Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

tiểu luận thực trạng và giải pháp phát triển bền vững du lịch ở cù lao chàm tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.24 KB, 31 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong bài tiểu luận là trung thực, được các
tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kì công trình
nào khác.

Tam Kì, ngày 26 tháng 11 năm 2013
Hồ Văn Phúc
















LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến trường Đại Học Quảng
Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học lớp Đại học Việt Nam Học khóa
11, tôi gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô bộ môn chuyên nghành đã nhiệt tình
giảng dạy tôi trong thời gian qua, qua đó tôi đã có được những kiến thức bổ


ích để làm đề tài tiểu luận. Đặc biệt tôi gửi lời cảm ơn chân thành đến cô
giáo, Thạc sĩ Hồ Thị Thanh Ly đã nhiệt tình hướng dẫn và đóng góp những
ý kiến cho tôi thực hiện bài tiểu luận này.
Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng không tránh khỏi những thiếu sót,
mong cô và các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến cho tôi để bài làm được
hoàn thiện hơn nữa.

Xin chân thành cảm ơn!













A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm tới đây, Việt Nam chuyển sang thời kì đẩy mạnh
công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Sự nghiệp đổi mới sẽ có bước phát triển
mạnh hơn, nhằm đưa nền kinh tế Việt Nam từ nền nông nghiệp nghèo nàn,
lạc hậu thành một nước công nghiệp, có nền kinh tế hiện đại với cơ cấu công
nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ hợp lí, trong đó công nghiệp và dịch vụ
ngày một chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân. Với đặc
điểm là một ngành kinh tế tổng hợp, mang tính liên ngành, liên vùng và xã

hội hóa cao, với hiệu quả nhiều mặt; lại được xác định có vai trò ngành kinh
tế mũi nhọn, nên ngành du lịch phải đẩy mạnh tốc độ phát triển nhanh hơn
và bền vững. Để đạt được mục tiêu đề ra, một trong những nhiệm vụ trước
mắt mà ngành du lịch phải thực hiện đó là kích thích việc đa dạng hóa các
loại hình du lịch trong nước, đặc biệt là loại hình du lịch biển, đảo.
Trong đó, Cù Lao Chàm là cụm đảo hiện nay thuộc tỉnh Quảng Nam
một trong những khu dự trữ sinh quyển thế giới đang có rất nhiều tiềm năng
về khai thác du lịch. Nhận thức được tiềm năng và tầm quan trọng của việc
phát triển du lịch bền vững ở đây, nên tôi đã chọn đề tài này và bài viết của
tôi chủ yếu tập trung vào tìm hiểu: “Thực trạng và giải pháp phát triển bền
vững du lịch ở Cù Lao Chàm, tỉnh Quảng Nam”
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tìm ra những tiềm năng, thực trạng du lịch ở Cù Lao Chàm để
đưa ra nhưng giải pháp phát triển ngành du lịch ở đây mang màu sắc riêng,
phong phú, đa dạng và bền vững hơn.

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Cụm đảo Cù Lao Chàm, ban quản lí về cụm đảo, người dân bản địa
và khách du lịch đến nơi đây.
2. Phạm vi nghiên cứu
Bài nghiên cứu này chỉ thực hiện trong khu vực đảo Cù Lao Chàm và
các vùng phụ cận có ảnh hưởng đến nơi đây.
Nghiên cứu lượng khách du lịch đến với Cù Lao Chàm trong thời gian
từ năm 2009 đến năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp sau đây:
4.1. Phương pháp quan sát
Quan sát về môi trường cũng như việc làm du lịch của ban quản lí và
người dân nơi đây.

Quan sát lượt khách du lịch đến và đi ở Cù Lao Chàm
4.2. Phương pháp điều tra, phỏng vấn
Lập các câu hỏi phỏng vấn nhằm thu thập tài liệu để thực hiện bài
tiểu luận này.
4.3. Phương pháp thực nghiệm tự nhiên
Tham gia vào một chuyến đi đến Cù Lao Chàm để biết thêm về nơi
đây, đồng thời thu thập thêm tài liệu trong chuyến đi.
4.4. Phương pháp thu thập tài liệu
Phân tích và thu thập tài liệu từ báo chí, internet, thực tế…nhằm làm
cho bài tiểu luận hoàn thiện hơn.

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Khái niệm về du lịch
Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định với mục
đích giải trí, công vụ hoặc những mục đích khác ngoài mục đích kiếm tiền.
(Theo luật du lịch Việt Nam ban hành năm 2005, tại điều 4, chương I)
Ngoài ra, Du lịch còn có thể được hiểu là :
+ Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi
của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ,
nâng cao nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc
tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ do các cơ sở
chuyên nghiệp cung ứng.
+ Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy
sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian
rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức
khoẻ, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh.
Việc phân định rõ ràng hai nội dung cơ bản của khái niệm có ý nghĩa

góp phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch. Du lịch không chỉ là một ngành
kinh tế mà nó còn là một hiện tượng xã hội. Chính vì vậy toàn xã hội phải có
trách nhiệm đóng góp, hỗ trợ, đầu tư cho du lịch phát triển như đối với giáo
dục, thể thao hoặc một lĩnh vực văn hoá khác.
1.2. Khái niệm về du lịch bền vững
Du lịch bền vững là khái niệm mới xuất hiện trên cơ sở cải tiến, nâng
cấp và hoàn thiện khái niệm du lịch của những năm 90 và thực sự được mọi
người quan tâm trong những năm gần đây. Hội đồng du lịch và lữ hành quốc

