Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

vai trò của các chủ thể trong quan hệ lao động và liên hệ thực tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.04 KB, 22 trang )

Giảng viên: Cô Vũ Thị Minh Xuân
Bộ môn: Quản trị nhân lực
Nhóm thực hiện: 5
Đề tài: Vai trò của các chủ thể trong quan hệ lao động và liên hệ
thực tế ở Việt Nam
Lời mở đầu
Có 3 nhóm chủ thể cấu thành quan hệ lao động bao gồm: Người lao động và tổ chức
đại diện cho quyền lợi của họ, người sử dụng lao động và tổ chức đại diện cho quyền lợi
của họ, nhà nước. Trong mối quan hệ này, người lao động và người sử dụng lao động
thương lượng với nhau để đạt tới mục tiêu của mỗi bên, Nhà nước thiết lập hệ thống luật
pháp và áp dụng các biện pháp để luật pháp có hiệu lực, có nghĩa là để hai chủ thể người
lao động và người sử dụng lao động phải tôn trọng luật. Trong quá trình thực hiện các
quy định luật pháp của Nhà nước, người lao động và người sử dụng lao động có thể phát
hiện những điểm bất hợp lý hoặc không còn phù hợp, phản hồi lại để Nhà nước xem xét
và điều chỉnh.
Ở Việt Nam, Bộ luật Lao động được ban hành và có hiệu lực thi hành từ 01/01/1995
đã đặt nền tảng pháp lý cho việc hình thành và phát triển quan hệ lao động. Sau 15 năm
thực hiện, quan hệ lao động ở Việt Nam đã có những bước tiến nhất định từ việc nhận
thức đến tổ chức thực hiện phù hợp với sự hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường
và thị trường lao động. Các chủ thể được hình thành, các thiết chế bảo đảm, hỗ trợ quan
hệ lao động được ban hành và bước đầu hoạt động có hiệu quả. Việc ban hành Nghị định
số 145/2004/NĐ-CP ngày 14/7/2006 của Chính phủ, trong đó quy định về cơ chế tham
vấn các bên và Uỷ ban Quan hệ lao động, Trung tâm Hỗ trợ Phát triển quan hệ lao động
được thành lập, quan hệ của các bên được bảo đảm thông qua đối thoại, thương lượng
tăng dần. Tổ chức đại diện cho người lao động, người sử dụng lao động ngày càng có vai
to lớn và quan trọng trong việc tham gia cùng Nhà nước hoạch định các chính sách, pháp
luật lao động cũng như tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Công tác quản lý nhà nước về
lao động được chú trọng, nhất là khâu tuyên truyền, kiểm tra, thanh tra việc thực thi
chính sách,pháp luật lao động: Hệ thống trọng tài lao động, Toà án Lao động từng bước
được củng cố để thực hiện thiết chế xét xử khi tranh chấp lao động xảy ra.
Tuy nhiên, nhìn về tổng thể quan hệ lao động ở nước ta mới ở giai đoạn đầu phát triển,


còn nhiều bất cập, trong điều kiện nền kinh tế tiếp tục hội nhập sâu, rộng hơn với khu vực
và toàn cầu, số doanh nghiệp tăng, số lao động tham gia thị trường lao động tăng thì cũng
là những thách thức không nhỏ trong giai đoạn tới.
Nội dung bài thảo luận:
1.1. Người lao động và tổ chức đại diện cho quyền lợi của họ
1.1.1. Người lao động
1.1.1.1. Khái niệm và vai trò
Khái niệm:
- Từ góc độ kinh tế học, NLĐ là những người trực tiếp cung cấp sức lao động-một
yếu tố sản xuất mang tính người và cũng là một dạng dịch vụ/hàng hóa cơ bản của nền
kinh tế. Những người đang lao động là những người có cam kết lao động, có sản phẩm
lao động đối với tổ chức, người khác.
- Theo Bộ Luật Lao động nước ta, người lao động là người đến tuổi lao động, có khả
năng lao động, đang có giao kết và thực hiện hợp đồng lao động với chủ sử dụng lao
động. Luật Lao động cũng quy định rõ ràng, cụ thể về các quyền và nghĩa vụ của người
lao động khi tham gia lao động, quy định về hợp đồng lao động, xử lý tranh chấp hợp
đồng lao động, các chế độ chính sách đãi ngộ, phúc lợi xã hội bắt buộc.
Vai trò:
NLĐ là một chủ thể trong QHLĐ, là người trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào hoạt
động sản xuất, là yếu tố giữ vai trò quết định trong quá trình tạo ra của cải vật chất. Chính
con người với sức lực và trí tuệ của mình là nhân tố quyết định hiệu quả của việc khai
thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác, con người hay NLĐ không chỉ
quyết định hiệu quả của việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực
khác hiện có, mà còn tạo ra những gía trị, của cải xã hội góp phần quan trọng vào sự phát
triển bền vững trong tương lai.
1.1.1.2. Thực trạng ở Việt Nam
Lợi ích người lao động song hành cùng lợi ích công ty: Tại nhà máy sản xuất quần
jean Levi’s Việt Nam tại Khu công nghiệp Khánh Phú (Yên Khánh) là một khu nhà
xưởng rộng rãi, bề thế với những trang thiết bị hiện đại, chuyện nghiệp, nơi đây cho ra
những chiếc quần jean Levi’s đạt tiêu chuẩn quốc tế xuất đi khắp thế giới.

Để đạt được nhiều thành công như hiện nay, ban giám đốc cán bộ quản lý công ty đã
có nhiều chính sách phát triển và đặc biệt là rất coi trọng nguồn lực hay người lao động
của công ty. NLĐ chính là nguồn lực chủ yếu tạo ra sản phẩm cho công ty, là động lực
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế doanh nghiệp, là những người đóng góp rất lớn trong
việc sáng tạo đưa ra ý kiến hay giúp doanh nghiệp đổi mới.
Theo Chị Nguyễn Thu Hoà, xã Khánh Phú (Yên Khánh) cho biết: Ở tại công ty NLĐ
luôn được đánh giá cao, NLĐ được coi là lực lượng quan trọng trong doanh nghiệp, mọi
người hăng say làm việc tạo ra những sản phẩm đạt yêu cầu và đúng tiến độ, được tự do
đưa ra chính kiến của mình trong sự phát triển của doanh nghiệp.
NLĐ là lực lượng chính trong việc tao ra của cải sản phẩm cho doanh nghiệp là 1
động lực đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển cho doanh nghiệp.
Bên cạnh các doanh nghiệp đã đẩy mạnh việc thực hiện trách nhiệm xã hội với người
lao động thì vẫn tồn tại một thực tế là người lao động bị “lép vế” so với người sử dụng
lao động lao động trong quan hệ lao động do người sử dụng lao động có tư liệu sản xuất.
người lao động và cũng do người lao động không có đủ các kiến thức và trình độ cũng
như kỹ năng: Người lao động thiếu hiểu biết về pháp luật gây ra những thiệt thòi cho
những lợi ích của bản than và của cả doanh nghiệp :“Quá ít người lao động hiểu Luật lao
động” - ông Nguyễn Đức Sơn, phó chủ tịch UBND Q. Gò Vấp (TP.HCM), nhận xét như
vậy tại buổi đối thoại trực tiếp giữa lãnh đạo Quận ủy, UBND quận với công nhân lao
động trên địa bàn. Trong buổi đối thoại, hầu hết công nhân đều thắc mắc xung quanh chế
độ lương, thưởng, nghỉ lễ, bảo hiểm xã hội Đây là những vấn đề đã được qui định rõ
trong Luật lao động. Ông Sơn đề nghị: để bảo vệ quyền lợi cho chính mình, người lao
động phải trang bị thêm kiến thức về luật. Song song đó, doanh nghiệp phải trang bị,
kiểm tra kiến thức cơ bản về luật cho người lao động.
1.1.2. Tổ chức đại diện cho người lao động
1.1.2.1. Khái niệm
Vì không sở hữu tư liệu sản xuất cùng với sức ép về việc làm,NLĐ thường có vị thế
yếu hơn so với người SDLĐ. Do vậy, nếu chỉ dựa vào cá nhân người lao động khó có thể
bảo vệ quyền và lợi ích cảu mình. Đoàn kết, tập hợp nhau lại, tạo sức mạnh đấu tranh với
NSDLĐ để bảo vệ quyền và lợi ích của mình là một sự lựa chọn mang tính lịch sử gắn

