Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Phân tích chế độ chịu trách nhiệm tài sản trong kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.26 KB, 3 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Doanh nghiệp tư nhân là một trong các loại hình doanh nghiệp phổ biến trong nên
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Khác biệt cơ bản của doanh nghiệp này là chế độ
chịu trách nhiệm tài sản trong kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân. Vậy, vì sao chủ
doanh nghiệp tư nhân có chế độ này? Biểu hiện của nó ra sao? Cùng nhau “Phân tích chế
độ chịu trách nhiệm tài sản trong kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân” để có cái
nhìn toàn diện hơn về loại hình kinh doanh này.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái niệm doanh nghiệp tư nhân
Điều 141 Luật doanh nghiệp năm 2005 có quy định: “Doanh nghiệp tư nhân là
doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp; doanh nghiệp tư nhân không được phát hành
bất kì một loại chứng khoán nào; mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp
tư nhân”.
II. Phân tích chế độ chịu trách nhiệm tài sản trong kinh doanh của chủ doanh
nghiệp tư nhân
1. Vì sao chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm tài sản trong kinh
doanh?
Thứ nhất, doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do cá nhân làm chủ. Trong doanh
nghiệp tư nhân không có sự góp vốn như ở các công ti nhiều chủ sở hữu khác, tài sản của
doanh nghiệp không có sư tách biệt với tài sản của chủ doanh nghiệp và chủ công ti tư
nhân có quyền thuê người quản lý.
Thứ hai, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản trước
mọi khoản nợ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp tư nhân.
Thứ ba, doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân nên không có sự độc
lập về tài sản.
2. Biểu hiện của chế độ chịu trách nhiệm tài sản trong kinh doanh của chủ doanh
nghiệp tư nhân
1
Một là, chủ doanh nghiệp tư nhân trách nhiệm tài sản trong kinh doanh trong
quan hệ sở hữu vốn. Nguồn vốn ban đầu của doanh nghiệp tư nhân xuất phát chủ yếu từ


tài sản của cá nhân, nguồn vốn này sẽ được đăng kí kinh doanh và trở thành vốn điều lệ
của doanh nghiệp. Chẳng hạn, ông A muốn thàn lập doanh nghiệp tư nhân B, với số vốn
ban đầu tư là 1 tỉ đồng thì ông A phải bỏ ra 1 tỉ đồng từ khối tài sản của mình và phải
đăng kí kinh doanh. Vậy, số vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân B sẽ là 1 tỉ triệu đồng.
Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp tư nhân, số vốn có thể tăng, giảm vốn
đầu tư mà không cần khai báo trừ trường hợp vốn đầu tư giảm xuống mức thấp hơn số
vốn đăng kí kinh doanh thì phải khai báo với cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, kể từ ngày
01/06/2010 nghị định số 43/2010/NĐ-CP sẽ có hiệu lực thi hành. Khi đó, khi doanh
nghiệp tư nhân tăng hoặc giảm vốn điều lệ thì đều phải báo cáo với cơ quan chức năng.
Bên cạnh đó, mọi lợi nhuận thu được sẽ thuộc về chủ doanh nghiệp tư nhân sau khi đã
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước và các bên thứ ba. Nhưng đồng thời, chủ doanh
nghiệp tư nhân sẽ phải chịu toàn bộ rủi ro mà không thể yêu cầu người khác gánh đỡ.
Hai là, chủ doanh nghiệp tư nhân có trách nhiệm tài sản trong quan hệ quản lý
hoạt động kinh doanh. Chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân có quyền quyết định mọi vấn
đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân có
quyền thuê người quản lý, thay mặt chủ sở hữu quản lý và kí kết hợp đồng nhưng chủ sở
hữu mới người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân, có quyền định đoạt đối
với tài sản của doanh nghiệp và không phải chia sẻ quyền lực với bất cứ đối tượng nào
khác trong doanh nghiệp. Ngược lại, người được thuê quản lý hoạt động của doanh
nghiệp cũng được chủ doanh nghiệp trả công từ chính tài sản của doanh nghiệp. Khoản
tiền này hai bên thỏa thuận với nhau thông qua hợp đồng.
Ba là, chủ doanh nghiệp tư nhân có trách nhiệm tài sản trong việc phân phối lợi
nhuận. Toàn bộ lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân sẽ
thuộc về chủ doanh nghiệp tư nhân sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước và
các bên thứ ba. Nhưng đồng thời, chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ phải chịu toàn bộ rủi ro
mà không thể yêu cầu người khác gánh đỡ. Ví dụ như, doanh nghiệp tư nhân B do ông A
là chủ có mức lợi nhuận hàng năm là 500 triệu đồng thì khoản tiền này thuộc về ông A và
2
ông A không có nghĩa vụ phải chia một số % nhất định trong lợi nhuận cho ai. Lợi nhuận
này tuy không thuộc phần vốn doanh nghiệp đã đăng kí nhưng có thể lưu đông trong quá

trình kinh doanh của doanh nghiệp bởi đối với doanh nghiệp tư nhân, không có tính độc
lập về tài sản của doanh nghiệp.
Bốn là, chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản trước mọi
khoản nợ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp tư nhân. Do không có
sự tách biệt giữa tài sản của doanh nghiệp tư nhân với chủ doanh nghiệp tư nhân nên chủ
doanh nghiệp tư nhân sẽ phải chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản. Chủ doanh nghiệp tư
nhân không chỉ phải chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong
phạm vi phần vốn đầu tư đã đăng kí với cơ quan đăng kí kinh doanh mà phải chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong trường hợp phần vốn đầu tư đã đăng kí không
đủ để trang trải các khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân. Chẳng hạn, doanh nghiệp tư
nhân B của ông A có số vốn đầu tư là 1 tỉ đồng. Trong quá trình kinh doanh bị lỗ một 2 tỉ
đồng thì ông A phải lấy tài sản dân sự của mình để trả nốt số nợ của doanh nghiệp.
3. Bình luận về chế độ chịu trách nhiệm tài sản trong kinh doanh của chủ doanh
nghiệp tư nhân
Ưu điểm: mọi lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân thuộc
về chủ doanh nghiệp sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước và các bên thứ
ba. Điều này có ý nghĩa khuyến khích mở rộng loại hình doanh nghiệp tư nhân.
Hạn chế: Đối với doanh nghiệp tư nhân, hoạt động kinh doanh phụ thuộc nhiều
vào tài sản của chủ doanh nghiệp. Ví thế việc mở rộng kinh doanh doanh nghiệp tư nhân
đòi hỏi lượng vốn “dày” của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, trong trường hợp doanh nghiệp tư
nhân làm ăn thua lỗ, chủ doanh nghiệp rất dễ mất tất cả do phải chịu chế độ trách nhiệm
vô hạn về tài sản.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Tóm lại, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm tài sản trong kinh doanh
của chủ doanh nghiệp tư nhân. Việc phân tích trên giúp ta đánh giá được phần nào những
ưu điểm, hạn chế cũng như hướng phát huy, khắc phục để từ đó có thể khai thác tối đa
hoạt động loại hình doanh nghiệp này.
3

×