tế (WTTC) cho rằng: “Du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại
của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu
cầu cho các thế hệ du lịch tương lai”. Khái niệm này chỉ ra rằng mội hoạt
động du lịch ở hiện tại không được xâm phạm đến lợi ích của thế hệ tương
lai và phải luôn tôn trọng đảm bảo duy trì hoạt động ấy một cách liên tục và
lâu dài.
Theo định nghĩa mới của tổ chức Du lịch thế giới (WTO) đưa ra tại
hội nghị về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc tại Rio de Janerio
năm 1992: “Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm
đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong
khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc
phát triển hoạt động du lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch
quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thoả mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội,
thẩm mỹ của con người trong khi đó vẫn duy trì được sự toàn vẹn về văn
hoá, đa dạng về sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ thống
hỗ trợ cho cuộc sống của con người”. Trong định nghĩa mới này thì du lịch
đã được hiểu một cách đầy đủ hơn nó được xem xét trên cả ba lĩnh vực kinh
tế - xã hội - môi trường.
Và mới đây hội nghị Bộ trưởng du lịch các nước Đông Á - Thái Bình
Dương tổ chức tại Việt Nam đã đưa ra quan điểm về du lịch bền vững đó là:
“ Các hình thức du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại của du khách, ngành du lịch

và cộng đồng địa phương nhưng không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng nhu
cầu của thế hệ mai sau, du lịch khả thi về kinh tế nhưng không phá huỷ môi
trường mà tương lai của du lịch phụ thuộc vào đó, đặc biệt là môi trường tự
nhiên và kết cấu xã hội của cộng đồng địa phương”.
Tóm lại: phát triển du lịch bền vững là một vấn đề không thể thiếu
được trong quá trình đi lên của đất nước nói chung và của ngành du lịch nói

riêng. Tuy nhiên bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là yếu tố
không thể tách rời của quá trình phát triển.
1.3. Nội dung phát triển du lịch bền vững
Như chúng ta đã biết, thì để phát triển được du lịch bền vững cần phải
đạt được các nội dung căn bản sau đây:
• Khai thác và sử dụng nguồn lực (tài nguyên) một cách bền vững, bao
gồm cả tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Đó được coi là
nền tảng cơ bản nhất để duy trì phát triển du lịch lâu dài.
• Giảm thiểu tiêu thụ quá mức tài nguyên và giảm thiểu chất thải. Thực
hiện nguyên tắc này nhằm giảm chi phí khôi phục tài nguyên và giảm
chi phí cho việc xử lý ô nhiễm môi trường và nâng cao chất lượng
dịch vụ du lịch.
• Duy trì tính đa dạng tự nhiên, đa dạng xã hội và đa dạng văn hoá.
Việc duy trì tính đa dạng sẽ tạo cho sức bật cho ngành du lịch giúp du
lịch phát triển một cách bền vững.
• Đảm bảo lợi ích nhiều mặt của công đồng dân cư địa phương. Tăng
thu nhập cho địa phương. Du lịch được coi là một ngành tổng hợp vì
vậy sự phát triển của du lịch có liên quan mật thiết với các ngành kinh
tế khác trong đó có cả kinh tế địa phương vì vậy muốn phát triển bền
vững du lịch thì du lịch phải có vai trò hỗ trợ, dẫn dắt kinh tế địa
phương phát triển.
• Phải có trách nhiệm về phát triển du lịch hôm nay và cả mai sau. Vì
vậy du lịch bền vững đồng nghĩa với du lịch trách nhiệm.

• Lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa phương. Sự tham gia của cộng
đồng địa phương không chỉ đem lợi nhuận cho cộng đồng mà còn làm

tăng tính trách nhiệm của cộng đồng trong việc phát triển du lịch và
bảo vệ môi trường.
• Chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực. Như chúng ta đã biết
nguồn nhân lực phục vụ du lịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nguồn
nhân lực có chất lượng sẽ giúp cho du lịch phát triển đa dạng và bền
vững hơn.
Tóm lại, muốn du lịch phát triển bền vững thì nhất thiết phải tôn trọng
các nội dung cơ bản trên để không tổn hại đến môi trường tự nhiên, môi
trường kinh tế, và môi trường xã hội. Du lịch bền vững sẽ tác động tích cực
đến đời sống xã hội và kinh tế. Du lịch thực sự đóng vai trò quan trọng và là
ngành mũi nhọn chỉ khi nó được phát triển một cách bền vững. Mặt khác cần
triển khai các nguyên tắc trên trong toàn bộ hệ thống của nền kinh tế xã hội
thì khi đó mới đem lại hiệu quả cao, hiệu quả tốt nhất.
1.4. Các tiêu chí đánh giá phát triển du lịch bền vững
Để đánh giá thước đo về du lịch bền vững cần phải đánh giá trên ba
mặt đó là: bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt xã hội và bền vững về
mặt môi trường.
Bền vững về mặt kinh tế là phát triển kinh tế nhanh và ổn định trong
một thời gian dài. Tăng trưởng nhanh chưa chắc đã có được phát triển bền
vững về mặt kinh tế. Vì thế chúng ta phải luôn duy trì một tốc độ tăng
trưởng ổn định hợp lý và lâu dài không nên chỉ chú trọng và nhấn mạnh vào
tăng trưởng kinh tế nhanh.
Bền vững về mặt môi trường: Môi trường sống có ảnh hưởng trực tiếp
đến sự sống và sự phát triển của mỗi cá thể và của cộng đồng, nó bao gồm
toàn bộ các điều kiện vật lý, hoá học, sinh học và xã hội bao quanh. Bền
vững về mặt môi trường là ở đó con người có cuộc sống chất lượng cao dựa
trên nền tảng sinh thái bền vững.