liền với sự ra đời của tổ chức đại diẹn cho NLĐ là tổ chức công đoàn, nghiệp đoàn(gọi
chung là công đoàn)
Công đoàn là tổ chức chính trị- xã hội của NLĐ, do NLĐ tự nguyện thành lập và bầu
ra ban lãnh đạo bằng cách bỏ phiếu trực tiếp và dân chủ. Công đoàn là tổ chức đại diện
cho NLĐ tham gia các quan hệ phát sinh trong lao động với tư cách bảo vệ quyền lợi cho
NLĐ, đảm bảo cho QHLĐ được công bằng, hài hòa.
1.1.2.2. Vai trò
Trong kinh tế thị trường, hai bên QHLĐ là hai chủ thể có lợi ích độc lập với nhau, sự
mâu thuẫn về lợi ích giữa họ được bộc lộ khá rõ nét. Do vậy, vai trò chủ yếu của công
đoàn là:
 Bảo vệ lợi ích của các đoàn viên công đoàn- đây là vai trò quan trọng nhất. Vai trò
này xuất phát từ nguồn gốc ra đời của công đoàn
 Góp phần lành mạnh hóa QHLĐ. Tại doanh nghiệp, công đoàn đấu tranh thương
lượng với NSDLĐ trong việc đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động, chia sẻ lợi
ích và trách nhiệm, giải quyết tranh chấp… qua đó thúc đẩy sự hợp tác và điều chỉnh
hành vi của các bên nhằm đạt được mục tiêu chung, giảm thiều, ngăn ngừa TCLĐ
 Thực hiện vai trò hỗ trợ các dịch vụ kỹ thuật cho các công đoàn viên và các tổ
chức thành viên của công đoàn. Công đoàn có thể tổ chức các hoạt động nhằm đào tạo
nghề, rèn luyện kỹ năng cho các công đoàn viên; hỗ trợ, tư vấn thông tin, dịch vụ việc
làm
Vị trí của công đoàn đang ngày càng được nâng cao bởi công đoàn tham gia vào các
cuộc thương lượng hai bên, giải quyết các TCLĐ với vai trò đại diện NLĐ. Ngoài chức
năng đại diện cho người lao động, công đoàn còn là tổ chức trực tiếp tham gia giải quyết
những tranh chấp khi lợi ích giữa NLĐ và NSDLĐ nảy sinh.
1.1.2.3. Chức năng
Thực hiện các hoạt động bảo vệ lợi ích của người lao động
Giáo dục, vận động, tuyên truyền: Công đoàn tuyên truyền chính sách,pháp luật,
thông tin cho người lao đọng về những quyền, lợi ích chính đáng của họ để phòng ngừa
và đấu tranh chống lại các vi phạm về quyền và lợi ích từ phía NSDLĐ. Ngoài ra, để bảo
vệ lợi ích cho NLĐ, công đoàn tập hợp, vận động và giáo dục họ tiến hành các cuộc đấu

tranh đòi quyền lợi và bảo vệ những quyền lợi bị xâm phạm
Chức năng đại diện: Trong cuộc đáu tranh, thương lượng, công đoàn đại diện cho
người lao động thể hiện ý chí, nguyện vọng, quan điểm của họ, nhằm đạt được những
thỏa thuận hay quy định có lợi nhất từ phía NSDLĐ cho NLĐ
Chức năng điều tiết: Trong chừng mực và các trường hợp nhất định, công đoàn có
vai trò điều tiết thị truờng lao động.
1.1.2.4. Thực tế ở Việt Nam
a. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
* Vai trò của Công đoàn Việt Nam.
Khi chưa giành được chính quyền,công đoàn có vai trò là trường học đấu tranh giai
cấp, Công đoàn vận động, tổ chức công nhân, lao động đấu tranh chống lại giai cấp tư
sản, bảo vệ quyền, lợi của công nhân, lao động. Cuộc đấu tranh của Công đoàn ngày càng
phát triển, từ đấu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị với mục đích lật đổ giai cấp thống
trị xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xă
hội chủ nghĩa, vai trò của Công đoàn Việt nam ngày càng khẳng định.
Hiến pháp nước Công hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) chương I. Điều 10 đă
ghi rõ: “Công đoàn là tổ chức chính trị - xă hội của giai cấp công nhân và của người lao
động. Cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xă hội chăm lo bảo vệ quyền
lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động khác, tham gia quản lý Nhà nước
và xă hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế,
giáo dục công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”.
Luật Công đoàn đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua (tại kỳ họp thứ 7 khoá VIII ngày 30/6/1990) đã khẳng định: “Công đoàn là tổ chức
chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam tự nguyện
lập ra dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là thành viên trong hệ thống chính
trị của xă hội Việt Nam, là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động”.
Vai trò của Công đoàn Việt Nam ngày nay càng được mở rộng trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Sự mở rộng vai trò Công đoàn là phù hợp với tính tất

yếu, khách quan, tính qui luật vận động và phát triển của tổ chức Công đoàn, nó phù hợp
với qui luật chung của quá tŕnh xây dựng chủ nghĩa xã hội.Thực tế, trong chặng đường
lịch sử của đất nước những năm qua, Công đoàn Việt Nam đã trưởng thành nhanh chóng,
thể hiện rõ vai trò của ḿnh đối với xã hội, Công đoàn đã thu hút, vận động giáo dục, tổ
chức công nhân, viên chức và lao động tham gia tích cực vào công cuộc cách mạng.
Trong các lĩnh vực của đời sống xă hội (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và tư tưởng),
Công đoàn đã tỏ rõ sự tham gia tích cực, tác động mạnh mẽ của mình thông qua hệ thống
tổ chức từ trung ương đến địa phương, ngành, cơ sở, thông qua lực lượng công đoàn viên,
công nhân, viên chức và lao động đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Vai trò của Công đoàn Việt Nam thể hiện trong các lĩnh vực:
* Trong lĩnh vực chính trị:
Công đoàn có vai trò to lớn trong việc góp phần xây dựng và nâng cao hiệu quả của
hệ thống chính trị - xă hội xã hội chủ nghĩa. Tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng
và nhân dân, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực thi pháp luật và để Nhà nước thực sự là
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Để đảm bảo sự ổn định về chính trị.
* Trong lĩnh vực kinh tế: Công đoàn tham gia xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lý
kinh tế nhằm xoá bỏ quan liêu, bao cấp, củng cố nguyên tắc tập trung trên cơ sở mở rộng
dân chủ. Góp phần củng cố những thành tựu kinh tế văn hoá và khoa học kỹ thuật đã đạt
được trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng
cao hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có lợi cho quốc kế dân
sinh. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từng bước đưa kinh tế tri thức
vào Việt Nam, góp phần nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới. Đặc biệt, trong
điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa, việc đẩy mạnh hoạt
động của các thành phần kinh tế vẫn đảm bảo cho kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt,
đóng vai trò chủ đạo.
* Trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng: Trong nền kinh tế nhiều thành phần Công
đoàn phát huy vai trò của mình trong việc giáo dục công nhân, viên chức và lao động

