trang phẳng đồng ruộng để làm bộ phận trang phẳng ở nhiều loại máy chăm sóc
mía. Răng trên bộ phận trang phẳng của máy chăm sóc mía có dạng trục (tiết diện
hình trụ, hay hình đa giác đều) thường chỉ lắp theo một hàng ngang, nên vết răng
lớn, khả năng làm tơi hay làm phẳng kém.
+ Cơ cấu trang kiểu dao gạt đất: bao gồm các dao gạt đất bố trí như ở cơ cấu bừa
răng. Ưu điểm của cơ cấu trang phẳng kiểu dao gạt đất là không những làm tơi, nhỏ
đất mà mức độ trang phẳng cao hơn so với cơ cấu trang kiểu bừa răng, lại dễ thoát
đất, không gây ùn tắc như cơ cấu trang kiểu cánh gạt.
1.3.  kiến thảo luận v định hướng nghiên cứu

1.3.1. Ý kiến thảo luận
1) Công nghệ bón phân chăm sóc cho cây cao su ở nước ta hiện nay giống như công
nghệ bón phân chăm sóc ở các nước phát triển có trình độ thâm canh cao su ở trình
độ cao như Braxin hay Mãlaixia trước thập niên 1970. Hiện tại các nước này đã
thay thế bón phân trực tiếp bằng các phương pháp cơ học sang phương pháp thủy

21
khí động lực học có mức độ cơ giới hóa và tự động hóa cao nên cho năng suất cao,
giảm chi phí lao động cả ở các khâu trực tiếp và gián tiếp. Công nghệ này đòi hỏi
chất lượng phân bón và trình độ sản xuất cơ khí tiên tiến. Vì thế mặc dù ngành cao
su Việt Nam có doanh thu xuất khẩu lớn nhưng vẫn chưa nhập về các máy bón phân
chăm sóc cao su.
2) Bất kỳ máy bón phân cho cây cao su nào cũng gồm các bộ phận: thùng chứa
phân, bộ phận cung cấp (định mức bón), bộ phận rải phân, bộ phận rạch hàng, bộ
phận lấp đất. Nguyên lý làm việc và cấu tạo của các bộ phận làm việc này đã được
nghiên cứu và xây dựng thành hệ thống hoàn chỉnh trong các giáo trình, sách
chuyên khảo thuộc lĩnh vực cơ khí nông nghiệp.
3) Máy bón phân dạng treo chỉ phù hợp cho canh tác cây cao su ở dạng “tiểu điền”.
Máy bón phân dạng moóc phù hợp cho chăm sóc cao su ở những vườn cây lớn, xa
nhà chứa phân. Đối với dạng moóc cần giải quyết việc nâng hạ lưỡi rạch hàng ở các
thế làm việc, vận chuyển trên đường, quay đầu bờ.
4) Rãnh rải phân cần có độ sâu nhỏ từ 7 – 12 cm, hẹp để không làm ảnh hưởng đến
sự sinh trường và phát triển của cây cũng như tác động xói mòn. Với khoảng cách
hàng trồng từ 5 – 6 m thì cần hai rãnh rải phân ở giữa hai hàng trồng cách nhau từ 1
– 1,2 m. Bộ phận tạo rãnh nên sử dụng dạng chảo để làm tổn hại ít đến rễ cây, nhất
là ở các vườn hay rừng cây cao su lâu năm. Công cụ lưỡi có thể móc rễ làm hư hại
đến cây cao su.
5) Hỗn hợp bón nằm trong thùng chứa như trong một bun ke. Vì thế có thể xảy ra
các hiện tượng nén chặt hay tạo thành khoang rỗng làm ảnh hưởng đến quá trình
cung cấp phân. Các giải pháp khắc phục là tạo các tầng lưới, các thanh đỡ hay bộ

phận khuấy trộn.
1.3.2. Định hướng nghiên cứu
Từ các phân tích trên hướng nghiên cứu đề tài là:
Chọn mô hình máy bón phân chăm sóc cây cao su phục vụ công tác thực
nghiệm bộ phận bón phân như hình 1.13.

22
Mô hình máy chăm sóc bón phân cho cây cao su kiểu liên hợp moóc với máy
kéo 4 bánh bơm cỡ 1,4 tấn (từ 50 – 80 HP) thực hiện bón tự động. Cấu tạo của máy
gồm:



