Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty Thương mại dịch vụ nhựa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.96 KB, 83 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước Việt nam đã và đang trong một thời kỳ đổi mới kinh tế đầy sống
động. Công cuộc đổi mới này được bắt nguồn từ đại hội Đảng lần thứ VI (năm
1986). Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn
diện cho nền kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và liên tục đạt được
nhiều thành tựu rực rỡ. Đóng góp vào thành công này có nhiều yếu tố nhưng một
bộ phận vô cùng quan trọng phải kể đến là việc mở rộng và nâng cao hiệu quả
kinh tế đối ngoại.
Xuất nhập khẩu là lĩnh vực cần thiết không thể thiếu đối vối bất kỳ quốc
gia nào.Để tăng trưởng kinh tế nhanh chóng quốc gia cần đẩy mạnh hoạt động
xuất nhập khẩu bởi vì xuất khẩu sẽ thúc đẩy nền kinh tế trong nước còn nhập
khẩu sẽ đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục, có hiệu quả góp phần mở
rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng, từng bước ổn định và nâng cao đời sống của
nhân dân.
Việt Nam tuy là một nước giàu tài nguyên nhưng vẫn chưa đảm bảo được
đầy đủ nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất trong nước. Nắm được thực trạng đó
ngay từ ngày đầu thành lập công ty Thương mại dịch vụ nhựa đã rất chú trọng vào
lĩnh vực nhập khẩu nguyên liệu nhựa, hoá chất nhựa. Công ty đã đầu tư rất lớn
vào lĩnh vực này và biến nó thành ngành kinh doanh chủ yếu của công ty nhằm
cung cấp đủ cho nhu cầu của các nhà máy, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm nhựa
trong toàn quốc.
Như vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu không những có ý nghĩa
quyết định đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mà còn có ý
nghĩa to lớn về mặt xã hội.
1
Qua nhận thức về mặt lý luận tại trường đại học Kinh tế quốc dân cùng với
thời gian thực tập nghiên cứu tại công ty Thương mại dịch vụ nhựa, được sự
hướng dẫn tận tình của cô giáo Th.s Cao Thuý Xiêm và gợi ý của các cán bộ trong
công ty tôi xin mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại công ty Thương mại dịch vụ
nhựa”.


Mục tiêu nghiên cứu của đề tàI: Vận dụng lý luận vào thực trạng hoạt động
nhập khẩu của công ty để rút ra những mạt được, tồn tạI cơ bản,nguyên nhân gây
ra những tồn tại. Trên cơ sở đó đề xuất một số giảI pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của công ty
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: đề tàI lấy công ty thương mạI dịch vụ
nhựa làm đối tượng nghiên cứu. Hoạt động của công ty có nhiều mặt, đề tàI chỉ đI
sâu nghiên cứu về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty.
Đề tài gồm 3 phần:
Chương I : Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu và hiệu quả kinh
doanh nhập khẩu
Chương II : Phân tích tình hình hoạt động nhập khẩu và hiệu quả kinh
doanh nhập khẩu của công ty Thương mại dịch vụ nhựa trong thời gian qua .
Chương III : Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh nhập khẩu tại công ty Thương mại dịch vụ nhựa
2
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU VÀ HIỆU QUẢ
KINH DOANH NHẬP KHẨU
I. Hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường
1. Sự cần thiết của nhập khẩu:
Khái niệm hoạt động nhập khẩu là việc mua bán trao đổi hàng hoá dịch vụ
của nước này với nước khác và dùng ngoại tệ làm phương tiện trao đổi. Nó không
chỉ là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ buôn bán trong
một nền kinh tế có các tổ chức bên trong và bên ngoài. Vậy thực chất nhập khẩu ở
đây là nhập khẩu từ các tổ chức kinh tế, các công ty nước ngoài và tiến hành tiêu
thụ các hàng hoá đó ở thị trường nội địa hoặc tái sản xuất với mục đích thu lợi
nhuận, nối liền sản xuất giữa các quốc gia.
Thực tế đã chứng minh rằng: không một nước nào, quốc gia nào có khả
năng sản xuất mọi loại hàng hoá đáp ứng mọi nhu cầu trong nước và con người đã
thấy được lợi ích của trao đổi hàng hoá giữa các nước từ khi xuất hiện nền kinh tế