nâng cao lập trường giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động, phát huy những giá trị cao đẹp,
truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu những thành tựu tiên tiến của văn minh nhân
loại góp phần xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
* Trong lĩnh vực xã hội: Công đoàn có vai trò trong tham gia xây dựng giai cấp
công nhân vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, không ngừng nâng cao tŕnh độ giác
ngộ chính trị, tính tổ chức kỷ luật, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, thực sự là lực
lượng nòng cốt của khối liên minh công - nông - trí thức, làm nền tảng của khối đại đoàn
kết toàn dân, là cơ sở vững chắc đảm bảo vai trò lănh đạo của Đảng và tăng cường sức
mạnh của Nhà nước.
* Chức năng nhiệm vụ của Công đoàn Việt Nam
Công đoàn Việt Nam có tính chất quần chúng và tính chất giai cấp của giai cấp công
nhân và có 3 chức năng sau:
– Chức năng thứ nhất, đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của CNVC-LĐ.Một trong những chức năng của Công đoàn Việt Nam hiện nay là bảo vệ
lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, viên chức và lao động.
Công đoàn Việt Nam phải thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích công nhân lao
động vì : trình độ và kinh nghiệm quản lý của chính quyền các cấp còn non kém, bộ máy
Nhà nước còn quan liêu, hành chính dẫn đến một số người, một số bộ phận thờ ơ trước
quyền lợi của công nhân, viên chức và lao động, tình trạng tham ô, lãng phí, móc ngoặc,
hối lộ, tham nhũng, vi phạm đến lợi ích, đời sống người lao động vẫn còn tồn tại không
thể ngay một lúc xoá bỏ hết được. Vì vậy, Công đoàn phải là người bảo vệ lợi ích công
nhân, viên chức và lao động chống lại tệ nạn quan liêu, chống lại các biểu hiện tiêu cực.
Đó là sự bảo vệ đặc biệt khác hẳn với sự bảo vệ trong chủ nghĩa tư bản.
Công đoàn Việt Nam thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích người lao động
không bằng cách đấu tranh chống lại Nhà nước làm suy yếu Nhà nước, không mang tính
đối kháng giai cấp, không phải là đấu tranh giai cấp. Ngược lại Công đoàn còn vận động,
tổ chức cho công nhân viên chức lao động tham gia xây dựng Nhà nước trong sạch vững
mạnh. Đồng thời Công đoàn cũng bảo vệ chính lợi ích của Nhà nước - Nhà nước của dân,
do dân, vì dân. Đấu tranh chống lại các thói hư tật xấu của một số người, nhóm người lạc

hậu bị tha hoá, đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, bảo vệ
chính quyền Nhà nước.
Thực tế hiện nay của nước ta, trong điều kiện hàng hoá nhiều thành phần, các xí
nghiệp tư nhân, liên doanh, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công nhân, lao động làm
việc trong sự quản lý của chủ xí nghiệp (không phải xí nghiệp quốc doanh), đã xuất hiện
quan hệ chủ thợ, tình trạng vi phạm dến quyền, lợi ích công nhân lao động có xu hướng
phát triển. Vì vậy, chức năng bảo vệ lợi ích công nhân, viên chức và lao động của Công
đoàn có ý nghĩa hết sức quan trọng.
- Chức năng thứ hai, tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xă hội, tham gia
kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế.
Trong điều kiện giai cấp công nhân giành được chính quyền người lao động trở thành
người chủ, họ có quyền và có trách nhiệm tham gia quản lý kinh tế, xã hội. Vì vậy, vấn
đề tham gia quản lý đã trở thành chức năng của Công đoàn. Tuy nhiên cần nhận thức
rằng, Công đoàn tham gia quản lý chứ không làm thay, không cản trở, không can thiệp
thô bạo vào công việc quản lý của Nhà nước. Công đoàn tham gia quản lý thực chất là để
thực hiện quyền của Công đoàn, quyền của công nhân, viên chức, lao động, và để bảo vệ
đầy đủ các quyền lợi ích của người lao động.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
khi thực hiện chức năng tham gia quản lý Công đoàn Việt Nam quan tâm đến việc phát
triển tiềm năng lao động, phát huy sáng kiến, cùng giám đốc, thủ trưởng đơn vị tìm
nguồn vốn, thị trường để mở rộng sản xuất - kinh doanh, giải quyết việc làm cho người
lao động. Kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, chống quan liêu tham nhũng.
Những nội dung Công đoàn Việt Nam tham gia quản lý:
* Tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi trong công nhân, viên chức và lao động là
biện pháp tổng hợp để họ trực tiếp tham gia quản lư.
* Tham gia xây dựng chiến lược tạo việc làm và điều kiện làm việc cho công nhân
lao động.
* Tham gia xây dựng, hoàn thiện các chế độ, chính sách liên quan trực tiếp đến người
lao động như; tiền lương, tiền thưởng, nhà ở…
* Tham gia giải quyết khiếu nại tố cáo của công nhân, viên chức và LĐ.