Bền vững về xã hội: Tính bền vững đó phải mang tính nhân văn hay
nói một cách khác là phải đem lại phúc lợi và chia sẻ công bằng cho mọi
công bằng cho mọi cá nhân trong xã hội. Phát triển phải được gắn liền với
một xã hội ổn định, hoà bình, mở rộng và nâng cao năng lực lựa chọn cho
mọi người cùng với đó là việc nâng cao sự tham gia của cộng đồng vào quá
trình phát triển.
Cũng như tăng trưởn kinh tế, phát triển bền vững có thước đo riêng và
rất đặc trưng. Tuy nhiên hệ thống thước đo này rất phức tạp và nhiều thước
đo rất khó xác định vì chúng phải đánh giá trên cả 3 phương diện kinh tế - xã
hội - môi trường.
Về mặt kinh tế, tính bền vững thể hiện ở các chỉ số như: tổng sản
phẩm trong nước (GDP), tổng sản phẩm quốc gia (GNP), cơ cấu GDP và
GNP, GDP/người, GNP/người Theo tiêu chuẩn quốc tế thì chỉ tiêu
GDP/người phải ở mức 5% mới được coi là phát triển bền vững và cơ cấu
GDP mạnh là cơ cấu có tỷ lệ đóng góp của công nghiệp và dịch vụ trong cơ
cấu phải cao hơn tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong cơ cấu.
Về mặt xã hội, có các chỉ tiêu đánh giá như: chỉ số phát triển con
người (HDI), hệ số bất bình đẳng thu nhập, giáo dục, y tế, văn hoá HDI là
chỉ tiêu đánh giá tổng hợp sự phát triển của con người vì vậy muốn phát
triển bền vững thì yêu cầu đặt ra đối với chỉ tiêu này là phải tăng trưởng và
đạt đến mức trung bình. Chỉ số bình đẳng trong phân phối thu nhập cũng là
một trong số các chỉ tiêu quan trọng trong phát triển bền vững vì bất bình
đẳng trong phân phối thu nhập cũng là nguyên nhân gây ra những xung đột,
bất ổn trong xã hội.
Về mặt môi trường các chỉ tiêu đánh giá như : mức độ ô nhiễm (không
khí, nguồn nước ), mức độ che phủ rừng là những chỉ tiêu quan trọng
trong đánh giá tính bền vững của môi trường. Môi trường bền vững là môi

trương luôn thay đổi nhưng vẫn làm tròn ba chức năng : là không gian sinh

tồn ; là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động
sản suất của con người ; là nơi chứa đựng, xử lý chất thải.
Ngoài ra còn phải quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới; các chỉ tiêu về
giáo dục: tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi, tỷ lệ học trung học, đại
học, các chỉ tiêu về hoạt động văn hoá khác.
1.5. Các yếu tố tác động đến phát triển du lịch bền vững
Nguồn tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích
cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có
thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để hình
thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo lập ra sự hấp dẫn du khách.
Tài nguyên du lịch bao gồm hai nhóm: Tài nguyên du lịch nhân văn
và tài nguyên du lịch thiên nhiên.
Tài nguyên du lịch thiên nhiên như: đất, nước, khí hậu, sinh vật,
khoáng sản, tạo thành cảnh quan, các dạng địa hình, đóng vai trò quan
trọng trong quá trình thu hút du khách, giúp du lịch phát triển.
Tài nguyên nhân văn gồm: hệ thống các di tích lịch sử, di tích văn
hoá, phong tục tập quán, lễ hội là yếu tố cơ bản để phát triển du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị hạ tầng
Cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị hạ tầng là vấn đề không thể thiếu
được, là điều kiện quan trọng để phát triển du lịch và nó có ảnh hưởng lớn
đến việc thu hút khách du lịch đến với địa điểm du lịch nó bao gồm:
Mạng lưới giao thông vận tải: là nhân tố quyết định đến việc phát triển
du lịch cũng như khai thác những tiềm năng du lịch của địa phương. Mạng
lưới giao thông thuận lợi mới thu hút được du khách đến với địa điểm du
lịch.

Mạng lưới thông tin liên lạc và internet: Giúp trao đổi thông tin, tìm
kiếm dễ dàng các điểm du lịch mà mình thích từ đó lên kế hoạch cho chuyến
đi giúp chuyến đi được thuận lợi. Mặt khác nhờ có mạng lưới thông tin và

internet sẽ giúp liên kết trong các doanh nghiệp du lịch với nhau, trao đổi
kinh nghiệm và cùng nhau phát triển.
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch: Bao gồm trang thiết bị,
phương tiện, cơ sở cần thiết để đón tiếp khách du lịch, nơi lưu trú cho khách
du lịch, khu vui chơi giải trí là yếu tố quan trọng để thoả mãn nhu cầu nghỉ
ngơi cũng như nhu cầu giải trí của du khách từ đó thu hút được nhiều khách
du lịch hơn.
Đào tạo lao động chuyên ngành du lịch (yếu tố con người)
Là yếu tố quan trọng trong sự phát triển của du lịch. Chất lượng công
tác kinh doanh chịu ảnh hưởng rất nhiều từ việc sử dụng lao động có chất
lượng hay không bởi vì lao động làm việc trong du lịch không những thực
hiện công tác chuyên môn về du lịch của mình hộ còn thực hiện nhiêm vụ
quan trọng là trao đổi văn hoá, giao tiếp với du khách tạo cho du khách có
cảm giác hứng khởi trong lúc du lịch.
Đường lối chính sách phát triển du lịch
Là nhân tố ảnh hưởng lớn đến việc phát triển du lịch, với một đường
lối chính sách nhất định có thể kìm hãm hay thúc đẩy du lịch phát triển.
Đường lối phát triển du lịch nằm trong đường lối phát triển chung , đường
lối phát triển kinh tế - xã hội vì vậy phát triển du lịch cũng là đang thực hiện
sự phát triển chung của xã hội.
Môi trường du lịch
Thực tế cho thấy phát triển du lịch thường đi kèm với những tác động
tiêu cực đến môi trường. Nếu trong quá trình phát triển, các tác động tiêu
cực đến môi trường không được liệt kê thông qua những biện pháp bảo vệ

môi trường quản lý hữu hiệu thì hậu quả sẽ dẫn tới suy thoái môi trường, ảnh
hưởng trực tiếp đến phát triển du lịch bền vững. Do vậy, trong quá trình phát
triển du lịch phải lồng ghép các yêu cầu và giải pháp về bảo vệ môi trường,
ngay từ khâu lập quy hoạch, xây dựng các chiến lược phát triển đến triển
khai các dự án, thiết kế các sản phẩm du lịch cụ thể.