sản xuất hàng hoá. Hoạt động xuất nhập khẩu là cần thiết vì lý do cơ bản là khai
thác được lợi thế so sánh của nước xuất khẩu và mở rộng khả năng tiêu dùng của
nước nhập khẩu. Nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã chứng minh được
rằng, chuyên môn hoá quốc tế có lợi cho mọi quốc gia và gọi đó là quy luật lợi thế
tương đối hay lý thuyết về lợi thế so sánh. Lý thuyết này khẳng định, mọi nước
đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế. Một quốc gia hay các cá nhân có
thể nâng cao mức sống và thu nhập thực tế bằng cách chuyên môn hoá vào sản
3
xuất các hàng hoá mà quốc gia đó có thể sản xuất với hiệu quả sản xuất cao nhất
và xuất khẩu các hàng hoá đó đổi lấy hàng nhập khẩu từ quốc gia, khu vực khác.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn hoá
ngày càng tăng. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm và
hiệu quả kinh tế theo quy mô sẽ thực hiện. Từ đó nó mở rộng khả năng sản xuất
và tiêu dùng của mỗi quốc gia. Hoạt động nhập khẩu đã cho phép một quốc gia
tiêu dùng các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng so với danh
giới khả năng sản xuất và tiêu dùng trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự
cấp, không giao lưu buôn bán. Như vậy, hoạt động nhập khẩu làm cho mỗi quốc
gia có nhiều loại hàng hoá hơn, có thể cải thiện cuộc sống trong nước.
Ngoài ra, sự cần thiết của nhập khẩu còn được chứng minh qua việc nó góp
phần phát huy được thị hiếu của dân cư mỗi nước. Các nước có lực lương sản xuất
phát triển, có kỹ thuật công nghệ tiên tiến sẽ sản xuất ra nhiều loại hàng hoá khác
nhau, chất lượng tốt hơn và giá cả rẻ hơn các nước có ít nguồn lực và lực lượng
sản xuất kém phát triển. Nhưng nhu cầu của con người thì không có giới hạn. Chỉ
có thông qua con đường thương mại quốc tế các nước sẽ mua, nhập khẩu những
hàng hoá dịch vụ ở những thị trường có giá rẻ, chất lượng cao và bán, xuất khẩu
hàng hoá, dịch vụ trên thị trường có giá cả đắt. ở đây điều quan trọng hơn cho các
nước là không phải lúc nào cũng nhập khẩu được hàng hoá, dịch vụ giá rẻ và xuất
khẩu được giá đắt mà chính là các nước đã lợi dụng được lợi thế so sánh để trao
đổi quốc tế để sao cho cả hai bên đều có lợi.
Hoạt động nhập khẩu cũng có thể mang vào trong nước những trào lưu

mới, những phong tục tập quán của các quốc gia khác nhau đồng thời cũng diễn ra
sự cạnh tranh giữa hàng hoá trong nước và hàng hoá nhập khẩu gây ra những khó
khăn cho một số ngành sản xuất trong nước kéo theo một số tầng lớp dân cư. Do
vậy, các quốc gia đều có chính sách rất cụ thể, rõ ràng với vấn đề thương mại
quốc tế. Nước ta từ đại hội đảng lần thứ VI đã có một bước ngoặt đúng đắn có ý
4
nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế đất nước. Đó là việc đổi mới cơ chế
hành chính, từ đó dẫn đến đổi mới chính sách thương mại quốc tế. Đảng ta nhận
rõ: Thương mại quốc tế trong kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tất yếu dẫn tới
cạnh tranh, theo dõi kiểm soát lẫn nhau giữa các chủ thể kinh doanh hàng hoá lạc
hậu. Đó chính là tiến trình phát triển của lịch sử và Việt Nam. Bởi vậy, nhập khẩu
nói riêng và hoạt động thương mại quốc tế nói chung là tất yếu khách quan, tạo ra
hiệu quả kinh tế cao nhất trong nền sản xuất của mỗi quốc gia cũng như trên toàn
thế giới.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh
thương mại ở phạm vi quốc tế. Nhập khẩu thể hiện mối liên hệ không thể thiếu
giữa các nền kinh tế các quốc gia với nền kinh tế thế giới. Nhập khẩu tác động
một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhập khẩu
để bổ sung các hành hoá mà trong nước không sản xuất được hay không đáp ứng
được nhu cầu
Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay của đất nước ta, vai trò nhập khẩu trở
nên quan trọng được thể hiện ở khía cạnh sau:
- Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp hoá đất
nước. Bởi vì nhập khẩu đòi hỏi sự đồng bộ về kỹ thuật nên sẽ tạo ra dây truyền
hiện đại kéo theo sự đổi mới trong đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý, tạo ra kỷ
luật lao động chặt chẽ trong đội ngũ công nhân, gây ý thức hiệu quả.
-Nhập khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung ứng đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản trong nước. Đồng thời thông qua nhập khẩu hàng hoá,

Việt Nam sẽ tham gia vào thị trường cạnh tranh thế giới, điều này đòi hỏi sự năng
động, sáng tạo của từng doanh nghiệp.
5
-Nhập khẩu cũng làm đa dạng hoá mặt hàng, chủng loại, quy cách, mẫu mã
các loại hàng hoá góp phần cải thiện và nâng cao mức sống nhân dân. Nhập khẩu
máy móc thiết bị, đầu tư xây dựng là nơi thu hút hàng triệu lao động, vừa giải
quyết công ăn việc làm, hạn chế tệ nạn xã hội, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh.
-Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm
bảo phát triển nền kinh tế cân đối và ổn định.
-Nhập khẩu phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mỗi doanh nghiệp,
mỗi tổ chức, mỗi cán bộ tham gia hoạt động nhập khẩu. Nhờ nhập khẩu mà các
luồng thông tin được khai thông, các mối quan hệ được sử dụng tích cực.
-Nhập khẩu tạo sự cạnh tranh của hàng hoá nội và hàng hoá ngoại, tạo ra
động lực cho các nhà sản xuất trong nước buộc phải không ngừng vươn lên để tồn
tại, tạo ra sự phát triển thực chất của sản xuất xã hội và thanh lọc các đơn vị sản
xuất yếu kém.
-Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Nhập khẩu giải
quyết tình trạng thiếu nguyên liệu trong nước, tạo đầu vào cho sản xuất. Nhập
khẩu hiện đại hoá công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm đảm bảo tiêu
chuẩn quốc tế để xuất khẩu, đồng thời giảm các hao phí, tiết kiệm nguyên vật liệu
đầu vào, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong
nước trên thị trường quốc tế.
Để phát huy vai trò của hoạt động nhập khẩu cần:
-Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào hoạt động dưới sự
quản lý của nhà nước.
-Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong hoạt động nhập khẩu, tức là không
chỉ vì mục đích chạy theo lợi nhuận mà bất chấp bỏ qua lợi ích xã hội.
-Đảm bảo nguyên tắc ngoại thương và quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Trong hoạt động phải chú ý tạo uy tín không chỉ với các nước trong khu vực mà
với tất cả cácnước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng và cùng có lợi.