* Tham gia xây dựng, hoàn thiện các chính sách xă hội: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, phong trào đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ xã hội.
* Vận động và tổ chức tốt Đại hội công nhân viên chức, Hội nghị cán bộ công chức
(đơn vị hành chính sự nghiệp) ở đơn vị.
* Công đoàn tham gia vào việc hoạch định chiến lược sản xuất, kinh doanh và đầu tư,
đồng thời kiểm tra, giám sát các công việc đã được hoạch định.
* Tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách liên quan đến quyền, lợi và nghĩa
vụ của người lao động. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách của đơn vị.
Chức năng thứ ba, giáo dục, động viên CNVCLĐ phát huy quyền làm chủ đất nước,
thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.Chức năng giáo dục của Công
đoàn Việt Nam ngày càng mở rộng và phát triển thông qua hoạt động thực tiễn trong lao
động sản xuất và tham gia các phong trào thi đua…góp phần cho công nhân, viên chức và
lao động nhận thức và hiểu được lợi ích của họ gắn với lợi ích tập thể, lợi ích của xã hội.
Muốn có lợi ích và muốn lợi ích của mình được bảo vệ trước hết, phải thực hiện tốt nghĩa
vụ lao động, nghĩa vụ của người công dân đối với cơ quan, xí nghiệp và xã hội. Trên cơ
sở đó xây dựng ý thức lao động mới, lao động có kỷ luật và có tác phong công nghiệp.
Nâng cao tinh thần tự giác học tập văn hoá, chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, rèn luyện
tay nghề để đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Công đoàn tuyên truyền, giáo dục cho công nhân, viên chức và lao động vững tin
vào đường lối xây dựng chủ nghĩa xă hội, phát triển kinh tế - xă hội mà Đảng ta đã lựa
chọn. Giáo dục truyền thống cách mạng của dân tộc, của địa phương (nhất là đối với
công nhân lao động trẻ).
+ Tuyên truyền chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giáo dục nâng cao đạo đức nghề
nghiệp, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, xây dựng lối sống văn hoá lành mạnh,
sống và làm việc theo pháp luật góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh. Với
tinh thần thường xuyên cảnh giác và đấu tranh chống lại những âm mưu thù địch.
Chức năng của Công đoàn là một chính thể, một hệ thống đồng bộ, trong đó chức
năng bảo vệ lợi ích hết sức được coi trọng, mang ý nghĩa trung tâm, là mục tiêu hoạt
động của Công đoàn Việt Nam; chức năng tham gia quản lý mang ý nghĩa phương tiện;
chức năng giáo dục mang ý nghĩa tạo động lực tinh thần để đạt được mục tiêu.

Do vậy, Công đoàn Việt Nam đồng thời quan tâm tới cả 3 chức năng không coi
nhẹ chức năng này, xem nặng chức năng kia.
b. Vai trò của công đoàn trong tập đoàn dầu khí Việt Nam
*Công đoàn trong việc phát triển, bảo vệ quyền và lợi ích cho lao động nữ
Ngày 14/9, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ (VSTBPN) phối hợp với Ban Nữ công Công
đoàn Dầu khí đã tổ chức Hội nghị triển khai chương trình hành động Vì sự tiến bộ phụ nữ
giai đoạn 2012-2015 và tập huấn nữ công Công đoàn 2012.
Tham dự hội nghị có bà Nguyễn Thị Thu Hồng – Phó chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam, Chủ tịch Công đoàn viên chức Việt Nam. Về phía Tập đoàn Dầu khí, có
ông Lê Minh Hồng – Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN);
ông Hà Duy Dĩnh – Chủ tịch Công đoàn Dầu khí; bà Nghiêm Thùy Lan – Phó chủ tịch
Công đoàn Dầu khí, phụ trách Ban Nữ công… cùng các đồng chí trong ban VSTBPN
Tập đoàn, trưởng phó các ban VSTBPN các đơn vị trong Tập đoàn.
Phát biểu tại Hội nghị, Phó Tổng giám đốc PVN, Trưởng ban VSTBPN Lê Minh
Hồng cho biết Tập đoàn đã hoàn thành chương trình hành động VSTBPN giai đoạn 2012-
2015 với mục tiêu tổng quát: Phấn đấu bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ công
nhân viên chức lao động (CNVCLĐ) về cơ hội, nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, nâng cao hơn nữa vị thế, vai trò và đời sống
vật chất, tinh thần của đội ngũ nữ CNVC, đáp ứng được yêu cầu của chiến lược tăng tốc
phát triển của Tập đoàn, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trên cơ sở đó, Tập đoàn sẽ có các kế hoạch nhằm thực hiên các mục tiêu cụ thể: Một
là: tăng cường sự tham gia của nữ CNVCLĐ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng
bước giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị; Hai là: nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực nữ, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ và kỹ
năng nghề nghiệp cho nữ CNVCLĐ; Ba là: đảm bảo bình bẳng giới trong lĩnh vực chăm
sóc sức khỏe và tuyên truyền, giáo dục; Bốn là: nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động
của các Ban vì sự tiến bộ phụ nữ.
Trả lời những ý kiến đề xuất của các đại biểu đại diện cho các đơn vị tham dự Hội
nghị, Trưởng ban VSTBPN Lê Minh Hồng cho biết hàng năm sẽ triển khai kiểm tra
chương trình hoạt động; quan tâm đúng đối tượng cần quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất

cho chị em có điều kiện đến những trung tâm khám chữa bệnh ở cơ sở Trưởng ban
VSTBPN Lê Minh Hồng đã khẳng định quyết tâm sau hội nghị sẽ có những hành động
thiết thực nhất để tiến hành chương trình hoạt động VSTBPN, không nói suông, không
nói nhiều, phải hành động thực tế và sau đó các đơn vị sẽ nhận được văn bản triển khai
ngay chương trình.
Hội nghị cũng trở nên sôi nổi hơn khi nghe TS Tâm lý Nguyễn Thị Hiền, nguyên
là cán bộ Viện Quản lý Giáo dục Việt Nam chia sẻ về chuyên đề Lồng ghép giới trong
hoạch định chính sách và hoạt động công đoàn; kỹ năng tuyên truyền chính sách, pháp
luật đối với nữ CNVCLĐ; và sau đó là thảo luận, giải đáp các ý kiến của đại biểu về một
số vấn đề công tác nữ công.
Hội nghị cũng nghe Ths Nguyễn Thị Thanh Hồng – Phó ban Nữ công Tổng Liên
đoàn Lao động VN giới thiệu về Bộ Luật lao động đã được Quốc hội lần thứ XIII thông
qua (những nội dung liên quan đến nữ CNVC – LĐ).
Phát biểu bế mạc hội nghị, bà Nghiêm Thùy Lan – Phó chủ tịch Công đoàn Dầu
khí VN vui mừng vì hội nghị đã thành công tốt đẹp. Đây là hội nghị đầu tiên, quan trọng,
có ý nghĩa về bất bình đẳng giới, nhằm triển khai chương trình hoạt động VSTBPN.
Hội nghị đã được nghe những ý kiến tâm huyết, thẳng thắn của Trưởng ban
VSTBPN Lê Minh Hồng, những kiến thức, khoa học, bài học sinh động, phong phú về
giới tính của TS Nguyễn Thị Hiền nhằm nâng cao nhận thức giới và bình đẳng giới,
chuyển biến thành hành động và chương trình hoạt động.
Bà Nghiêm Thùy Lan cũng cho biết sắp tới sẽ có nhiều chương trình hướng tới các
hội nghị cao cấp, mà gần nhất là hội nghị nhân ngày 20/10, về nguồn ; động viên các chị
em không ngừng học tập, nâng cao trình độ, khắc phục các hạn chế về giới; nâng cao hơn
nữa vị thế vai trò của chị em phụ nữ Dầu khí, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Tập đoàn
trong giai đoạn hiện nay.
*Vai trò của công đoàn đối với xã hội:
Thấu hiểu với hoàn cảnh của người dân Thanh Hóa ; với tinh thần “tương thân tương
ái”, “ lá lành đùm lá rách” quý báu của người Việt Nam, và nhất là ở Tổng Công ty
PTSC, một đơn vị luôn có truyền thống đi đầu trong việc thực hiện công tác ASXH và
chia sẻ cộng đồng. Lãnh đạo Tổng Công ty và Công đoàn Tổng Công ty PTSC đã phát