Tham gia của cộng đồng
Sự tham gia của cộng đồng dân cư vào các hoạt động du lịch làm cho
du lịch phát triển bền vững hơn. Sự tham gia của cộng đồng dân cư không
những tạo thu nhập cho cộng đồng dân cư mà còn tăng tính trách nhiệm
trong việc phát triển du lịch. Việc tham gia này là hết sức cần thiết và không
thể thiếu được.
Trên đây chỉ là một số yếu tố chủ yếu để phát triển du lịch ở mỗi địa
phương. Tuỳ thuộc vào mỗi địa phương mà có những yếu tố khác đặc trưng
riêng. Tuy nhiên các yếu tố này không tách rời nhau mà kết hợp lại với nhau
thành một khối thống nhất tạo nên sức mạnh cho việc phát triển du lịch
thành công.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở
CÙ LAO CHÀM
2.1. Giới thiệu tổng quan về Cù Lao Chàm
2.1.1. Tên gọi và vị trí địa lí
Tên gọi cù lao Chàm đã xuất hiện cách nay đã hàng mấy trăm năm, và
tên gọi xã Tân Hiệp (thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam hiện nay) có
nguồn từ chữ Tân Hợp dưới triều Nguyễn. Trong dân gian, người dân vùng
ven biển ở Quảng Nam nói gọn là Lao.
Cù Lao Chàm nằm ở toạ độ 15
o
15'20'' đến 15
o
15'15'' vĩ độ bắc và
180
o
23'10'' kinh độ đông; là một cụm gồm 07 hòn đảo lớn, nhỏ (Hòn Lao,
Hòn Mồ, Hòn La, Hòn Dài, Hòn Tai, Hòn Khô và Hòn Ông) trải rộng trên
một diện tích không gian khoảng 15km

2
. Dân số trên các hòn đảo này gồm
khoảng 3000 người, trong đó Hòn Lao có diện tích lớn nhất và chiếm dân
cư nhiều nhất trong toàn vùng. Cù Lao Chàm cách bờ biển Cửa Đại 15km
về phía đông, cách thị xã Hội An 19km về phía đông-đông bắc và đã được
UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Về mặt hành chính,
hiện nay Cù Lao Chàm là xã đảo Tân Hiệp thuộc thành phố Hội An, tỉnh
Quảng Nam.
Diện tích đất ở và canh tác không rộng, song do vị thế và những điều
kiện tài nguyên rừng, biển và nguồn nước ngọt phong phú, Cù Lao Chàm
ngay từ thời tiền sử đã được chọn làm nơi tụ cư, sinh sống của con người.
Mặt khác cũng do vị trí tiền tiêu và như tấm bình phong che chắn, Cù Lao
Chàm luôn gắn bó hữu cơ với đất liền. Cùng với Cửa Đại- Hội An, Trà Kiệu
và Mỹ Sơn theo trục sông Thu Bồn tạo nên thế liên hoàn của chuỗi văn hoá
trong những giai đoạn cực thịnh của văn minh Champa.

Cù lao Chàm là một di tích văn hoá lịch sử gắn với sự hình thành và
phát triển của đô thị thương cảng Hội An. Bản đồ Tây - phương xưa thường
ghi Cù lao Chàm với tên "Champello" lấy từ tiếng Nam-Ấn (Autronesian)
"Pulau Champa". Cù lao Chàm còn có các tên gọi khác như Puliciam,
Chiêm Bất Lao, Tiên Bích La. Tại đây còn nhiều di tích thuộc các nền văn
hoá Sa Huỳnh, Chăm Pa, Đại Việt, với các công trình kiến trúc cổ của
người Chăm và người Việt có niên đại vài trăm năm.
Tháng 10 năm 2003, Khu Bảo tồn thiên nhiên Cù Lao Chàm được
thành lập để giữ gìn sinh vật hoang dã trên đảo, là 1 trong 15 Khu Bảo tồn
biển của Việt Nam vào thời điểm 2007. Ngày 29.5.2009, với hệ động thực
vật phong phú và những di tích lịch sử hàng trăm năm trước, Cù Lao Chàm
được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới trong phiên họp
thứ 21 của Ủy ban Điều phối quốc tế chương trình con người và sinh quyển
diễn ra tại đảo Jeju (Hàn Quốc).

Với vị trí địa lí như vậy, đã tạo cho Cù Lao Chàm một vị trí quan
trọng cả về mặt kinh tế, chính trị và quốc tế.
2.1.2. Điều kiện tự nhiên
Cù Lao Chàm - cách Cửa Đại 19km về hướng đông - đông bắc,thuộc
vùng khí hậu có nền nhiệt độ đồng đều, nhiệt độ trung bình năm khoảng
26
o
C, không có gió tây nam khô nóng. Mưa tương đối ít và điều hoà, ít có
sương mù, độ ẩm trung bình 80 - 90%. Vào các tháng 8, 9, 10 hàng năm,
chịu ảnh hưởng nặng của áp thấp nhiệt đới và bão.
2.2. Tiềm năng của xã đảo Tân Hiệp – Cù Lao Chàm
2.2.1. Vẻ đẹp Cù Lao Chàm
Cù lao Chàm có khí hậu quanh năm mát mẻ, hệ động thực vật phong
phú, đặc biệt là nguồn hải sản và nguồn tài nguyên yến sào. Các rạn san hô ở
khu vực biển cù lao Chàm cũng được các nhà khoa học đánh giá cao và

được đưa vào danh sách bảo vệ. Du khách đến với cù lao Chàm sẽ trải qua
những giờ phút thú vị, bồng bềnh trên sông nước. Từ phố cổ Hội An theo
thuyền du lịch qua những xóm làng dọc theo sông Thu Bồn rồi ra Cửa Đại
thơ mộng sẽ thấy cù lao Chàm ẩn hiện phía xa xa với một vẻ đẹp lung linh
huyền ảo.
Nhờ những điều kiện thuận lợi mà thiên nhiên ban tặng nên hệ động
thực vật trên đảo khá phong phú, đa dạng. Rừng Cù lao Chàm có nhiều loại
lâm sản quý như gõ, kiền kiền, dẻ, chua, mây, song, dâu, sim; các loại dược
liệu quý hiếm như mã tiền, sơn máu, ối tím, ngũ gia bì. Quý khách đến đây
sẽ được tận hưởng một không gian hoàn toàn mới lạ và những phút giây cực
kỳ thú vị. Núi ở đây như một dải đất mẹ cù lao. Sườn phía đông, đá tảng dốc
đứng hiểm trở, kéo dài tới sườn tây, dốc thoải bao bọc cù lao. Phía dưới là
âu tàu luôn có vài chục tàu neo đậu. Đặc biệt, trên Cù Lao Chàm còn có
nhiều bãi tắm tự nhiên rất đẹp như: Bãi Ông, Bãi Chồng, Bãi Xếp

