A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Tài sản là vấn đề trung tâm, cốt lõi của mọi quan hệ xã hội nói chung và
quan hệ pháp luật nói riêng. Trong lĩnh vực kinh tế nếu tài sản luôn được coi
là điều kiện vật chất để duy trì các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế và trong
đời sống của con người thì sự tồn tại của các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ liên quan đến tài sản lại được coi là điều kiện cần thiết để giải
quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản đó. Bộ luật dân sự Việt Nam năm
2005 cũng đã có những quy định xung quanh vấn đề tài sản chính vì thế em
xin chọn đề tài: “Phân tích, bình luận quy định về tài sản trong Bộ luật dân
sự năm 2005” để tìm hiểu.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Những vấn đề chung về tài sản.
1. Khái niệm
Tài sản luôn được coi là một điều kiện vật chất để duy trì các hoạt động
trong lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội. Khái niệm về tài sản chắc chắn đã
được hình thành từ rất lâu, gần như song song với lịch sử hình thành loài
người. Tài sản là một công cụ của đời sống xã hội nên khái niệm về tài sản
không phải là một khái niệm thuần túy có tính học thuật mà là một khái
niệm có tính mục đích cao. Khái niệm này phải đáp ứng được các nhu cầu
cần thiết của xã hội. Tài sản không thể được xem xét tách rời các giá trị xã
hội.
Ta có thể hiểu tài sản là của cải được con người sử dụng. Theo nghĩa
này thì tài sản luôn biến đổi và phát triển cùng với sự thay đổi của thời gian,
của điều kiện xã hội, của sự nhận thức con người về giá trị vật chất nên
phạm vi của tài sản qua mỗi thời kì lại được nhìn nhận ở một góc độ khác
nhau. Có thể nhận thấy tài sản là khách thể của quyền sở hữu, nó có thể là
đối tượng của thế giới vật chất hoặc là kết quả của các hoạt động sáng tạo
tinh thần.
Theo điều 163 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005: “Tài sản bao gồm vật,
tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản.”
1
Trong đó vật được hiểu là bộ phận của thế giới khách quan mà con
người có thể cảm nhận được bằng các giác quan của mình. Vật chỉ có ý
nghĩa khi nó trở thành đối tượng trong quan hệ pháp luật nên nếu bộ phận
của thế giới vật chất mà con người không kiểm soát, không chiếm hữu được
nó thì cũng đồng nghĩa với việc con người không tác động được vào nó. Do
đó, gió, không khí, mưa… thuộc về mặt vật chất nhưng không thể được coi
là tài sản về mặt pháp lí. Hơn nữa, là đối tượng của trong quan hệ pháp luật
phải đáp ứng được lợi ích của các bên chủ thể trong quan hệ. Như vậy, muốn
trở thành vật trong dân sự phải thỏa mãn những điều kiện: là bộ phận của thế
giới vật chất, con người chiếm hữu được, mang lại lợi ích cho chủ thể, có thể
đang tồn tại hoặc hình thành trong tương lai.
Tiền theo kinh tế - chính trị học là vật ngang giá chung được sử dụng
làm thước đo giá trị của các loại tài sản khác. Một tài sản được coi là tiền
hiện nay khi nó có giá trị lưu hành trên thị trường.
Giấy tờ có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao lưu dân sự hiện nay,
đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng. Nó
được hiểu là giấy tờ có trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong
giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và
chuyển giao được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay được tồn tại
dưới nhiều dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, hối
phiếu, kì phiếu, công trái…Khác với tiền chỉ do cơ quan duy nhất là do
Ngân hàng nhà nước ban hành thì giấy tờ có giá có thể do rất nhiều cơ quan
ban hành như Chính phủ, ngân hàng, kho bạc, các công ty cổ phần,…; nếu
tiền luôn có mệnh giá nhất định, luôn lưu hành không có thời hạn, không ghi
danh thì giấy tờ có giá có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá, có thể
có thời hạn sử dụng hoặc không có thời hạn sử dụng, có thể ghi danh hoặc
không ghi danh và việc định đoạt về số phận thực tế đối với giấy tờ có giá
cũng không bị hạn chế như việc định đoạt tiền. Cần chú ý các loại giấy tờ
xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản như giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà, giấy đăng kí ô tô,…
không phải là giấy tờ có giá.