động chương trình quyên góp, kêu gọi CBCNV Tổng Công ty PTSC cùng chung tay góp
sức ủng hộ bà con nông dân tại các địa phương trên.
Hưởng ứng lời kêu gọi trên, toàn thể người Lao động PTSC đã chung tay, chung lòng
ủng hộ, chia sẻ khó khăn với nhân dân Thanh Hóa; ban lãnh đạo Tổng Công đã cử đoàn
công tác gồm đại diện lãnh đạo Tổng Công ty; đại diện Công đoàn Tổng Công ty PTSC
phối hợp cùng với các đơn vị như PTSC Thanh Hóa; Công ty Cảng Dịch vụ Dầu khí
PTSC, đã đến các xã Quảng Phú, Xuân Châu, Thọ Lập thăm hỏi và trao tặng tổng số tiền
500.000.000 đồng do CBCNV Tổng Công ty PTSC đóng góp, động viên bà con nông dân
nhanh chóng khắc phục thiệt hại, ổn định lại cuộc sống và tái sản xuất, góp phần ổn định
xã hội và đời sống của người dân tại địa phương.
1.2. Người sử dụng lao động và tổ chức đại diện cho NSDLĐ
1.2.1. Người sử dụng lao động
1.2.1.1. Khái niệm
Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan tổ chức hoặc cá nhân ( ít nhất phải
đủ 18 tuổi ) có thuê mướn, sử dụng và trả công lao động
( Theo Điều 6 –Bộ luật Lao động năm 1994 )
1.2.1.2. Vai trò của người sử dụng lao động trong quan hệ lao động
Người sử dụng lao động là 1 chủ thể quan trọng trong QHLĐ, là người gián tiếp
tham gia vào hoạt động sản xuất nhưng lại là chủ thể giữ vai trò then chốt trong quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Do người sử dụng lao động có quyền tuyển chọn, bố trí, điều hành lao động theo nhu
cầu sản xuất – kinh doanh ( theo Điều 8 – Bộ luật Lao động năm 1994 ) nên mọi hành vi,
cách đối xử của người sử dụng lao động với một chủ thể khác là người lao động sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới sức lực, trí tuệ, tinh thần của người lao động- nhân tố quyết định hiệu
quả thực hiện công việc, tạo ra những gía trị, của cải xã hội góp phần quan trọng vào sự
phát triển bền vững trong tương lai.
Cùng với người lao động và Công Đoàn, người sử dụng lao động lập nên HĐLĐ cá
nhân và TƯLĐTT nên họ cũng có vai trò quan trọng trong việc góp phần ngăn ngừa, giải
quyết các xung đột, mâu thuẫn trong QHLĐ, góp phần tạo ra sự phát triển cho doanh
nghiệp nói riêng và sự phát triển của toàn bộ nền KTQD nói chung.

1.2.1.3. Thực tế ở Việt Nam
Hội thảo xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa và đơn giản hóa thủ tục hành chính
trong XNK do Cục Kiểm soát Thủ tục Hành chính, Hiệp hội Da Giầy Việt Nam, Hiệp hội
Dệt May Việt Nam và Hiệp hội Chế biến và XK Thủy sản Việt Nam tổ chức tại TP Hồ
Chí Minh ngày 20/7/2012, với sự tham gia của 100 DN thuộc 3 hiệp hội ngành hàng, các
nhãn hàng nước ngoài và các cơ quan báo chí đã đưa ra vấn đề mà chủ các doanh nghiệp
( người sử dụng lao động ) đang rất quan tâm “Quyền lợi của người sử dụng lao động ở
đâu?”
• Trong bối cảnh thị trường khó khăn, DN tồn tại và phát triển được là rất khó, chưa
nói đến cạnh tranh với nước ngoài nhưng một trong những khó khăn lớn nhất của DN
chính là các thủ tục hành chính ngày càng phức tạp. Mặc dù các quan chức chính phủ đã
nói sẽ tháo gỡ khó khăn cho DN nhưng tiếp cận của cơ quan quản lý nhà nước với kiến
nghị của DN về thủ tục hành chính còn quá chậm, quá trì trệ
Trên thực tế, tuy đề án 30 về cải cách thủ tục hành chính đã được thực hiện nhiều
năm nhưng kết quả đạt được chưa đáp ứng nhu cầu của DN về đơn giản hóa thủ tục hành
chính. Những phản ánh của DN mang tính tích cực và có nhiều phản ánh cho thấy sự
phức tạp, rắc rối hơn, như hải quan điện tử vẫn phải in giấy tờ, tỷ lệ hao hụt gia công
không được chấp nhận. Các vấn đề về tàu bè vận chuyển, thanh khoản hải quan, kho
ngoại quan, ân hạn thuế 275 ngày… còn nhiều bất cập (Theo bà Đặng Phương Dung –
Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam )
Liên quan đến thủ tục hành chính gây khó cho DN, bà Nguyễn Thu Sương – Phòng
XNK Công ty Thủy sản Gió Mới đề cập đến vấn đề hàng thủy sản bị trả về. Năm ngoái,
DN này gặp rất nhiều trục trặc liên quan đến kháng sinh mà nguyên nhân là từ khâu nuôi,
dẫn đến hàng bị trả về. Về nguyên tắc, lô hàng trả về không phải nộp thuế, nhưng khi
nhận hàng về, cơ quan hải quan bắt nộp thuế ngay, sau đó chờ làm thủ tục hoàn thuế, như
vậy tiền nộp thuế quá cao vì lô hàng thủy sản thường có giá trị lớn.
• Về mối quan hệ hài hòa giữa người lao động và người sử dụng lao động, nhiều
DN cho rằng nhà nước mới chỉ quan tâm đến một vế là người lao động mà chưa coi trọng
lợi ích của người sử dụng lao động; vai trò của công đoàn trong mối quan hệ này còn
kém.