2.2.2. Thảm thực vật và động vật đa dạng, phong phú
Khi men theo những con đường mòn leo lên sườn núi, trên những lùm
cây lá thấp là rừng xanh cây lá rộng nhiệt đới phân bố từ độ cao 50 – 500m,
có nhiều loại gỗ quý như gõ biển, huỷnh, lim xẹt và vô vàn chủng loại lâm
sản như song, mây, cây làm thuốc. Thú vị nhất là nhiều loại phong lan nở
hoa quanh năm với loài huyết nhung tía. Ở sườn đồi phía đông của đảo, do
địa hình dốc vẫn tồn tại thảm thực vật cây bụi và những trảng cỏ với nhiều
loại đặc trưng như sến đất, huyết giác và cỏ cứng.
Theo kết quả nghiên cứu của Đại học Khoa học tự nhiên – Hà Nội, tại
Cù lao Chàm có nhiều loại cây cảnh rất đẹp đã sống vài ba trăm năm với
hình dạng lạ mắt. Bạn có thể đi dạo, nghỉ ngơi, ngồi bên con Suối Tình
ngắm dòng nước chảy hay trông thấy những cây tuế cao 2 – 3m mọc nhiều
trên đảo Hòn Dài, chiêm ngưỡng dáng vẻ kỳ lạ của cây vông nem đường

kính gần 2m, có bạnh lớn – một loài đa rễ bám vào tảng đá hoặc quấn quanh
thân gỗ khác. Đây là hiện tượng mà giới chuyên môn gọi là “bóp cổ”.
Thảm thực vật có độ bao phủ lớn chính là nơi cư trú của nhiều loại
động vật. Hiện Cù lao Chàm có 12 loài thú, 13 loài chim, 130 loài bò sát và
5 loài ếch nhái. Trong đó có 2 loài được ghi vào Sách đỏ động vật Việt Nam
là chim yến và khỉ đuôi dài. Đối với cư dân cù lao, những chú khỉ đuôi dài
tinh nghịch xuống tận bờ đá giáp với mặt nước biển vào mỗi sớm chiều đã
trở thành nếp sinh hoạt thường nhật. Nhiều người kể rằng, chúng khoái chí
ném đá ra biển và hét toáng lên khi thấy tàu thuyền đi ngang.
Trên 8 hòn đảo nhỏ, mỗi nơi có mỗi điều kỳ thú khác. Tuy nhiên, chỉ
cần đi theo con đường nhựa cấp phối quanh lưng đảo Hòn Lao, bạn không
chỉ tận hưởng trời nước mênh mông mà còn khám phá thế giới tự nhiên vô
cùng đa dạng, phong phú. Cù lao Chàm luôn là điểm đến lý thú cho những ai
yêu thích vùng sinh thái biển mà thiên nhiên nơi đây ban tặng.
2.2.3. Đặc sản ở Cù Lao Chàm
Nơi đây, không chỉ là không gian biển đảo với nhiều điểm du lịch hấp

dẫn mà còn có nhiều sản vật từ rừng đến biển như các loại rau rừng, cua đá,
các loài tôm cá và nhiều loại hải sản khác. Những ngày trời đẹp, đến với Cù
Lao Chàm, du khách sẽ được “thưởng thức” với món mực một nắng ngon
tuyệt vời. Cách chế biến mực một nắng rất đơn giản. Mực tươi rửa sạch rồi
trải trên vỉ đem phơi. Sau gần một ngày được nắng và gió biển hong ráo bớt
nước, mực vừa se se khô rồi đem nướng lửa than hồng. Nướng vừa chín tới
thì dùng tay vừa thổi vừa xé, chấm tương ớt bỏ vào miệng… để nghe hương
vị biển cả hòa quyện trong lát mực.
Ngoài ra, nơi đây còn có một đặc sản chế biến từ con ốc Vú Nàng vào
mùa trăng tròn. Bởi đơn giản vào mùa trăng tròn ốc Vú Nàng mới xuất hiện
nhiều.Vì số lượng có hạn, nên dân bắt ốc chuyên nghiệp phải ngâm mình

dưới nước hàng giờ, dùng đèn soi rọi vào tận kẽ đá, dùng mũi dao nhọn tách
từng con ốc đang bám chặt vào thành đá. Thưởng thức từng con ốc giòn
giòn, ngòn ngọt mới hiểu hết kỳ công của người đi bắt ốc. Người dân xứ
biển có thể chế biến ốc Vú Nàng thành nhiều món như: món luộc, món
nướng, món gỏi. Không quá béo như thịt, không quá dai như sò, nghêu,
không nhỏ như hàu và có hương vị đậm đà khó quên, ốc Vú Nàng được xem
là loài ốc quý trong danh mục ốc xứ Quảng.
2.2.4. Các điểm hấp dẫn ở Cù Lao Chàm
Trên đất Cù Lao Chàm hiện còn tồn tại khá nhiều các di tích tôn giáo -
tín ngưỡng được xây dựng qua các thời kỳ lịch sử. Đặc biệt, trong số đó có
những công trình mang nhiều giá trị lịch sử - văn hóa và đã được Bộ Văn
Hóa - Thông Tin chính thức ra quyết định công nhận là di tích cấp quốc gia.
Lăng Tiền Hiền: tọa lạc tại xóm giữa, thôn Bãi Làng. Được xây dựng
vào khoảng cuối thế kỷ thứ 18 - đầu thế kỷ 19. Đây là một di tích không
những có vai trò quan trọng trong hệ thống các di tích tín ngưỡng của các cư
dân trên đảo Cù Lao Chàm mà còn là một bằng chứng quan trọng trong việc
nghiên cứu về quá trình định cư, khai hoang khẩn hóa, ổn định cuộc sống và
làm sáng tỏ tập tục tôn giáo tín ngưỡng của cư dân trên đảo Cù Lao Chàm