6
3. Một số hình thức nhập khẩu chủ yếu:
Trong sự phát triển đa dạng chung của thế giới hiện đại thì hoạt động xuất
nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng cũng phát triển phong phú
dưới nhiều hình thức. Có thể kể ra một vài hình thức nhập khẩu thông dụng đang
được áp dụng rộng rãi ở các doanh nghiệp như sau:
3.1. Nhập khẩu trực tiếp:
Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp
xuất nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp phải đầu tư, nghiên cứu thị trường, tính
toán chi phí sao cho có lãi, ký kết và thực hiện hợp đồng theo đúng chính sách,
luật pháp của quốc gia cũng như của quốc tế. ở hoạt động nhập khẩu trực tiếp,
doanh nghiệp nhập khẩu phải chịu mọi chi phí, mọi rủi ro cũng như phải chịu
trách nhiệm pháp lý về mọi hoạt động nhập khẩu của mình.
3.2. Nhập khẩu uỷ thác:
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh
nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một số loại
hàng hoá nhưng không có quyền tham gia quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ
thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành
nhập khẩu hàng theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm
phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ
thác và được hưởng một phần thù lao gọi là phí uỷ thác. Bên uỷ thác vẫn phải tự
mình nghiên cứu thị trường, lựa chọn mặt hàng, đối tượng giao dịch và chịu mọi
chi phí liên quan.
3.3. Nhập khẩu liên doanh:
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu trên cơ sở liên kết kinh tế tự
nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập
khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các biện pháp
7
có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này theo hướng có lợi
nhất cho cả hai bên.

3.4. Nhập khẩu đổi hàng:
Nhập khẩu đổi hàng cùng trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của
buôn bán đối lưu. Nó là một hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh
toán không dùng tiền mà là hàng hoá. ở đây mục đích nhập khẩu hàng hoá không
phải chỉ để thu lãi từ hoạt động nhập mà còn nhằm để xuất được hàng, thu được
lãi từ hoạt động xuất.
3.5. Nhập khẩu tái xuất:
Nhập khẩu tái xuất là hình thức nhập khẩu nhưng không phaỉ để tiêu thụ
trong nước mà để tái xuất sang nước thứ ba nhằm thoả mãn nhu cầu và lợi nhuận.
Những hàng nhập này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Doanh nghiệp
nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mối bạn hàng xuất và nhập để làm sao
cho thu được số tiền lớn hơn chi phí bỏ ra. Như vậy, nhập khẩu tái xuất luôn thu
hút ba bên: bên nhập khẩu, bên tạm nhập tái xuất và bên xuất khẩu. Hàng hoá
không nhất thiết phải chuyển qua nước tái xuất mà có thể chuyển qua nước thứ ba
(nước nhập khẩu). Tiền trả cho nước xuất khẩu do nước tái xuất thu được từ xuất
khẩu sang nước thứ ba. Nhiều khi bên tái xuất còn thu được lợi do thu nhanh trả
chậm.
II. Hiệu quả kinh doanh và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
1. Hiệu quả kinh doanh
1.1.Khái niệm
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp đều phải xác định cho mình các
mục tiêu hoạt động kinh doanh cụ thể. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi các doanh
nghiệp phải tự xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh thích hợp. Mục tiêu
8
bao trùm lâu dài của mọi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục
tiêu này, trước hết mọi doanh nghiệp phải xác định tính toán sao cho sử dụng hiệu
quả các nguồn lực đầu vaò để đạt được lợi nhuận tối đa. Như vậy, hiệu quả kinh tế
của hoạt động sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với các yếu tố chi phí đầu vào và
kết quả đạt được. Mọi khái niệm hiệu quả kinh doanh được đưa ra đều chỉ ra mối
liên hệ giữa kết quả đạt được và chi phí đầu vào ở những khía cạnh khác nhau.

Như vậy, hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh là một phạm
trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực như lao động, vốn, máy móc,
thiết bị, nguyên vật liệu... để đạt được các mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp
đã xác định. Có thể biểu diễn khái niệm bằng công thức sau:

C
K
H
=

Trong đó: H: Là hiệu quả kinh tế của một quá trình kinh tế nào đó
K: Là kết quả thu được từ nó
C: là chi phí toàn bộ để đạt được kết quả đó
Như thế, hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động sản
xuất kinh doanh, trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp trong sự vận động không ngừng của các quá trình sản
xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động của từng nhân
tố.
1.2. Bản chất:
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế rất rộng phản ánh những lợi
ích đạt được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để hiểu rõ bản chất của
phạm trù hiệu quả kinh doanh cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù hiệu
quả và kết quả.
Có thể hiểu kết quả là phạm trù phản ánh những cái thu được sau một quá
trình kinh doanh hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó, kết quả cần đạt bao
9
giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh nghiệp có thể cân, đo, đong, đếm được như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại,
doanh thu, thị phần... và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng
hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín, chất lượng sản phẩm... Những kết quả