• Đối với vấn đề tăng lương cho công nhân là tốt nhưng nhà nước cần có trước lộ
trình để DN có đủ thời gian chuẩn bị và cân đối tài chính. Tăng lương nên cân nhắc các
yếu tố: đảm bảo mức sống cho người lao động, tính toán sức chịu đựng của. Về lương tối
thiểu, đại diện Công ty Da Giầy Trường Lợi đề nghị nên áp dụng cùng thời gian cho cả
hai khối hành chính và khối DN để tránh tình trạng công nhân đòi tăng lương 2 lần, gây
khó khăn và mất thời gian cho DN. Trong giai đoạn khó khăn như hiện nay, tiền lương
tăng càng làm cho phí công đoàn tăng, giảm lợi nhuận và sức cạnh tranh của DN. Ngoài
ra, Hội thảo cũng đề nghị Bộ Lao động Thương binh và Xã hội nghiên cứu biện pháp
kiểm soát bảo hiểm thất nghiệp, vì từ khi có bảo hiểm thất nghiệp, người lao động thường
xuyên thay đổi việc làm, dẫn đến mất ổn định nguồn lao động cho DN.
• Tình trạng đình công, lãn công diễn ra nhiều, công nhân đua nhau đình công nêu
yêu sách nhưng cho đến nay không có một phán quyết nào của tòa án về đình công trái
luật nên người sử dụng lao động vẫn phải trả lương cho những ngày công nhân nghỉ đình
công trái luật. Nhiều ý kiến đề cập đến phí công đoàn từ khoản trích 2% quỹ lương, mặc
dù đã được Quốc hội thông qua, nhưng đến nay chưa có quy định về tỷ lệ trích lại cho
công đoàn cơ sở chăm lo trực tiếp cho công nhân. Bên cạnh đó, quy định tỷ lệ trích quỹ
lương cho công đoàn với DN nước ngoài hiện nay là 1%, trong khi với DN trong nước là
2% là bất bình đẳng.
Sau khi Hội nghị trên được diễn ra, các ý kiến đã được đưa lên các cơ quan có thẩm
quyền để xem xét và giải quyết. Kết quả là khá khả quan :
- Hiện nay, Cục Giám sát Quản lý Tổng cục Hải quan đang thực hiện dự án hải quan
một cửa do Nhật Bản hỗ trợ, đến năm 2014 chắc chắn thủ tục hải quan Việt Nam sẽ
giống Nhật Bản. Về thực hiện hải quan điện tử hiện nhiều DN chưa được tham gia, mới
có 22/33 cục hải quan triển khai hải quan điện tử, đến năm 2013 sẽ thực hiện hết.
- Và từ ngày 1/5/2013 Bộ luật Lao động mới sẽ tạo ra nhiều sự linh hoạt cho DN và
trao quyền cho DN về vấn đề lao động. Đề nghị DN chủ động nghiên cứu Bộ luật Lao
động này để có lộ trình trong quản trị DN. Về vấn đề tăng lương, nhà nước sẽ có lộ trình
tăng lương và thông báo cho DN, hỏi ý kiến DN trước khi tăng lương…
1.2.2. Tổ chức đại diện cho người sử dụng lao động
1.2.2.1. Khái niệm

Theo cách hiểu chung nhất, tổ chức đại diện người sử dụng lao động là thiết chế
được lập ra với chức năng, nhiệm vụ đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng lao động trong quan hệ lao động. Việc xác lập các tổ chức đại diện người
sử dụng lao động đề dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tự do liên kết.
1.2.2.2. Vai trò
Vai trò bảo vệ của tổ chức đại diện người sử dụng lao động:
Bảo vệ các thành viên là những người sử dụng lao động là một trong những yêu cầu
quan trọng hàng đầu của tổ chức đại diện người sử dụng lao động. Vai trò bảo vệ của tổ
chức đại diện người sử dụng lao động được thể hiện trong các quy định của luật lao động
được thể hiện ở hai phương diện cơ bản:
- Một là: thực hiện các hoạt động bảo vệ thông qua việc tham gia hoạch định chính
sách, pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động của các thành
viên là người sử dụng lao động. Đây chính là biện pháp “bảo vệ từ xa”, hay còn gọi là
biện pháp “phòng bị” có tính chiến lược và lâu dài.
- Hai là: thực hiện các hoạt động bảo vệ trực tiếp, trực diện. Các hoạt động này chủ
yếu được tiến hành khi có yêu cầu hoặc tổ chức đại diện người sử dụng lao động cho là
cần thiết hoặc theo quy tắc nội bộ, theo các quy định của pháp luật, đó là chức năng,
nhiệm vụ, trách nhiệm của nó. Ví dụ như việc bảo vệ người sử dụng lao động thành viên
trong một vụ tranh chấp lao động.
Vai trò liên kết của tổ chức đại diện người sử dụng lao động:
Sự liên kết chính là một trong những nhu cầu của những người sử dụng lao động. Từ
sự liên kết đó, người sử dụng lao động sẽ có thêm sức mạnh thông qua sự tập hợp số
lượng, trí tuệ và các yếu tố khác.
Sự liên kết của tổ chức đại diện người sử dụng lao động được thực hiện ở cả hai
phương diện cơ bản:
- Một là, thực hiện sự liên kết bên trong. Sự liên kết này được tiến hành và duy trì,
phát triển giữa các thành viên sử dụng lao động. Kiểu liên kết này tạo nên nội lực và bản
sắc riêng của tổ chức đại diện người sử dụng lao động.
Theo quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế, việc liên kết phải bảo đảm nguyên
tắc tự do, tự nguyện trong việc thể hiện quan điểm, chính kiến. Tổ chức đại diện người sử

dụng lao động có quyền tự tổ chức, tập hợp, bảo vệ các tài sản của tổ chức. Quyền tự do
liên kết có cội nguồn từ quyền tự do và an toàn của con người. Vì vậy, tất cả sự độc đoán,
khống chế hoặc xâm hại với mục đích hạn chế quyền tự do liên kết cần phải được loại bỏ.
Nhà nước cần đưa quyền tự do liên kết vào trong pháp luật để mọi người tôn trọng và
thực thi.
- Hai là: sự liên kết bên ngoài. Đó là việc tổ chức đại diện người sử dụng lao động
liên kết với các chủ thể khác, đặc biệt là các đối tác xã hội gần gũi trong lĩnh vực lao
động như Chính phủ và Công đoàn – tổ chức đại diện của người lao động. Sự liên kết bên
ngoài tạo cho tổ chức đại diện của người sử dụng lao động những cơ hội tiếp cận các
nguồn lực cũng như cơ hội giải quyết các vấn đề trước mắt và lâu dài liên quan đến sự
tồn tại và phát triển của toàn bộ tổ chức cũng như của thành viên của nó. Sự liên kết này
cũng phải dựa trên những nguyên tắc tự do, tự nguyện, nhưng lại đòi hỏi tính hiệu quả và
với những hình thức khác nhau.
Ngoài ra Tổ chức đại diện người sử dụng lao động còn có vai trò :
+là đại diện cho một bên của quan hệ lao động. Tư cách đại diện đó tạo ra cho chính
bản thân các tổ chức đại diện người sử dụng lao động những quyền năng to lớn nhằm
thống nhất quan điểm đối với vấn đề sử dụng lao động.
+Tổ chức đại diện người sử dụng lao động là “cầu nối” giữa người lao động và người
sử dụng lao động trong các quan hệ cụ thể và trong cơ chế hai bên, cơ chế ba bên nhằm
hướng tới việc tăng cường đối thoại xã hội và cùng quyết định các vấn đề của lao động.
+Là chủ thể trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các hành vi cần thiết và hợp pháp để
bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên của mình và bảo vệ tính nghiêm
minh của pháp luật lao động.
+ Là nhân tố thúc đẩy cạnh tranh và hợp tác trong lao động và trong quá trình sản
xuất xã hội cũng như quá trình hợp tác quc tế về lao động.
1.2.2.3. Thực tế ở Việt Nam
Thực trạng:
Ở Việt Nam, hiện chỉ có Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (VCA) là hai tổ chức đại diện cho NSDLĐ được Chính
phủ công nhận.