Ngoài vật, tiền, giấy tờ có giá thì tài sản còn được xác định là quyền tài
sản và quyền tài sản được quy định tại điều 181 của Bộ luật dân sự 2005:
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong
2
giao lưu dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Quyền tài sản được hiểu theo
nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện
hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu người khác phải thực hiện
một nghĩa vụ đem lại vật chất cho mình. Xét theo ý nghĩa này thì quyền sở
hữu cũng là quyền tài sản (vật quyền). Quyền yêu cầu người khác thực hiện
nghĩa vụ tài sản (trái quyền) cũng là quyền tài sản.
Có thể thấy rằng những loại tài sản được pháp luật thừa nhận tại Điều
163 Bộ luật dân sự là kết quả của quá trình phát triển lưu thông dân sự được
nhà nước thừa nhận. Tuy nhiên, pháp luật thường chậm hơn thực tiễn nên
việc liệt kê sẽ rất có thể là không đầy đủ hoặc không theo kịp sự phát triển
của khoa học và đời sống. Bởi vậy để đi tìm một khái niệm chung nhất cho
tài sản là rất khó. Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội đặc
biệt là với nền kinh tế thị trường thì phạm vi tài sản là không hạn chế trong
đó tài sản vô hình đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển khoa học kĩ
thuật, sản xuất hàng hóa. Do vậy pháp luật ngày càng chú trọng đến việc bảo
vệ quyền sở hữu của các chủ thể đối với sản phẩm trí tuệ do con người tạo ra
như với việc ban hành Luật sở hữu trí tuệ.
Ngoài ra cũng cần phân biệt khái niệm tài sản với khái niệm hàng hóa
trong khoa học chính trị - kinh tế học (là sản phẩm do con người tạo ra có
giá trị và giá trị sử dụng). Giá trị của hàng hóa được được xác định bằng lao
động xã hội đã bỏ ra để sản xuất hàng hóa đó. Vì vậy thấy rằng đất đai, tài
nguyên thiên nhiên là vật (tài sản) chứ không phải hàng hóa. Như vậy tài sản
cần được tiếp cận ở phạm vi rộng hơn so với khái niệm hàng hóa.
Ngày nay, tài sản có thể được hiểu là bất cứ thứ gì có giá trị nằm trong
sự chiếm hữu của một chủ thể, đó là một khái niệm rộng và không giới hạn,
luôn được bồi đắp thêm bởi những giá trị mới mà con người nhận thức ra.
2. Đặc điểm
Từ những nhận định trên ta có thể nêu ra một số đặc điểm của tài sản:
Thứ nhất, tài sản có giá trị thể hiện ở việc chúng đều trị giá được bằng
tiền. Tiền là thước đo giá trị của các loại tài sản khác. Theo Điều 163 thì
những tài sản còn lại như vật, giấy tờ có giá, quyền tài sản đều có thể quy
đổi ra tiền.
Thứ hai, tài sản luôn phải đáp ứng một lợi ích nào đó cho chủ thể có
quyền (cả về vật chất lẫn tinh thần).
3
Thứ ba, tài sản là đối tượng trong lưu thông dân sự, chính bởi như thế
khái niệm về tài sản được mở rộng hay thu hẹp theo từng thời kì để phù hợp
với điều kiện giao lưu dân sự trong xã hội thời đó.
Thứ tư, khái niệm tài sản trong cuộc sống khác với khái niệm tài sản
trong pháp lí. Pháp luật là công cụ thực hiện quyền lực, ý chí của một nhà
nước với các quan hệ xã hội. Bởi vậy nếu như nhà nước không công nhận
một loại tài sản thì nó sẽ không được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật.
