Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.33 KB, 19 trang )

• LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao
so với khu vực. Với mức độ tăng trưởng như hiện nay, nhu cầu vốn cho nền kinh tế
là hết sức lớn. Thực tế cho thấy phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam năng lực tài
chính còn yếu kém, hoạt động chủ yếu dựa trên nguồn vốn vay từ các tổ chức tín
dụng. Từ đó khẳng định các tổ chức tín dụng là một kênh cung cấp vốn quan trọng
bậc nhất của nền kinh tế Việt Nam. Để hình thành nên một hệ thống các tổ chức tín
dụng vững mạnh và ổn định, trước hết cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật
chặt chẽ,đồng bộ, hiệu quả. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của
pháp luật cũng như thực tiễn pháp lý của hoạt động cho vay, đặc biệt là hoạt động
cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng là điều hết sức cần thiết,
từ đó chúng ta có thể đưa ra những phương hướng hoàn thiện pháp luật, góp phần
xây dựng nên hành lang pháp lý an toàn, thông thoáng và hiệu quả, thúc đẩy sự
phát triển của hoạt động cho vay nói riêng và hoạt động của các tổ chức tín dụng
nói chung.
NỘI DUNG VẤN ĐỀ
I. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1. Khái niệm hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín
dụng
Theo quy định Điều 17 Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng
12 năm 2001 của Thống đống ngân hàng nhà nước, Về việc ban hành Quy chế cho
vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng: “Việc cho vay của tổ chức tín dụng và
khách hàng vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có
nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn
vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương
thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận”.
Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng ( HĐTD) của tổ chức tín dụng
(TCTD) là một hoạt động cho vay dựa trên hình thức pháp lí của quan hệ cho vay
giữa tổ chức tín dụng với khách hàng là hợp đồng tín dụng; tức là, một hoạt động
cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho khách hàng, trong đó tổ chức tín dụng giao


cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất
định theo thỏa thuận được ghi nhận trong hợp đồng tín dụng giữa hai bên chủ thể
trong quan hệ cho vay, với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Tổ chức tín dụng
có quyền cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn thông qua hợp đồng tín dụng nhằm
đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống. Khi cho vay, tổ chức tín
dụng phải tuân thủ các nguyên tắc, quy chế pháp lý về cho vay.
2. Đặc điểm hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín
dụng
Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng luôn mang
những yếu tố cấu thành cơ bản của quan hệ cho vay nói chung. Ngoài ra, hoạt động
cho vay của tổ chức tín dụng còn có những dấu hiệu có tính đặc thù sau:
Thứ nhất, việc cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động nghề nghiệp kinh
doanh mang tính chức năng. Các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng cũng
có thể thực hiện việc cho vay đối với khách hàng như một hoạt động kinh doanh
nhưng hoạt động cho vay của tổ chức này hoàn toàn không phải là nghề nghiệp
kinh mang tính chức năng.
Thứ hai, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng là một nghề kinh doanh có
điều kiện, thể hiện ở chỗ hoạt động cho vay chuyên nghiệp của tổ chức tín dụng
phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định như phải có vốn pháp định, phải được
Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động ngân hàng trước khi tiến hành việc
đăng ký kinh doanh theo luật định.
Thứ ba, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ngoài sự điều chỉnh của pháp
luật về hợp đồng còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về Ngân hàng,
kể cả tập quán thương mại về ngân hàng.
3. Các nguyên tắc của hoạt động cho vay theo HĐTD của TCTD
Nguyên tắc tránh rủi ro, bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng: trong
hoạt động ngân hàng thường có tính rủi ro rất cao và thường mang tính chất dây
chuyền đối với nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội. Để tránh những rủi ro này, các
tổ chức tín dụng ngày nay thường thực hiện việc thẩm định tín dụng với tám biện
pháp thẩm định sau: tính cách người đi vay (character), tư cách của người đi vay