này lại không cho thấy được trình độ quản lý, trình độ sử dụng đầu vào của doanh
nghiệp.
Trong khi đó hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực
sản xuất. ở công thức (1) ta thấy khái niệm phạm trù hiệu quả kinh doanh bao gồm
kết quả (đầu ra) và chi phí (nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều được tính bằng cả hai đơn vị hiện vật và giá
trị. Tuy nhiên nếu tính bằng đơn vị hiện vật thì rất khó xác định do tính không
đồng nhất đơn vị đo lường . Vì vậy người ta thường tính hiệu quả theo đơn vị giá
trị mà biểu hiện là tiền tệ .
Như vậy , bản chất của hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của lao động
xã hội , nó phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh , phản ánh trình độ
sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình kinh doanh để đạt được mục tiêu lợi
nhuận . Đồng thời nó cũng là thước đo trình độ tiết kiệm yếu tố đầu vào, nguồn
lực xã hội . Tiêu chuẩn hiệu quả đặt ra là việc tối đa hoá kết quả hoặc tối thiểu
hoá chi phí dựa trên điều kiện nguồn lực sẵn có.
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh được coi như là một trong những công cụ để các nhà
quản trị thực hiện chức năng của mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh
doanh không những chỉ cho biết việc sử dụng đạt được ở trình độ nào đó mà còn
cho phép các nhà quản trị phân tích và tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh có thể
10
được hiểu là tạo ra kết quả cao hơn trong cùng một nguồn lực đầu vào hoặc kết
quả tăng kết quả lớn hơn so với tốc độ tăng việc sử dụng các nguồn lực đầu vào.
Chúng ta đều biết rằng các nguồn lực xã hội là một phạm trù khan hiếm:
càng ngày người ta càng sử dụng nhiều các nguồn lực sản xuất vào các hoạt động
sản xuất phục vụ các nhu cầu khác nhau của con người. Các nguồn lực sản xuất xã
hội ngày càng giảm thì nhu cầu của con người lại ngày càng đa dạng và tăng lên.
Điều này đòi hỏi các nhà sản xuất, kinh doanh phải biết tận dụng và sử dụng tiết
kiệm tối đa các nguồn lực đầu vào để đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Để làm

được điều đó, đòi hỏi mọi doanh nghiệp phải lựa chọn và trả lời chính xác ba câu
hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Bởi vì thị trường chỉ
chấp nhận các doanh nghiệp nào quyết định sản xuất đúng loại sản phẩm (dịch vụ)
với số lượng và chất lượng phù hợp. Nếu doanh nghiệp làm tốt ba điều trên thì sản
phẩm sẽ tiêu thụ được trên thị trường, không lãng phí các nguồn lực sản xuất.
Trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu quả kinh
doanh là cực kỳ quan trọng và không thể không đặt ra với bất kỳ hoạt động sản
xuất kinh doanh nào. Nó thực sự là vấn đề sống còn đối với mọi doanh nghiệp.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, môi trường cạnh tranh ngày càng
gay gắt. Muốn chiến thắng trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải luôn tạo ra và duy
trì các lợi thế cạnh tranh đó là: chất lượng và sự khác biệt hoá. Để duy trì lợi thế
về giá cả doanh nghiệp phải sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất hơn các
doanh nghiệp khác cùng ngành. Doanh nghiệp càng tiết kiệm sử dụng các nguồn
lực này bao nhiêu sẽ càng có lợi để thu được nhiều lợi nhuận bấy nhiêu. Hiệu quả
kinh doanh là phạm trù phản ánh tương đối của việc sử dụng tiết kiệm các nguồn
lực sản xuất xã hội nên là điều kiện để thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài của
doanh nghiệp. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh là đòi hỏi khách quan để
doanh nghiệp thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận.
11
1.4. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
Đối với nền kinh tế quốc dân thì việc nâng cao hiệu quả kinh tế nói chung
và hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng là một phạm trù kinh tế đặc
biệt quan trọng, phản ánh yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian, phản ánh trình
độ sử dụng lực lueượng sản xuất dưới chế độ CNXH trong cơ chế thị trường.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao thì quan hệ sản xuất ngày
càng hoàn thiện, càng nâng cao hiệu quả sử dụng. Càng nâng cao hiệu quả sử
dụng thì càng hoàn thiện quan hệ sản xuất, yêu cầu của quy luật kinh tế ngày càng
được thoả mãn.
Đối với bản thân doanh nghiệp thì nâng cao hiệu quả kinh doanh là mục
tiêu cơ bản của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nó giúp doanh

nghiệp bảo toàn và phát triển vốn, hay nói cách khác nó là cơ sở để doanh nghiệp
thực hiện tái sản xuất mở rộng, cải tạo, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật phục
vụ cho sản xuất kinh doanh góp phần tái sản xuất mở rộng, để cải thiện đời sống
nhân dân, tích luỹ cho ngân sách, tăng uy tín và thế lực của công ty trên thương
trường.
Đối với cá nhân thì nó là động cơ thúc đẩy, kích thích người lao động hăng
say lao động giúp cho năng suất lao động ngày một nâng cao. Qua đó hiệu quả
kinh doanh cũng sẽ được nâng cao.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu
2.1. Các nhân bên trong doanh nghiệp
2.1.1. Nhân tố lao động
Đây là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định đến hiệu quả thực
hiện các nhiệm vụ, công việc của công ty. Nếu công ty có đội ngũ cán bộ có năng
lực, có trình độ chuyên môn cao, nhiệt tình tích cực trong công việc thì sẽ đạt hiệu
quả cao trong kinh doanh.
12
Để có được đội ngũ lao động có trình độ, tinh thần, ý thức trách nhiệm
cao... thì buộc bản thân doanh nghiệp phải chăm lo đến việc đào tạo, bồi dưỡng và
nâng cao trình độ chuyên môn của lực lượng lao động. Bố trí sắp xếp lao động cả
về vật chất, tinh thần. Đó là những nhiệm vụ hàng đầu của mỗi doanh nghiệp để
có thể tạo dựng một đội ngũ lao động có hiệu suất cao.
2.1.2. Vốn kinh doanh
Công ty nếu có nguồn vốn lớn (đặc biệt là nguồn vốn lưu động) sẽ nắm bắt
kịp thời cơ hội kinh doanh, có khả năng kí kết những hợp đồng lớn, tạo sự tin
tưởng với đối tác, tạo sự vững vàng ổn định cho công ty mở rộng hoạt động kinh
doanh. Vì vậy, công ty nên tận dụng mọi khả năng huy động vốn để hoạt động
kinh doanh có hiệu quả.
2.1.3. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin
Thông tin có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Nếu thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác là cơ sở vững chắc để

doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh. Đồng thời giúp cho doanh
nghiệp nắm bắt và nghiên cứu đầy đủ hơn về môi trường kinh doanh. Qua đó
doanh nghiệp có thể nắm bắt và vận dụng được những cơ hội kinh doanh tốt, tránh
được rủi ro. Dovậy, việc tổ chức khoa học hệ thống thông tin nội bộ doanh nghiệp
vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin kinh doanh, vừa tiết kiệm được chi phí
kinh doanh cho thông tin. Hệ thống thông tin nội bộ đáp ứng tốt nhất yêu cầu hiệu
quả là hệ thống thông tin có sự trợ giúp của hệ thống chế bản dữ liệu điện tử.
2.1.4. Nhân tố quản trị doanh nghiệp
Nhân tố quản trị doanh nghiệp tác động tới hiệu quả kinh doanh. Công tác
quản trị được tiến hành tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp một hướng đi đúng, định
hướng các mục tiêu kinh doanh ngắn và dài hạn hợp lý. Từ đó làm cơ sở đầu tiên
đem lại hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Một cơ cấu tổ chức bộ máy quản
13
trị doanh nghiệp hợp lý còn giảm tối thiểu các chi phí quản lý và xây dựng một cơ
cấu lao động tối ưu, góp phần xây dựng và lựa chọn một cách hợp lý các phương
án huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu vào phục vụ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
2.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
2.2.1. Nhân tố cạnh tranh
Nền kinh tế thị trường với nền kinh tế mở, khuyến khích sản xuất phát triển
kinh doanh, ngày càng làm tăng mức độ ảnh hưởng của nhân tố này đối với hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh tốt,
chiếm ưu thế trên thị trường, vừa đảm bảo chất lượng, vừa đảm bảo giá thành hợp
lý sẽ chiếm vị trí cao trong thị trường và thu lợi nhuận. Ngược lại, doanh nghiệp
không có khả năng cạnh tranh để thua kém các bạn hàng thì sẽ có thu nhập thấp
và kinh doanh không mấy hiệu quả.
Cạnh tranh được xét theo hai góc độ:cạnh tranh trong nội bộ ngành sản xuất
trong nước và cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Trong cùng một thời điểm
nhất định, nếu tồn tại nhiều doanh nghiệp cùng nhập khẩu một loại mặt hàng và
tiêu thụ ở thị trường nội địa thì sẽ ảnh hưởng tới giá cả và sức tiêu thụ và do đó

ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh. Các nhà sản xuất nước ngoài khi thâm nhập
vào thị trường nội địa cũng trở thành một đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp
trong nước. Họ cạnh tranh bằng giá cả, chất lượng, mẫu mã, uy tín... nhằm thu hút
khách hàng, từ đó tạo ra việc giảm doanh số bán hàng hoá của các doanh nghiệp
trong nước sản xuất một loại mặt hàng như các đối thủ cạnh tranh nước ngoài.
Để đảm bảo cạnh tranh tốt nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh
nghiệp thì ngay từ khâu lựa chọn lĩnh vực kinh doanh, doanh nghiệp nên có hướng
lựa chọn đúng đắn, tránh những ngành kinh doanh có mật độ doanh nghiệp tham
gia quá dầy để giảm bớt tốc độ cạnh tranh trên thị trường.
14
2.2.2. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là phương tiện so sánh về mặt giá trị chi phí sản xuất của
một doanh nghiệp nào đó với giá cả thị trường thế giới. Tỷ giá hối đoái có vai trò
nhất định đối với quá trình trao đổi ngang giá và cùng một loạt các nhân tố khác,
tác động tương quan giữa giá xuất khẩu và giá nhập khẩu tới khả năng cạnh tranh
của công ty.
Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm xuống, có nghĩa là đồng bản tệ có
giá trị thấp hơn so với đồng ngoại tệ. Nếu không có các yếu tố khác ảnh hưởng sẽ
làm cho hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn, bởi vì người nhập khẩu sẽ phải dùng đơn
vị đồng tiền nội tệ hơn để mua cùng một khối lượng hàng hoá nhập khẩu. Việc
giảm tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Bởi vì
với việc tăng chi phí đồng tiền trong nước để mua hàng hoá tiêu dùng hay nguyên
liệu sản xuất ở nước ngoài, các nhà nhập khẩu buộc phải tăng chi phí kinh doanh.
Đây là nguyên nhân làm giảm hiệu quả kinh doanh. Hơn nữa nếu tăng chi phí sẽ
làm giảm cầu trên thị trường và khách hàng sẽ chuyển sang thay thế dùng hàng
khác dẫn tới hàng hoá, nguyên vật liệu sẽ bị ứ đọng, giảm hiệu quả kinh doanh.
Xét về hiệu quả kinh tế xã hội, việc giảm tỷ giá hối đoái sẽ khuyến khích xuất
khẩu do các nhà xuất khẩu sẽ được nhận lãi do đổi ngoại tệ lấy đồng bản tệ bị rẻ
đi, đồng thời có khả năng bán hàng với mức giá thấp hơn giá cả trên thị trường thế
giới. Điều này dẫn đến khuyến khích trong nước tạo việc làm và cải thiện cán cân