Sự quy định đâu là tài sản dựa vào ý chí của nhà nước đưa vào bộ luật dân
sự. Ví dụ như vào thời kì nhà nước phong kiến – chủ nô thì: nô lệ được coi
là một loại tài sản, có thể được trao đổi, mua bán qua lại, đến nhà nước xã
hội chủ nghĩa với chính sách tôn trọng và đảm bảo nhân quyền thì con người
không bao giờ bị coi là tài sản cả mà họ là chủ của tài sản.
3. Phân loại.
Tài sản là một chế định quan trọng của luật dân sự mà trong đó việc
phân loại tài sản có một ý nghĩa rất lớn, bởi lẽ tài sản là công cụ của đời
sống xã hội. Nó liên quan tới hàng loạt các vấn đề pháp lý như: thuế, bảo
đảm nghĩa vụ dân sự, thừa kế, hiệu lực của hợp đồng, bán tài sản, công khai
các quyền tài sản, thương mại, tư pháp quốc tế.
Thứ nhất, dựa vào đặc tính vật lí của tài sản theo Điều 174 Bộ luật dân
sự 2005 quy định:
“1. Bất động sản là các tài sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn
liền với nhà, công trình xây dựng đó;
c) Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
d) Các tài sản khác do pháp luật quy định.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.”
Cách phân loại này chủ yếu dựa vào đặc tính vật lí của tài sản là có thể
di dời được hay không thể di dời được (một số nước còn dựa vào cả công
dụng của tài sản như luật của Pháp coi cả hạt giống, máy móc nông cụ… là
bất động sản). Đây là cách phân loại truyền thống mà khá nhiều nước trên
thế giới lựa chọn vì các quy phạm điều chỉnh hai loại tài sản này là hai hệ
thống riêng rẽ độc lập với nhau khi áp dụng cho việc xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự liên quan. Nhà làm luật cũng định nghĩa bất động sản theo
4
phương pháp liệt kê căn cứ vào đó thì hiện nay đất đai và những tài sản gắn
liền với đất đai như nhà, công trình xây dựng, cây cối, tài nguyên… sẽ được
coi là bất động sản. Tuy nhiên điều luật đã quy định về bất động sản một
cách mở chứ không liệt kê khép kín như khái niệm tài sản của Điều 163 vì
vậy những tài sản khác mà pháp luật quy định vẫn được coi là bất động sản
(như quyền sử dụng đất). Việc phân loại động sản và bất động sản có nhiều
ý nghĩa như:
Xác lập thủ tục đăng kí đới với tài sản (quyền sở hữu với bất động sản
được đăng kí theo quy định của Bộ luật dân sự và pháp luật về đăng kí bất
động sản, quyền sở hữu với động sản thì không đăng kí trừ trường hợp pháp
luật quy định khác);
Xác định thời điểm chuyển giao quyền sử hữu đối với tài sản (khoản 1,
Điều 168 BLDS 2005 quy định việc chuyển giao quyền sở hữu đối với bất
động sản có hiệu lực từ thời điểm đăng kí quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác, còn khoản 2, Điều 168 quy định việc chuyển quyền
sở hữu đối với động sản có hiệu lực kể từ thời điểm động sản được chuyển
giao trừ trường hợp pháp luật có quy định khác);
Xác định được các quyền năng của chủ thể quyền đối với từng loại tài
sản nhất định (pháp luật ghi nhận cho các chủ thể có những quyền năng nhất
định đối cới tài sản của người khác để bất động sản có thể khai thác được
công dụng một cách tốt nhất như quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền
kề);
Xác định địa điểm thực hiện nghĩa vụ đối với các giao dịch có đối
tượng là bất động sản trong trường hợp các bên không có thỏa thuận (theo
quy định tại Điều 284 BLDS 2005 thì trong trường hợp các bên không có
thỏa thuận khác thì địa điểm thực hiện nghĩa vụ là nơi có bất động sản nếu
đối tượng của nghĩa vụ là bất động sản. Nếu đối tượng không phải là bất
động sản thì địa điểm thực hiện nghĩa vụ là nơi cư trú, trụ sở của người có
quyền);
Xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu (như tại Điều 239 BLDS 2005
quy định nếu vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu là động
sản sẽ thuộc sở hữu của người phát hiện còn nếu vật là bất động sản thì sẽ
thuộc sở hữu nhà nước…);
5
Xác định hình thức của hợp đồng (theo quy định của Điều 459 BLDS
2005 thì việc mua bán đấu giá bất động sản phải được thành lập thành văn
bản có công chứng, chứng thực hoặc phải được đăng kí nếu pháp luật có quy
định…);
Là căn cứ để xác định thời hạn thời hiệu và các thủ tục khác (thời hạn
chuộc lại với đối với tài sản đã bán trong hợp đồng mua bán có chuộc lại đối
với động sản là một năm và đối với bất động sản là năm năm theo điều 462
BLDS);
Xác định phương thức kiện dân sự: Theo điều 257; Điều 258 BLDS
2005 thì điều kiện để chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp có quyền
yêu cầu kiện đòi lại tài sản đối với động sản và bất động sản là khác nhau.);
Xác định tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự.