xưa. Đồng thời góp phần làm phong phú hệ thống các công trình kiến trúc
tôn giáo tín ngưỡng trong quần thể các di tích tôn giáo tín ngưỡng ở Tân
Hiệp nói riêng và Hội An nói chung.
Miếu tổ nghề Yến: Di tích được xây dựng trên một gò cát khá cao
thuộc Bãi Hương Cù Lao Chàm, mặt tiền xoay ra hướng biển theo hướng
Tây - Tây Bắc nhìn vào đất liền. Đây là một công trình kiến trúc tín ngưỡng
thờ cúng Tổ nghề, một nghề khá đặc biệt ở Quảng Nam nói riêng, cả nước
nói chung. Di tích nằm trên cụm đảo Cù Lao Chàm góp phần tôn thêm sự

phong phú về điểm tham quan du lịch, nơi vừa có cảnh quan thiên nhiên vừa
có di tích kiến trúc lịch sử văn hóa.
Chùa Hải Tạng: là một ngôi chùa làng “quy mô nhất”, toạ lạc tại thôn
Bãi Làng. Theo văn bia hiện đang lưu giữ tại chùa cho biết, vào năm Cảnh
Hưng thứ 19 (1758) chùa được dựng tại vị trí khác, cách vị trí hiện nay
khoảng 200m về phía Đông Bắc. Nhưng do bị mưa bão làm hư hại nên vào
năm Tự Đức nguyên niên (1848) chùa được dời về xây dựng lại trên địa
điểm hiện nay. Ngôi chùa đã đóng vai trò điển hình về loại hình di tích kiến
trúc nghệ thuật trên đất Cù Lao nói riêng, cả Hội An nói chung. Ngoài ra,
ngôi chùa còn là một bằng chứng quý giá cho việc nghiên cứu về loại hình
kiến trúc, tôn giáo - tín ngưỡng. Đây còn là một địa điểm tham quan lý
tưởng cho du khách khi bước chân đến Cù Lao Chàm.
Lăng Ông Ngư: Lăng nằm giữa khu dân cư theo hướng Tây Nam,
cách bờ biển chừng 10m để thờ cá Ông - vị thần bảo trợ cho những người đi
biển. Di tích đã góp phần minh chứng cho sự đa dạng phong phú sinh hoạt
văn hóa tín ngưỡng của cư dân địa phương, là bằng chứng về loại hình di
tích tín ngưỡng của cư dân làm nghề sông nước tại Hội An nói chung, Tân
Hiệp nói riêng.
Giếng xóm Cấm: Di tích là công trình kiến trúc quan trọng phục vụ
đời sống cư dân trên đảo. Xưa kia ngư dân, thương nhân đi thuyền từ nơi khác
đến cập bến Cù Lao Chàm lấy nước ngọt để đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt

của họ trên những chặn hành trình tiếp theo, qua đó thể hiện mối giao lưu
mạnh mẽ của cư dân trên đảo với thương dân, ngư dân bên ngoài. Di tích đã
cung cấp nhiều thông tin cần thiết để hiểu rõ hơn sinh hoạt văn hóa của cư
dân địa phương, quá trình phát triển làng xã cũng như vai trò, vị trí Cù Lao
Chàm trên chặng đường giao thương hàng hải ven biển Đông trước đây. Kỹ
thuật xây dựng giếng là nguồn tư liệu quan trọng góp phần làm rõ thêm kỹ

thuật xây dựng giếng Chăm ở Hội An cũng như sự kế thừa kinh nghiệm xây
dựng giếng của cư dân Việt tại đảo.
Di chỉ Bãi Làng: Dựa vào vị trí địa lý và hiện vật phát hiện tại di tích
cho thấy địa điểm Bãi Làng là di chỉ cư trú của cư dân Champa vào thế kỷ VII
- X sau công nguyên và có đời sống khá phát triển. Nhiều ngành nghề được
hình thành và phát triển như khai thác lâm, hải sản, sản xuất gốm, thủy tinh.
Qua nhiều hiện vật gốm, sành Trung Hoa, Islam và thủy tinh Islam được phát
hiện trong di tích Bãi Làng cho thấy vị trí quan trọng của hải đảo Cù Lao
Chàm trên con đường hàng hải quốc tế. Nơi đây chắc chắn có sự dừng chân
trao đổi của các thương thuyền Trung Quốc, Trung Đông. Qua đó, cho thấy
cư dân cổ Bãi Làng đã sớm có những hoạt động giao lưu thương mại với các
thương nhân nước ngoài.
Di chỉ Bãi Ông: Địa điểm khai quật khảo cổ nằm trên một cồn cát sát
chân núi. Qua các hiện vật thu thập được từ hố khai quật cho thấy đây là di
tích có niên đại sớm nhất được phát hiện ở Hội An từ trước đến nay. Di tích
đã góp phần làm rõ thêm vai trò của Cù Lao Chàm trong thời kỳ Tiền - Sơ
sử ở Hội An. Đồng thời chứng minh cư dân Sa huỳnh cư trú liên tiếp ở Hội
An từ Sơ kỳ đến hậu kỳ Văn hóa Sa Huỳnh.
Hiện nay, các di tích này không những góp phần trong việc làm phong
phú, đa dạng hệ thống di tích trên vùng đảo mà còn là những trọng điểm thu
hút du khách đến tham quan, thưởng ngoạn.
2.3. Tình hình khách đến Cù Lao Chàm qua các năm
Lượng khách tham quan Cù Lao Chàm tăng đột biến nhiều năm nay.