thanh toán quốc tế.
Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái tăng lên, nghĩa là đồng bản tệ có giá trị tăng
hơn so với đồng ngoại tệ, nếu như không có các yếu tố khác ảnh hưởng thì sẽ có
tác động khuyến khích nhập khẩu vì hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với giá cả
chung trong nước.
15
2.2.3. Hạn ngạch
Hạn ngạch nhập khẩu là qui định của nhà nước về số lượng hoặc giá trị một
mặt hàng nào đó đưọc nhập khẩu nói chung hoặc từ một thị trường nào đó, trong
một thời gian nhất định (thường là một năm). Hạn ngạch nhập khẩu đưa đến tình
trạng hạn chế số lượng nhập khẩu và ảnh hưởng đến giá nội địa của hàng hoá. Do
việc hạn chế số lượng nhập khẩu của hạn ngạch, các nhà sản xuất trong nước sẽ
thực hiện một quy mô sản xuất với hiệu quả thấp hơn với điều kiện của thương
mại tự do. Đối với cả chính phủ và các doanh nghiệp trong nước, việc cấp hạn
ngạch có lợi là xác định trước được số lượng nhập khẩu.
Hạn ngạch nhập khẩu có tác động tương đối giống với thuế nhập khẩu tức
là do có hạn ngạch nên giá hàng nhập khẩu trong nước sẽ tăng lên. Hạn ngạch có
tác động khác thuế quan ở hai điểm:
- Thứ nhất, chính phủ không thu được thuế, vì hạn ngạch làm tăng giá nội
địa của hàng hoá bị hạn chế cho nên những người cung cấp nước ngòai và những
người nhập khẩu hàng hoá của họ sẽ có được lợi nhuận lớn nhờ doanh số này.
- Thứ hai, hạn ngạch có thể biến một doanh nghiệp trong nước trở thành kẻ
độc quyền. Và do đó họ có thể áp đặt giá cả độc quyền để thu được lợi nhuận tối
đa.
Hạn ngạch làm hạn chế số lượng nhập khẩu của các doanh nghiệp. Với mức
cung thấp, giá cân bằng sẽ cao hơn trong điều kiện thương mại tự do. Vì vậy, nếu
tính về kết quả thu được từ việc bán một đơn vị hàng hoá nhập khẩu ở thị trường
nội địa thì các doanh nghiệp này có kết quả cao hơn. Nhưng nếu xét tổng kết quả
kinh doanh thì doanh nghiệp không có kết quả kinh doanh cao hơn trong trường
hợp có hạn ngạch nhập khẩu. Hiệu quả kinh doanh giảm xuống do việc giảm quy

mô sản xuất kinh doanh. Hạn ngạch cho biết trước số lượng hàng nhập khẩu để
các doanh nghiệp có thể tự chủ đưa ra các chiến lược kinh doanh cụ thể nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh.
16
2.2.4. Thuế nhập khẩu:
Có nhiều cách đánh thuế khác nhau như: tính và thu một số tiền nào đó đối
với mỗi đơn vị hàng hoá hoặc tính theo tỷ lệ phần trăm (%) đôí với tổng giá trị
hàng hoá hay là kết hợp cả hai cách đó. Thuế quan nhập khẩu là loại thuế mà
người mua trong nước phải trả cho những hàng hoá nhập khẩu một khoản lớn hơn
mức mà người xuất khẩu nhận được.
Mục đích của việc đánh thuế nhập khẩu là để góp phần vào việc phát triển
và bảo vệ sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng trong nước và góp phần tạo nguồn thu
cho ngân sách Nhà nước. Thuế nhập khẩu còn có vai trò quan trọng trong việc bảo
hộ các ngành công nghiệp non trẻ, chưa có khả năng cạnh tranh trên thị trường
quốc tế. Do phải đóng một khoản thuế nhập khẩu nên giá trị của hàng hoá trong
nước cao hơn mức giá nhập khẩu và chính người tiêu dùng trong nước phải gánh
chịu thuế này. Điều này đã đưa đến tình trạng giảm mức cầu của người tiêu dùng
đối với hàng nhập khẩu và hạn chée mức nhập khẩu.
2.2.5. Ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng:
Hiện nay, hệ thống ngân hàng đang ngày càng khẳng định được vai trò của
nó trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt trong các hoạt động ngoại thương. Sự
phát triển nhanh chóng, hiện đại của tài chính ngân hàng có tác dụng rất lớn tới
việc quản lý, cung cấp vốn, thanh toán của doanh nghiệp. Các quan hệ uy tín,
nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham
gia hoạt động xuất nhập khẩu bảo đảm về mặt lợi ích. Đồng thời, do có lòng tin
với ngân hàng mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có thể được ngân
hàng đứng ra bảo lãnh, cho vay với lượng vốn lớn kịp thời, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp nắm bắt được những cơ hội làm ăn hấp dẫn.
2.2.6. Ảnh hưởng của hệ thống giao thông vận tải và liên lạc:
17

Sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc đã ảnh hưởng rất rõ nét đến
hoạt động nhập khẩu. Nó đã đơn giản hoá công việc của nhập khẩu rất nhiều,
giảm chi phí, đồng thời nâng cao tính kịp thời, nhanh gọn của công tác xuất nhập
khẩu.
Sự phát triển của các phương tiện giao thông vận tải là điều kiện thuận tiện
để vận chuyển hàng hoá, hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển, bốc xếp, bảo
quản hệ thống kho góp phần đảm bảo nhanh chóng quá trình thực hiện xuất nhập
khẩu.
2.2.7. Ảnh hưởng bởi các chính sách của chính phủ:
Các chính sách của chính phủ cũng có tác động không nhỏ đến hiệu quả
hoạt động nhập khẩu. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh, đặc biệt là doanh
nghiệp nhập khẩu thì chính sách tỷ giá của chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả kinh doanh. Việc ổn định tỷ giá luôn được coi là phương hướng thích
hợp cho mọi chính sách kinh tế đôí ngoaị cũng như trong nước. Tăng hay giảm tỷ
giá đều bất lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh. Do đó để các doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả thì việc ổn định tỷ giá là nhân tố hết sức quan trọng.
Các chính sách tài chính tín dụng cũng có ảnh hưởng tới các nhà nhập khẩu.
Hệ thống tín dụng hiện nay ở Việt nam được phát triển theo hướng đa dạng hoá,
đa thành phần. Hệ thống tín dụng này có thể đáp ứng mọi loại nhu cầu về vốn tiền
tệ với mọi thành phần, mọi tổ chức kinh tế. Do đó, nếu tỷ lệ lãi suất ổn định, hợp
lý sẽ giúp các doanh nghiệp mạnh dạn vay vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh nâng cao hiệu quả cho đơn vị mình. Ngược lại, nếu tỷ lệ lãi suất tín dụng
hay thay đổi và không hợp lý sẽ làm cho các doanh nghiệp khó khăn về tài chính,
hiệu quả kinh doanh thấp và doanh nghiệp không phát triển được.
Kết luận: Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất
nhiều nhân tố. Các nhân tố đó đều tác động đến hiệu quả koinh doanh theo hai
hướng: thúc đẩy và cản trở. Điều quan trọng phải làm đó là làm sao để phát huy
18
tối đa các nhân tố thúc đẩy hiệu quả kinh doanh và hạn chế tối đa các nhân tố cản
trở nó.

Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chính là mục tiêu cao nhất mà các
doanh nghiệp hướng tơí. Vì vậy, nó đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn phải nỗ
lực, phấn đấu, phát huy hết khả năng để đạt được mục tiêu đó.
3. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh:
3.1. Nhóm chỉ tiêu tổng hợp:
3.1.1. Chỉ tiêu phản ánh số lượng
-Lợi nhuận
Lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh
trong một thời kỳ nhất định. Đây là chỉ tiêu cơ bản nhất trong đánh giá hiệu quả
hoạt động kinh doanh.
Lợi nhuận của hoạt động kinh doanh được tính như sau:
LN = TR - TC
Trong đó:
TR : Tổng doanh thu từ hoạt dộng kinh doanh
TC : Tổng chi phí để thực hiện hoạt động kinh doanh
Nếu ta mang lợi nhuận để so sánh với chi phí kinh doanh, doanh thu hay
vốn kinh doanh thì sẽ biết một đồng chi phí bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
19
- Chỉ tiêu năng suất lao động:
Chỉ tiêu năng suất biểu hiện trực tiếp hiệu quả sử dụng yếu tố lao động trong
việc thực hiện các nhiệm vụ kinh doanh. Chỉ tiêu này được tính theo công thức:

T
Q
W
=
Trong đó : W : Năng suất lao động trong thời kỳ
Q : Khối lượng sản xuất trong kỳ
T : Số lượng lao động bình quân trong kỳ hoặc thời gian công

tác trong kỳ
Năng suất lao động phản ánh lượng sản phẩm mà một người lao động tạo ra
trong một đơn vị thời gian (giờ, ngày, tháng, năm...).
3 3.1.2. Chỉ tiêu phản ánh chất lượng:
- Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí:
Đượ c tính theo công thức:

%100×=
TC
LN
D
C
Trong đó: LN là tổng lợi nhuận trong một thời kỳ nhất định.
TC là tổng chi phí trong thời kỳ đó.
Chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu đồng lợi nhuận có thể thu về từ một đồng
chi phí bỏ ra.
Ví dụ : Giả sử tổng chi phí bỏ ra kinh doanh nhập khẩu của công ty trong
một năm là 100 đồng, tổng lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu thời kỳ này
là 4 đồng.

04.0%100
100
4
=×=
C
D
Tức là khi bỏ ra một đồng chi phí, công ty sẽ thu được về 0,04 đồng lợi
nhuận
20
-Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu:


%100
×=
TR
LN
D
R
Trong đó : LN là tổng lợi nhuận trong một thời kỳ nhất định
TR là tổng doanh thu từ hoạt đọng kinh doanh hàng hoá và
dịch vụ trong thời kỳ đó.
Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Ví dụ : Giả sử tổng doanh thu từ hoạt động nhập khẩu của công ty trong
một năm là 100 đồng và tổng lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu trong
thời kỳ đó là 3 đồng.

03.0%100
100
3
=×=
R
D
Tức là trong một đồng doanh thu của công ty có 0,03 đồng lợi nhuận
- Tỷ suất lợi nhuận theo vốn:
Đối với đơn vị kinh doanh nhập khẩu thì chủ yếu là vốn lưu động.
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn được tính theo công thức:

%100
×=
LD

V
V
LN
D
Trong đó : LN là tổng lợi nhuận kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thời kỳ nhất
định.
VLĐ là tổng số vốn lưu động bình quân trong thời kỳ đó.
Chỉ tiêu này cho biết có thể thu về bao nhiêu đồng lợi nhuận từ một đồng
vốn lưu động bỏ ra.
Tỷ lệ này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao .
2.2. Nhóm chỉ tiêu hiệu quả bộ phận
4 a. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
21
Những chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu
động là:
_ Sức sản xuất của vốn lưu động (HVLĐ )

LD
VLD
V
TR
H
=
Trong đó : TR là tổng doanh thu.
VLĐ là vốn lưu động bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động (VLĐ ) thu lại được bao nhiêu
đồng doanh thu.
- Tốc độ chu chuyển vốn lưu động : là số vòng quay của vốn được thực hiện
trong một thời gian nhất định cần thiết để thực hiện tuần hoàn quá trình vốn lưu
động từ khi mua đến khi bán hàng.