Thứ hai, dựa vào nguồn gốc và cách thức hình thành tài sản thì có thể
phân tài sản thành tài sản gốc và hoa lợi, lợi tức.
Tài sản gốc được hiểu là tài sản khi sử dụng khai thác công dụng thì
sinh ra lợi ích vật chất nhất định.
Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại (hoa quả thu hoạch từ
cây cối, con nghé do con trâu đẻ ra)
Lợi tức là các khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản mà không
phải do tài sản tự sinh ra (tiền cho thuê nhà, tiền lãi…)
Như vậy cả hoa lợi và lợi tức đều là những tài sản sinh ra từ việc khai
thác và sử dụng tài sản gốc.
Việc phân loại tài sản theo hướng này có những ý nghĩa nhất định: xác
định chủ sở hữu của tài sản (hoa lợi sẽ thuộc chủ sở hữu của tài sản, lợi tức
sẽ thuộc về người có quyền sử dụng hợp pháp tài sản đó.);
Xác định trong một số trường hợp người chiếm hữu tài sản gốc chỉ
được hưởng hoa lợi sinh ra từ tài sản gốc mà không được khai thác công
dụng của tài sản để thu lợi tức (trường hợp cầm giữ tài sản trong hợp đồng
song vụ thì bên cầm giữ tài sản có quyền thu hoa lợi từ tài sản cầm giữ và
được dùng để bù trừ nghĩa vụ theo Điều 416 BLDS 2005).
Thứ ba, căn cứ vào giá trị của tài sản, vai trò, ý nghĩa của tài sản đối với
chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng, quản lí nhà nước thì ta phân ra tài sản
có đăng kí quyền sở hữu, tài sản không đăng kí quyền sở hữu.
6
Tài sản có đăng kí quyền sở hữu là tài sản mà pháp luật quy định bắt
buộc phải đăng kí, nếu không đăng kí sẽ không được công nhận quyền sở
hữu đối với tài sản đó (nhà, máy bay, súng săn…)
Tài sản không đăng kí quyền sở hữu là tài sản mà theo quy định của
pháp luật không buộc phải đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
(quần áo, đồ chơi…).
Với cách phân loại tài sản này cũng có ý nghĩa pháp lí trong một số
trường hợp nhất định:
Xác định thời điểm phát sinh, chuyển giao quyền sở hữu (đối với tài sản
có đăng kí quyền sở hữu thì theo quy định của pháp luật quyền sở hữu chỉ
phát sinh khi hoàn thành thủ tục đăng kí, không phụ thuộc tài sản đó là bất
động sản hay động sản căn cứ vào Điều 439 BLDS 2005);
Xác định phương thức kiện dân sự (kiện vật quyền hay kiện trái quyền
được quy định từ Điều 257 đến Điều 260 BLDS 2005.);
Xác định hình thức của hợp đồng (theo quy định của Điều 467 BLDS
2005 thì tặng cho bất động sản phải được thành lập văn bản có công chứng,
chứng thực hoặc phải đăng kí, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản
phải đăng kí quyền sở hữu.).