Nếu như năm 2009 chỉ có khoảng 33.599 lượt khách đến thì năm 2013 đã
tăng vọt lên khoảng 171.500 lượt khách tham quan.
Trong đó, lượng khách du lịch quốc tế chiếm gần 30% trong tổng số
lượng khách qua các năm, còn lại là khách du lịch nội địa. Như năm 2012

trong 105.047 lượt khách thì đã có 27.085 lượt khách du lịch quốc tế và
77.989 lượt khách nội địa. Điều đó chứng tỏ Cù Lao Chàm là một điểm đến
hấp dẫn mà cả khách trong và ngoài nước muốn đến.
Bảng số 1: Thể hiện lượt khách du lịch đến Cù Lao Chàm từ năm
2009 đến năm 2013
Đơn vị: Lượt khách
Năm 2009 2010 2011 2012 2013
Tổng lượng khách 33.599 54.769 78.909 105.074 171.500
Khách Quốc tế 8.123 15.815 9.910 27.085 47.100
Khách Nội địa 25.476 38.954 68.999 77.989 124.400
(Nguồn: Sở văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam)
Dưới đây là biểu đồ thể hiện tổng lượt khách du lịch đến Cù Lao
Chàm qua các năm, từ năm 2009 đến năm 2013:
Biểu đồ 2: Tình hình khách đến Cù Lao Chàm từ năm 2009-2012

Thông qua bảng số liệu và biểu đồ ở trên ta thấy được tổng lượt khách
du lịch đến Cù Lao Chàm tăng đều qua các năm. Số lượng khách tăng nhanh
đã đẩy áp lực mạnh mẽ lên việc bảo tồn khu dự trữ sinh quyển này. Như vậy,
việc phát triển du lịch ở Cù Lao Chàm cần phải kết hợp với việc bảo tồn và
tôn tạo nơi đây thành một điểm du lịch hấp dẫn và bền vững nhất.
2.4. Việc làm du lịch củ ban quản lí khu bảo tồn và người dân nơi đây
(nêu cụ thể hơn nữa)
Theo đánh giá của ban điều hành dự án, vấn đề nổi cộm nhất tại Cù
lao Chàm là sự xâm hại, tác động gián tiếp hoặc trực tiếp của con người vào
các nguồn tài nguyên biển thông qua các hoạt động khai thác quá mức, nạn ô

nhiễm môi trường
Trong khi nhận thức, thái độ và trách nhiệm của chính quyền, người
dân khi ứng xử với môi trường biển vẫn còn nhiều hạn chế. Các mục tiêu,
giải pháp khi đi vào thực tế luôn vấp phải khó khăn do cơ chế chung chưa rõ
ràng, kinh phí chủ yếu dựa vào nguồn viện trợ, trình độ cán bộ còn hạn chế,
kinh nghiệm tổ chức thực hiện chưa nhiều trước tính chất mới mẻ của công
việc.
2.5. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
2.5.1. Phương tiện đến Cù Lao Chàm
Hạn chế lớn nhất của Cù Lao Chàm trong việc thu hút du khách là
vấn đề giao thông. Hện nay vấn đề giao thông nối liền giữa đảo với đất liền
vẫn gặp khó khăn. Phương tiện duy nhất ra đảo là tàu cao tốc hay còn gọi là
ca nô và tàu gỗ của ngư dân. Tuy nhiên, cứ vào mùa mưa hoặc những ngày
biển động thì các loại tàu này không thể đi lại được. Những khó khăn này dù
khá “cũ” đối với Cù Lao Chàm nhưng không dễ giải quyết. Tiềm năng lớn
nhưng thách thức cũng không nhỏ, để phát triển bền vững Cù Lao Chàm
thành “thiên đường du lịch sinh thái – văn hóa” thì cần có những chính sách

dài hơi với sức đầu tư mạnh. Thậm chí, nhiều đoàn khách đã đặt vé nhưng
vào giờ chót, biển động, hãng tàu hủy chiến nên các hãng lữ hành cũng phải
hủy tuor.
Có ba cách chủ yếu để đi và về Cù Lao Chàm, cách 1: Nhanh nhất
nhưng hơi tốn kém, đến Cửa Đại, Hội An thuê ca nô ra đảo mất 15 phút.
Cách 2: Cũng tại Cửa Đại, có chuyến tàu chợ ra đảo vào lúc 9h hàng ngày,
hành trình khoảng 2h. Cách 3: Tại bến thuyền ngay trong phố cổ Hội An, có
chuyến tàu chợ ra đảo vào lúc 8h hàng ngày, hành trình khoảng 1h.
Khách ra đảo nếu không say sóng và muốn cảm nhận sâu sắc thì có
thể đi bằng tàu gỗ nhưng rất chậm, còn nếu muốn cảm giác mạnh và tiết
kiệm thời gian thì sẽ đi cano. Điều nghịch lý ở hai loại vận chuyển ở đây là
giá cả giữa hai loại hình vận chuyển này khá chênh lệch, thuyền gỗ thì giá

chỉ có 25.000 đồng thôi còn ca nô thì lại lên đến 150.000 đồng, rõ ràng là có
sự chênh lệch cao. Về thời gian vận chuyển cũng có sự chênh lệch không
kém, một bên thì thời gian vận chuyển khá lâu còn một bên thì rất là nhanh.
Đặt ra câu hỏi là tại sao ta không có một sự đồng nhất giữa hai phương tiện
để đưa ra cái chung nhất và hiệu quả nhất nhằm phục vụ cho du lịch và
người dân địa phương ?.
2.5.2. Hiện trạng cơ sở lưu trú
Ngoài cách trở về giao thông, nguồn thông tin cho khách trước khi ra
đảo còn hạn chế; cơ sở vật chất, kĩ thuật phục vụ du lịch; cơ sở lưu trú, ăn
uốn, vui chơi giải trí còn thiếu, lạc hậu và hạn chế về quy mô.Tuy nhiên,
Cù Lao Chàm đến nay vẫn chưa có resort, khách sạn, chỉ có các nhà nghỉ tự
phát của người dân đảo theo kiểu. Gọi là nhà nghỉ thôi nhưng đúng nghĩa là
bạn ở cùng gia chủ theo kiểu homestay (số lượng, chất lượng của homestay
có đảm bảo phục vụ khách không?), nên du khách đến Cù lao Chàm hoặc
phải đi về trong ngày hoặc phải lưu trú nhà dân hay tổ chức cắm trại ngủ lều