- Số vòng lưu chuyển vốn lưu động được tính như sau

TR
V
K
LD
=
Trong đó : TR là tổng doanh thu từ hoạt dộng kinh doanh.
VLĐ là tổng số vốn bình quân sử dụng trong một thời kỳ nào đó.
Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số
vòng quay tăng, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại.
- Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động ( HĐN )

TR
V
H
LD
DN
=
Hệ số này càng nhỏ, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao, số vốn tiết kiệm
được càng nhiều. Qua chỉ tiêu này ta biết được để có một đồng luân chuyển thì
cần mấy đồng vốn lưu động.
b) Hiệu quả sử dụng lao động
22
Năng suất Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
lao động Tổng số lao động bình quân trong kỳ
Lợi nhuận bình quân Lợi nhuận trong kỳ
tính cho một lao động Tổng số lao động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận mà một lao động làm ra trong một kỳ, chỉ
tiêu này càng lớn phản ánh hiệu quả sử dụng lao động càng cao.

Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng các yếu tố riêng lẻ phản ánh hiệu quả sử dụng
từng yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các chỉ
tiêu này càng lớn phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố càng cao, đồng thời nó
cũng phản ánh được từng khía cạnh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp .
23
=
=
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU VÀ HIỆU QUẢ KINH
DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ NHỰA
I. Khái quát về công ty thương mại dịch vụ nhựa
1. Quá trình hình thành và phát triển công ty
Công ty Thương mại dịch vụ nhựa là một đơn vị trực thuộc Tổng công ty
nhựa Việt Nam, được thành lập theo quyết định số 2999/ QĐ-TCCB ngày
8/10/1997 của Bộ Công nghiệp ( Tên giao dịch quốc tế: Plastics Trading and
Service Company)
Trụ sở chính của Công ty: 39 Ngô Quyền - Quận Hoàn Kiếm- Hà Nội .
Công ty là đơn vị hoạch toán phụ thuộc của Tổng Công ty Nhựa Việt Nam và
có tư cách pháp nhân đầy đủ. Công ty có con dầu và tài khoản riêng tại Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam và Ngân hàng Công
thương Chương Dương. Chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ thuộc phạm vi số
vốn do Tổng Công ty giao cho quản lý. Quá trình hình thành và phát triển của
Công ty Thương mại dịch vụ Nhựa gắn liền với bối cảnh ra đời và quá trình phát
triển của Tổng Công ty Nhựa Việt Nam.
Tiền thân của Tổng Công ty Nhựa Việt Nam cũng như Công ty Thương
mại dịch vụ Nhựa là Công ty tạp phẩm được thành lập ngày 7/8/1976, theo quyết
định số 927/ CNn-TCQL của Bộ Công nghiệp nhẹ bao gồm : toàn ngành nhựa, da
giày, xà bông, sắt tráng men, văn phòng phẩm Hồng Hà.... Đến năn 1987, thực
hiện nghị dịnh 302/CP của Chính phủ, Bộ Công nghiệp nhẹ ra quyết định số

421/CNn-TCCB ngày 1/12/1987 đổi tên Công ty tạp phẩm thành Liên hiệp các xí
nghiệp Nhựa và tạp phẩm. Cuối năm 1989, một số đơn vị thành viên chuyển sự
quản lý sang cơ quan chức năng khác, chỉ còn lại Liên hiệp sản xuất- xuất nhập
khẩu Nhựa hoạt động theo Nghị định 27/HĐBT ngày 22/2/1988. Ngày 15/3/1993
Bộ Cộng nhẹ đã ra quyết định chuyển đổi Liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu
24
Nhựa thành Tổng Công ty Nhựa Việt Nam. Cuối năn 1997, Công ty Thương mại
dịch vụ Nhựa đã chính thức được thành lập trên cơ sở trước đây là chi nhánh phía
Bắc của Tổng Công ty Nhựa Việt Nam.
2.Đặc điểm chủ yếu của công ty
Công ty Thương mại dịch vụ nhựa là doanh nghiệp chuyên kinh doanh các
loại hàng hoá và dịch vụ nhựa, được Nhà nước cấp vốn 100% kinh doanh, có
quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của Tổng Công ty và tuực hiện các chức
năng cơ bản như một doanh nghiệp thương mại.
2.1. Cơ cấu tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh
Công ty Thương mại dịch vụ Nhựa tiêu biểu cho loại hình doanh nghiệp
vừa và nhỏ với bộ máy gọn nhẹ, đảm bảo phục vụ cho yêu cầu và nhiệm vụ của
Tổng Công ty Nhựa Việt Nam đề ra, tạo lập năng lực hoạt động của công ty, thúc đẩy
kinh doanh phát triển tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh tế. Mô hình tổ chức
hoạt động kinh doanh của công ty được xây dựng theo cơ cấu trực tuyến chức năng
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý:

25
GIÁM ĐỐC
Phòng
h nh à
chính
Phòng
kinh
doanh

xuất
nhập
khẩu
Phòng
t i à
chính
kế toán
Trạm
kho vận
Phòng
ngiệp
vụ quản

Hệ
thống
cửa
h ngà

×