Thứ tư, căn cứ vào chế độ pháp lí đối với tài sản, người ta phân chia tài
sản thành ba loại: tài sản cấm lưu thông, tài sản hạn chế lưu thông và tài sản
tự do lưu thông.
Tài sản cấm lưu thông là tài sản mà ví lợi ích của nó đối với nền kinh tế
quốc dân, ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia mà Nhà nước cấm giao dịch (vũ
khí quân dụng, ma túy, chất phóng xạ, động vật quý hiếm…)
Tài sản hạn chế lưu thông là tài sản khi dịch chuyển trong giao dịch dân
sự nhất thiết phải tuân theo những quy định riêng pháp luật. Trong một số
trường hợp phải được sự đồng ý, cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (vũ khí thể thao, thanh toán bằng ngoại tệ với số lượng lớn…)
Tài sản lưu thông tự do là những tài sản mà không có quy định nào của
pháp luật hạn chế việc dịch chuyển đối với tài sản đó, nếu có sự dịch chuyển
thì các chủ thể không cần phải xin phép.
Việc xác định đúng loại tài sản có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định
hiệu lực pháp lí của giao dịch dân sự. Cụ thể: tài sản cấm lưu thông không
thể trở thành đối tượng trong giao dịch dân sự. Chính vì vậy nếu các bên vẫn
7
xác lập giao dịch này thì giao dịc đó sẽ là giao dịch vô hiệu tuyệt đối do có
nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật; và khi đó tài sản giao dịch, hoa
lợi, lợi tức sẽ bị tịch thu sung công quỹ nhà nước.
Thứ năm, căn cứ vào thời điểm hình thành tài sản và thời điểm xác lập
quyền sở hữu cho chủ sở hữu, tài sản được phân thành loại tài sản hiện có và
tài sản hình thành trong tương lai.
Tài sản hiện có là tài sản đã có và tồn tại vào thời điểm hiện tại và đã
được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu của tài sản đó.
Tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản chưa tồn tại hoặc
chưa hình thành đồng bộ vào thời điểm xem xét (thường là thời điểm xác lập
nghĩa vụ hoặc giao dịch dân được giao kết) nhưng chắc chắn sẽ được hình
thành trong tương lai (tiền lương sẽ được hưởng, xe máy đang được lắp
ráp…). Ngoài ra tài sản hình thành trong tương lai còn gồm cả tài sản đã
được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch nhưng sau thời điểm đó thì
tài sản mới thuộc sở hữu của các bên (tài sản có được do mua bán, trao đổi..)
Với việc phân loại tài sản này ta có thể thấy ý nghĩa của nó:
Xác định đối tượng được phép giao dịch (Điều 282 BLDS 2005 có quy
định đối tượng của nghĩa vụ dân sựu phải được xác định cụ thể và theo Điều
411 BLDS 2005 thì trong trường hợp ngay từ khi kí kết, hợp đồng có đối
tượng không thể thực hiện được vì lí do khách quan thì hợp đồng này vô
hiệu.);
Xác định hình thức thủ tục xác lập (Việc xác lập giao dịch có đối tượng
là tài sản sẽ có trong tương lai buộc các bên phải bàn giao những giấy tờ
chứng minh mình là người có quyền sở hữu đối với tài sản sẽ hình thành
trong tương lai đó.)
Thứ sáu, căn cứ vào điều 163 BLDS 2005 ta cũng có một cách phân
loại tài sản. Cách phân loại này mang tính chất liệt kê, theo đó thì tài sản
được phân thành: vật, tiền, giấy tờ có giá, các quyền tài sản. Đây là cách
phân loại tài sản hiện hành của pháp luật Việt Nam, bên cạnh một số hạn chế
thì nó mang nhiều ý nghĩa pháp lí. Khi đối tượng của giao dịch là các loại tài
sản khác nhau thì phương thức thực hiện cũng sẽ được áp dụng khác nhau.
Như vậy việc phân thành các loại tài sản như trên sẽ có ý nghĩa trong việc
hình thành nên các quy phạm điều chỉnh của pháp luật sao cho phù hợp với
chúng để tránh gây ra tranh chấp trong quá trình giao thông dân sự. Bên
8