ngoài bãi biển. Đó là một bất cập ở Cù Lao Chàm hiện nay khi vào mùa cao
điểm.
Những năm gần đây, cơ sở vật chất, môi trường cảnh quan ở Cù Lao
Chàm cũng được đầu tư xây dựng. Nhưng vẫn không khả quan bởi chưa có
sự đầu tư đồng bộ, và đang được nhà nước kêu gọi phát triển đầu tư cho Cù
Lao Chàm.
2.6. Mạng lưới thông tin liên lạc và hệ thống điện
Mạng lưới thông tin liên lạc của Cù Lao Chàm có bước phát triển
nhảy vọt. Hiện nay Cù Lao Chàm đã phủ sóng điện thoại di động các mạng
Vinaphone, MobiFone, Viettel, phát triển thêm dịch vụ điện thoại cố định
không dây G-Phone. Hiện có 1 Đài viễn thông, 1 Bưu điện trung tâm.
Quy hoạch phát triển bền vững cho Cù Lao Chàm hiện gặp nhiều vấn
đề khó khăn trong việc định hướng phát triển bền vững, trong đó khó khăn
lớn nhất là vấn đề năng lượng. Hiện nay, nguồn năng lượng điện mà Cù Lao

Chàm đang sử dụng là nguồn điện máy nổ chạy dầu diezel có công suất nhỏ,
gây ô nhiễm và chạy ngắt quãng trong ngày. Đây là trở ngại lớn nhất trong
chiến lược phát triển Cù Lao Chàm. Nhiều nhà đầu tư rất thích đầu tư vào xã
đảo này nhưng e dè khi đối diện với vấn đề năng lượng điện và phát triển
bền vững.
2.7. Môi trường ở Cù Lao Chàm
2.7.1. Vấn đề vê rác thải
Rác thải đã, đang và sẽ còn là vấn đề nan giải của Cù Lao Chàm.
Thực tế, du khách trong và ngoài nước đến với Cù Lao Chàm khá đông.
Trong tương lai, lượng du khách tới đây chắc chắn sẽ tăng lên nhiều lần.
Điều đó đồng nghĩa với việc lượng rác thải sẽ cũng tăng lên. Mùa nắng
nóng, đỉnh điểm là vào các tháng 6, 7, 8 hằng năm; nguồn nước sinh hoạt
trên đảo bị cạn kiệt. Việc xử lí chất thải ở đây chưa có sự đầu tư, rồi đến việc

nước thải của các hồ nuôi tôm ven bờ, dường như "tiện" nhất và phổ biến
nhất là xả thẳng xuống biển. Thực chất là ở đây đã có sự tiến bộ trong việc
thay vì sử dụng bao ni lông thì sẽ sử dụng những loại bao bằng giấy, đó cũng
là giải pháp hay nhưng chỉ trong một phạm vi nào đó thôi.
2.7.2. Ảnh hưởng đa dạng sinh học
Hiện nay, với tổng diện tích 6.719 ha, trong đó có khoảng 165 ha rạn
san hô và 500 ha thảm có biển, trong sự quản lí của khu bảo tồn.Tiềm năng
để phát triển du lịch sinh thái tại Cù Lao Chàm là rất lớn. Người dân ở đây
có thể hưởng lợi bằng những nguồn thu nhập từ du lịch. Tuy nhiên, việc đó
có thể kéo theo ảnh hưởng lớn tới sinh vật biển.Vấn đề là làm thế nào để
chọn được các nhà đầu tư thực sự có năng lực và có ý tưởng về đa dạng sinh
học.
Gần đây, khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm đã ra văn bản chấn
chỉnh hoạt động du lịch tại các đảo, việc đưa khách du lịch ồ ạt ra các đảo sẽ
gây ảnh hưởng không tốt tới môi trường của đảo. Bên cạnh đó, hệ sinh thái
biển tại đây đã chịu ảnh hưởng nặng nề từ sau cơn bão Xangsane năm 2006,

thêm vào đó là hiện tượng ấm dần của nước biển. Hơn nữa, các hoạt động
đánh bắt cá của ngư dân trong vùng và các vùng biển lân cận cũng gây ảnh
hưởng rất lớn.


CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH
Ở CÙ LAO CHÀM
3.1. Về cơ sở hạ tầng
3.1.1. Phương tiện vận chuyển
Vấn đề giao thông vận chuyển cần được nâng cấp và xây mới, để
giảm thiểu thời gian di chuyển của du khách, tạo ra tính hấp dẫn hơn trong
việc lựa chọn địa danh Cù Lao Chàm. Lượng khách tới Cù Lao Chàm chủ
yếu là khách cao cấp vì thế vấn đề cơ sở hạ tầng, dịch vụ cần phải được triển
khai nhanh chóng để đáp ứng tốt nhu cầu
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư, công tác lập quy
hoạch phát triển du lịch Cù Lao Chàm đến năm 2020 đang được gấp rút triển
khai. Đây là nền tảng để xây dựng các quy hoạch kinh tế – xã hội ở Cù Lao
Chàm.
Nên đề ra phương án để đưa ra cái chung nhất giữa các loại hình vận
chuyển, và nên cân nhắc lại giá cả vận chuyển khách, nhằm thu hút khách du
lịch ngày càng nhiều hơn trong tương lai. Có thể đưa ra phương án là sử
dụng cáp treo vượt biển như Vinpearlland ở Nha Trang hoặc xây dựng cầu
vượt biển… nhưng không làm mất đi hình ảnh sinh thái nơi đây.
3.1.2. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng và kiến trúc thương tầng
Hiện nay, ở Cù Lao Chàm không đầu tư khách sạn, nhà nghỉ cao
tầng vì để tránh phá vỡ đi cảnh quan thiên nhiên. Vì vậy theo tôi, cần phải
khẩn trương đầu tư hợp lí để khách có chỗ nghỉ ngơi thoải mái, đồng thời
nhằm giữ chân khách lâu hơn. Có thể xây dựng những khách sạn, nhà nghỉ
theo kiểu như nhà sàn, nhà rọi hoặc nhà gỗ nhưng cơ sơ vật chất bên trong
vẫn đầy đủ tiện nghi. Được biết, hệ thống nhà hàng nơi đây mang tính nhỏ,

lẻ và manh nha, vì vậy nên xây dựng các nhà hàng mang tính quy mô lớn
với những đặc sản từ biển nhằm phục vụ cho khách du lịch.

×