Thế nhưng, theo các đại biểu, trong thời gian qua, vai trò đại diện của hai chủ thể này
còn hết sức mờ nhạt, đặc biệt là khi xảy ra tranh chấp lao động. Nhiều ý kiến cho rằng
VCCI không thể đại diện cho bên NSDLĐ được vì tổ chức này cũng do Nhà nước hình
thành nên không có tính độc lập.
Trong khi đó, các hiệp hội khác cũng chỉ mang tính đại diện cho các nhóm ngành
nghề chứ không đại diện cho bên NSDLĐ khi Chính phủ cần tham vấn, đàm phán. Điều
đó dẫn đến cơ chế đàm phán 3 bên giữa Chính phủ, người lao động, NSDLĐ chưa thực
sự có tiếng nói đại diện cho bên NSDLĐ. Đại diện VCCI cũng thừa nhận có sự chồng
chéo chức năng giữa các tổ chức đại diện NSDLĐ.
Nhiều ý kiến góp ý tổ chức này cần phối hợp chặt chẽ với CĐ trong việc cung cấp
cho doanh nghiệp (DN) các quy định liên quan đến chính sách lao động; các thông tin
liên quan đến DN và chia sẻ kinh nghiệm trong quản lý nhân sự và quan hệ trong cộng
đồng DN.
Bên cạnh đó, tổ chức tuyên truyền, vận động NSDLĐ thực hiện nghiêm chỉnh pháp
luật lao động, nâng cao trách nhiệm xã hội, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, bền vững
trong DN.
Giải pháp:
- Một là: cần đổi mới nhận thức về tổ chức đại diện người sử dụng lao động và vai
trò của nó trong lĩnh vực lao động và trong đời sống xã hội.
Như đã trình bày, từ trước đến nay, quan niệm về người sử dụng lao động và tổ chức
của họ còn có những biểu hiện coi nhẹ, thậm chí có tư tưởng bài xích, phân biệt vì quan
niệm coi người sử dụng lao động là những người bóc lột lao động. Ngày nay, cùng với
quan niệm hiện đại về vai trò của hai bên trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động
được coi là một đối tác quan trọng của đại diện người lao động. Vì vậy, không thể giữ
quan điểm hạn chế hoặc có hành vi cấm đoán hoặc làm biến tướng hình ảnh của tổ chức
đại diện người sử dụng lao động.
- Hai là: cần phải xây dựng thể chế pháp lý về tổ chức hoạt động của tổ chức đại diện
người sử dụng lao động. Theo tinh thần đó, phải có quy định về tổ chức đại diện người sử
dụng lao động trong Bộ luật Lao động. Và trong trường hợp đó, chỉ duy nhất Quốc hội
mới có thẩm quyền xác định tổ chức đại diện của người sử dụng lao động. Cần bãi bỏ

việc Chính phủ ban hành văn bản pháp luật “chỉ định” tổ chức đại diện người sử dụng lao
động như tình trạng hiện nay. Các tổ chức của người sử dụng lao động sẽ là hợp pháp, có
vị trí, có tư cách nếu được thành lập hợp pháp theo các quy định của Bộ luật Lao động và
các luật liên quan, chứ không phải là cơ cấu được “chỉ định” bởi Chính phủ. Chính phủ
có thể ra văn bản phê chuẩn /công nhận tư cách theo luật của tổ chức đại diện người sử
dụng lao động trên cơ sở công nhận điều lệ của tổ chức người sử dụng lao động.
Bên cạnh đó, cần xây dựng quy chế chung về mối quan hệ ba bên và thể thức hành
động trong mối quan hệ giữa tổ chức đại diện người sử dụng lao động – tổ chức công
đoàn – nhà nước nhằm khẳng định tư cách, vị trí, vai trò của các bên trong tổng thể các
vấn đề lao động.
- Ba là: bản thân tổ chức đại diện người sử dụng lao động cần tự đổi mới về phương
thức tổ chức, hoạt động. Cần có sự chủ động trong các hoạt động thay vì trông chờ vào
sự “hướng dẫn” hoặc “chỉ định” của nhà nước, đặc biệt lệ thuộc vào Chính phủ. ở nước
ta, đôi khi người ta hình dung Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Liên
minh Hợp tác xã Việt Nam như là các tổ chức dưới quyền của Chính phủ chứ không phải
là tổ chức xã hội độc lập hoạt động trong khuôn khổ luật pháp. Điều này một phần có
nguyên nhân từ phía cơ chế pháp luật về các tổ chức xã hội.
Một trong những vấn đề nữa cần chú trọng là: tổ chức của người sử dụng lao động
cần có biện pháp phát triển thành viên, xây dựng quy chế hoạt động, tham gia mạnh vào
các hoạt động trong nước, khu vực và quốc tế để nâng cao vị thế và tăng cường sự hợp
tác cũng như hiệu quả hoạt động trên cơ sở các mối quan hệ trợ giúp kỹ thuật, trao đổi
thông tin, kinh nghiệm…
- Bốn là: Đại diện người sử dụng lao động cần phải là một cơ cấu thống nhất, tối
thiểu là một bộ máy thực hiện quyền đại diện do những người sử dụng lao động trong cả
nước, được bầu ra theo thể thức bỏ phiếu công nhận. Khi là một cơ cấu thống nhất,
những người đại diện của người sử dụng lao động mới hành động vì lợi ích chung. Tránh
hiện tượng mặc dù tồn tại hai tổ chức đại diện như hiện nay, nhưng cũng chưa bảo đảm
bao quát toàn bộ ý chí nguyện vọng của tất cả những người sử dụng lao động trong phạm
vi cả nước. Theo cách tiếp cận như vậy, có thể có nhiều tổ chức của người sử dụng lao
động cùng tồn tại, nhưng không thể có từ hai tổ chức trở lên của người sử dụng lao động

cùng tham gia vào mối quan hệ ba bên hoặc quan hệ hai bên với tư cách “đại diện người
sử dụng lao động” để chia sẻ một lá phiếu như hiện nay. Sự tham gia phân tán dễ dẫn đến
bản vị, cục bộ, tìm cách gây ảnh hưởng hoặc tìm cách đạt lợi ích cho nhóm mình, tổ chức
của mình, thành viên của mình. Điều đó chỉ làm cho tổ chức cá thể của người sử dụng lao
động suy yếu thêm mà thôi.
1.3. Nhà nước và sự cần thiết của nhà nước trong quan hệ lao động
Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng, ban hành chính sách,
pháp luật lao động, tổ chức triển khai và giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực thi pháp
luật; tổ chức các thiết chế để bảo đảm và hỗ trợ quan hệ lao động, điều hoà lợi ích của các
bên trong quan hệ lao động.
Vai trò của Nhà nước trong quan hệ lao động : .
Trong quan hệ lao động, Nhà nước có vai trò kép, vừa định ra pháp luật lao động,
hướng dẫn thực hiện pháp luật lao động, vừa là một chủ thể trong quan hệ 3 bên, đại diện
cho lợi ích quốc gia và toàn thể cộng đồng. Nhà nước tham gia vào quan hệ lao động từ
trung ương đến địa phương, thông qua hệ thống hành chính Nhà nước của mình (Chính
phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương). Thông thường, các nước đặt
chức năng quản lý Nhà nước về quan hệ lao động thuộc Bộ Lao động. Trong Bộ Lao
động thành lập Vụ hay Cục quan hệ lao động, đồng thời có các Vụ chức năng có liên
quan đến các nội dung chủ yếu của quan hệ lao động (như việc làm, tiền lương, bảo hiểm
xã hội, an toàn vệ sinh lao động, tiêu chuẩn lao động, Thanh tra lao động, Trọng tài lao
động, Toà Lao động, …)
1.3.1. Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước
-Đại diện cho lợi ích quốc gia và cộng đồng trong QHLĐ.
-Đảm bảo khuôn khổ pháp lý để QHLĐ vận hành,thông qua các điều luật cụ thể về
quyền và nghĩa vụ của hai bên,các quy định về trình tự,thủ tục giải quyết các tranh
chấp,xung đột.
-Tham gia giải quyết tranh chấp dưới các hình thức thanh tra,hòa giải và xét xử.
1.3.2. Cơ quan đại diện của nhà nước trong QHLĐ
Ở cấp trung ương : Quốc hội,Chính phủ,BLĐTBXH
Các cơ quan này sẽ thay mặt Chính phủ tham gia vào QHLĐ,thực hiện chức