Hình 1.13: Sơ đồ cấu tạo máy chăm sóc bón phân cho cây cao su phát tán.
1. Thùng chứa phân; 2. Các thanh chống nén; 3. Vít tải đứt đoạn;
4. Khung chảo rạch; 5. Xy lanh thủy lực; 6. Chốt liên kết máy kéo;
7. Bánh giới hạn độ sâu rạch; 8. Chảo rạch; 9. Bộ phận lấp đất; 10. Bánh xe.
+ Rơ moóc chứa và rải phân: Nhiệm vụ của rơ moóc rải phân là chứa phân bón,
cung cấp và rải phân xuống rãnh. Thùng chứa phân cần làm bằng vật liệu inox để có
khả năng chống lại sự ăn mòn của phân bón. Các kích thước hình học và kết cấu của
thùng phải được giải quyết từ kết quả tính toán và thực nghiệm để tránh được hiện
tượng đánh đống hay đóng bánh khi làm việc. Rơ moóc cần có vật che đậy để
không làm ướt hay thất thoát phân khi trời mưa. Bộ phận rải phân kiểu cánh đứt
đoạn, nằm suốt theo chiều dài rơ moóc.
+ Bộ phận rạch hàng: Nhiệm vụ bộ phận rạch hàng là tạo rãnh rải phân. Bộ phận
rạch hàng có cấu tạp dạng chảo có gắn bánh xe tựa để điều chỉnh độ sâu rạch hàng.
Việc nâng hạ bộ phận rạch hàng khi làm việc, quay đầu bờ hay vận chuyển trên
đường nhờ hệ thống thủy lực liên kết với rơ moóc.
+ Bộ phận gạt đất lấp phân dạng bừa răng lắp bơi.


23
+ Bộ phận vận chuyển dạng moóc với bánh xe dạng bánh bơm có kích thước đủ lớn
để hạn chế bị lún hay trượt khi chạy trên các hàng cao su.
+ Vì bộ phận rải phân có yêu cầu công suất khá lớn (do 2 trục rải phân nằm suốt
chiều rơ moóc) nên truyền động cho trục rải phân bằng trục cardan lấy truyền động
từ trục thu công suất của máy kéo.










24
Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mc tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Cơ giới hóa công việc bón phân chăm sóc cây cao su đã phát tán theo hướng:
+ Giảm chi phí bón phân chăm sóc cây cao su (giảm chi phí chăm sóc trên 60 %)
nói chung và chi phí lao động (giảm trên 80% lao động ) nói riêng;
+ Nâng cao hiệu quả khai thác mủ cây cao su nhờ bón phân đúng theo quy định của
ngành cao su;
+ Hạn chế thất thoát vật tư trong việc bón phân cho cây cao su.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
Xác định bằng lý thuyết và thực nghiệm một số thông số kết cấu hợp lý của

bộ phận bón phân trên máy bón phân cho cây cao su đã phát tán.
2.2. Đối tượng v phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.2.1.1. Các tính chất cơ lý của phân bón cho cây cao su đã phát tán [16]
Các tính chất cơ lý ảnh hưởng đến sự làm việc của bộ phận bón phân cho cây
cao su đã phát tán trình bày như bảng 2.1.
Bảng 2.1. Các tính chất cơ lý của phân bón cho cây cao su đã phát tán.
TT
Đại lượng, đơn vị tính
Giá trị
Khoảng tin cậy
Trung bình
1
Khối lượng thể tích, kg/m
3
480  520
500
2
Góc ma sát với thép, độ
24  32
28
3
Góc dốc tự nhiên, độ
48  56
52
4
Độ ẩm, %
18  25
21,5
2.2.1.2. Quá trình công nghệ

Bón phân chăm sóc cho cây cao su đã phát tán.


25
2.2.1.3. Cơ cấu
Bộ phận bón phân trên máy bón phân cho cây cao su đã phát tán theo hình
1.13.
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu quy hoạch thực nghiệm trên bộ phận bón phân của máy bón
phân cho cây cao su đã phát tán để xác định một số thông số kết cấu hợp lý.
2.3. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu 1: Nghiên cứu lý thuyết bộ phận bón phân của máy bón phân
chăm sóc cho cây cao su đã phát tán.
Nội dung nghiên cứu 2: Khảo sát thực nghiệm bộ phận bón phân của máy bón
phân chăm sóc cho cây cao su khi đã phát tán bằng phương pháp quy hoạch thực
nghiệm.
Nội dung nghiên cứu 3: Xác định các thông số tối ưu cho bộ phận bón phân của
máy bón phân chăm sóc cho cây cao su khi đã phát tán.
2.4. Cch tiếp cận v phương php nghiên cứu
2.4.1. Cách tiếp cận
+ Tiếp cận các tài liệu, công trình khoa học nghiên cứu liên quan:
- Về kỹ thuật canh tác cây cao su;
- Về cấu tạo và lý thuyết tính toán máy bón phân chăm sóc cho các cây trồng
cạn nói chung và cây cao su nói riêng;
+ Tiếp cận bằng điều tra, khảo sát trực tiếp tại các công ty Cao su ở các tỉnh Phía
Nam để tìm hiểu tình hình trồng và chăm sóc cây cao su; nhu cầu về máy bón phân
cho cây cao su; các yêu cầu khi chăm sóc bón phân cho cây cao su.
+ Tiếp cận bằng thực nghiệm trong phòng thí nghiệm để đo đạc các tính chất cơ lý
của phân bón.
+ Tiếp cận bằng các phương pháp thống kê để xác định các quy luật thực nghiệm về

đối tượng nghiên cứu.


×