năng,nhiệm vụ cụ thể của Chính phủ trong lĩnh vực lao động.Trong đó quan trọng nhất
vẫn là Bộ lao động.
Bộ lao động thành lập các cơ quan,tổ chức trực thuộc để nghiên cứu,tham khảo và
tham gia vào từng lĩnh vực cụ thể của QHLĐ,gồm : các vụ,cục,ủy ban,hội đồng…Các cơ
quan này có trách nhiệm quản lý các lĩnh vực cụ thể như:việc làm,năng suất lao động,tiền
lương,an toàn vệ sinh lao động,dạy nghề,lao động ở nước ngoài…
Chính phủ có những vai trò chủ yếu sau : .
1. Hướng dẫn thi hành pháp luật lao động và quan hệ lao động, cụ thể: Ban hành các
văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật lao động và các văn bản pháp luật khác liên quan
đến lao động và quan hệ lao động như: Luật Công đoàn; các luật khác có liên quan (Bộ
luật Dân sự, Luật Tố tụng Dân sự để giải quyết các vụ án tranh chấp lao động; Luật
Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã…); Tổ chức triển khai thực hiện các công ước của Tổ
chức Lao động Quốc tế; Quyết định các chính sách liên quan đến lao động và quan hệ lao
động, như chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn vệ sinh lao động, cơ chế phối
hợp 3 bên trong quan hệ lao động .
2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động, luật về quan hệ lao động, các luật khác
có liên quan đến các đối tượng thuộc quan hệ lao động nhằm nâng cao nhận thức và ý
thức chấp hành pháp luật .
3. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật lao động và quan hệ lao động
Ở cấp địa phương, khu vực đại diện của Nhà nước : UBND,Sở LĐTBXH,các Văn
phòng lao động,Bảo hiểm XH của địa phương,có thể được tổ chức dưới dạng Văn phòng
lao động bang,vùng hoặc tỉnh hoặc các cấp thấp hơn.
1.3.3. Thực trạng ở VN
1. Pháp luật về quan hệ lao động chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ
Pháp luật lao động có nhiều điểm không còn phù hợp với thực tế phát triển. Tham vấn là
hoạt động rất cần thiết trong quan hệ lao động, là bước thứ hai trong đối thoại (thông tin
– tham vấn và thương lượng). Theo qui định của pháp luật hiện hành, tham vấn là hoạt
động mang tính chất tự nguyện và kết quả của nó không có tính ràng buộc nên các bên dễ
tham gia, dễ thực hiện hơn so với thương lượng. Nhưng ở nước ta, nhiều năm qua cho
thấy, cơ chế tham vấn chưa trở thành phổ biến trong quan hệ lao động, chủ yếu diễn ra

khi áp lực tranh chấp lao động có bùng phát. Thiết chế hỗ trợ cho hai bên trong quan hệ
lao động để tăng cường năng lực đối thoại, thương lượng chưa phát huy kết quả, cho nên
ở một số nơi, trong một số trường hợp Nhà nước phải đứng ra tổ chức, thu xếp và cùng
hai bên đối thoại, thương lượng, giúp cho quá trình này mang lại kết quả thực sự và hiểu
biết lẫn nhau. Tuy nhiên, quan hệ lao động ở nước ta đang ở giai đoạn đầu phát triển, nên
các bên chưa nhận thức về tầm quan trọng của thiết chế này chưa cao cũng là điều dễ
hiểu. Mặt khác, trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án về lao động còn nhiều phức tạp; Cơ
chế 3 bên chưa được pháp luật qui định cụ thể .
Khuôn khổ pháp lý cho các tổ chức đại diện hình thành và hoạt động còn bất cập như:
Căn cứ pháp lý cho tổ chức đại diện người sử dụng lao động chưa đủ; Luật Công đoàn
ban hành đã lâu, không còn phù hợp với thực tế .
2. Công tác quản lý Nhà nước về quan hệ lao động còn bất cập
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động còn nhiều hạn chế; thanh tra, kiểm tra và
giám sát thực thi pháp luật quan hệ lao động chưa đáp ứng được yêu cầu; Quản lý Nhà
nước về quan hệ lao động chưa tập trung vào một đầu mối; Các thiết chế hỗ trợ hiện tại
chưa phát huy được hiệu quả (hoà giải, trọng tài, xét xử); Cơ chế tham vấn chưa đủ mạnh
và chưa ngang tầm với sự phát triển (cơ chế 3 bên). Công tác thanh tra, kiểm tra các vấn
đề có liên quan đến quan hệ lao động còn nhiều hạn chế.
1.3.4. Một số giải pháp: .
1. Cần định hình rõ mô hình quan hệ lao động của Việt Nam trong thời gian tới cho
phù hợp với điều kiện của nước ta, trên cơ sở đó hình thành hệ thống pháp luật lao động
và quan hệ lao động phù hợp .
2. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Bộ luật Lao động, đưa những nội dung còn
thiếu, những nội dung chưa được đề cập vào Bộ luật này, làm rõ thêm một số vấn đề mà
trước đây pháp luật lao động chưa qui định cụ thể như: Vấn đề hợp đồng lao động phái
cử, hợp đồng lao động bán thời gian; quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp Nhà nước;
thời giờ làm thêm; cơ chế đối thoại, thương lượng và ký kết thoả ước lao động tập thể; cơ
chế giải quyết tranh chấp lao động; cơ chế tham vấn 3 bên… .
3. Có kế hoạch xây dựng các luật chuyên đề về việc làm, hợp đồng lao động, tiêu
chuẩn lao động (luật tiền lương tối thiểu, luật thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi, luật

an toàn vệ sinh lao động); xây dựng luật về quan hệ lao động.
Kết luận:
Như vậy, quan hệ lao động trong doanh nghiệp được thiết lập và vận hành trực tiếp
bởi hai chủ thể là NLĐ (hay tổ chức đại diện cho NLĐ) và NSDLĐ (hay tổ chức đại diện
cho NSDLĐ). Trong hệ thống quan hệ lao động , chính phủ được hiểu như một bên đối
tác, đại diện cho lợi ích của quốc gia và toàn thể cộng đồng. Nhà nước là một bên đối tác
thứ ba trong quan hệ lao động, nhà nước tham gia vào quan hệ lao động với tư cách là đại
diện cao nhất cho lợi ích quốc gia, lợi ích của toàn thể cộng đồng xã hội và điều hòa mối
quan hệ giữa hai đối tác khác của quan hệ lao động đó là NLĐ và NSDLĐ.

×