(capacity), khả năng trả nợ (capability), dòng tiền (cashflow), vốn (capital), điều
kiện hoạt động (conditions), tài sản chung (collectability) và tài sản thế chấp
(collateral).
Nguyên tắc phải sử dụng vốn vay đúng mục đích: nguyên tắc này đảm bảo
cho các tổ chức tín dụng tránh được những rủi ro từ bên vay, đồng thời đảm bảo
được tính thực hiện hợp đồng, nếu bên vay vi phạm nguyên tắc này thì bên cho vay
có quyền huỷ bỏ hợp đồng và bên vay phải chịu sự điều chỉnh theo pháp luật.
Nguyên tắc hoàn trả khoản tín dụng đúng hạn cả gốc và lãi theo thoả thuận:
Bên vay phải đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc này. Trường hợp bên vay có thể
trả chậm hơn thời han quy định nếu có sự gia hạn và được bên cho vay chấp thuận,
nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc này, thanh toán cả gốc và lãi theo đúng thời
gian đã gia hạn.
4. Phân loại hoạt động cho vay theo HĐTD của TCTD
Với sự phát triển không ngừng và đa dạng hóa nhiều hoạt động ngân hàng hiện
nay, trong thực tế có rất nhiều hình thức cho vay mà mỗi một tổ chức tín dụng đã
tự xây dựng nên. Ở đây chúng ta chỉ đưa ra một số loại dựa vào những căn cứ sau
đây:
• Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn vay
Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách
hàng với thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thỏa thuận là một năm. Hình thức
này chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động của khách hàng trong hoạt động
kinh doanh hoặc thỏa mãn nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong một thời hạn
ngắn.
Cho vay trung và dài hạn: hình thức này khác cho vay ngắn hạn là với thời gian
thỏa thuận là từ trên một năm trở lên. Người đi vay sử dụng hình thức này để thỏa
mãn nhu cầu mua sắm tài sản cố định trong kinh doanh, thỏa mãn nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng như mua sắm nhà ở, phương tiện đi lại…
• Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay
Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đó nghĩa vụ trả nợ
tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của bên vay hoặc của người thứ ba. Việc cho

vay này phải được bảo đảm dưới hình thức ký kết cả hai loại hợp đồng, bao gồm
hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay (hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế
chấp, hợp đồng bảo lãnh). Pháp luật cũng cho các bên có thể thỏa thuận lập một
hợp đồng nên trong trường hợp này các thỏa thuận về bảo đảm tiền vay được xem
là một bộ phận hợp thành của hợp đồng có bảo đảm bằng tài sản.
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đó nghĩa vụ
hoàn trả tiền vay không được bảo đảm bằng các tài sản cụ thể, xác định của khách
hàng vay hoặc của -người thứ ba. Thông thường các bên chỉ giao kết một hợp đồng
duy nhất là hợp đồng tín dụng. Trong trường hợp tổ chức tín dụng cho vay có bảo
đảm bằng tín chấp thì vẫn phải xác lập một văn bản cam kết bảo lãnh bằng uy tín
của mình và gửi cho tổ chức tín dụng để khách hàng vay có thể được tổ chức tín
dụng chấp nhận cho vay.
• Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
Cho vay kinh doanh: là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết số tiền vay
sử dụng vào mục đích thực hiện các công việc kinh doanh của mình. Nếu bên vay
vi phạm sử dụng vào những mục đích khác thì bên cho vay có quyền áp dụng các
chế tài thích hợp như đình chỉ việc sử dụng vốn vay hoặc thu hồi vốn vay trước
thời hạn…
Cho vay tiêu dùng: bên tham gia vay cam kết số tiền vay sẽ được sử dụng vào
việc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như mua sắm đồ gia dụng, mua sắm
nhà cửa hoặc phương tiện đi lại, hay sử dụng vào mục đích học tập…
II. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng:
Khái niệm:
Hợp đồng tín dụng là là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên
cho vay) với khách hàng (bên vay, tổ chức, cá nhân) nhằm xác lập quyền và nghĩa
vụ nhất định giữa các bên theo quy định của pháp luật, theo đó tổ chức tín dụng
(bên cho vay) chuyển giao một khoản vốn tiền tệ cho khách hàng (bên vay) sử dụng
trong một thời hạn nhất định với điều kiện khách hàng sẽ hoàn trả khoản tiền đó

(tiền gốc) và lãi vay sau một thời gian nhất định.
Đặc điểm của hợp đồng tín dụng:
Hợp đồng tín dụng phải được lập dưới hình thức bằng văn bản.
Nội dung hợp đồng thể hiện sự đồng ý giữa bên cho vay chấp nhận cho bên vay
sử dụng một số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả
dựa trên sự tín nhiệm.
Về chủ thể: bên cho vay bắt buộc phải là tổ chức tín dụng, có đủ điều kiện luật
định, còn bên vay có thể là tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện vay vốn do pháp luật
quy định. Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền, bao gồm tiền mặt
và bút tệ.
Hợp đồng tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi ro cho quyền lợi của bên cho vay.
Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn.
Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của bên
cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước để làm cơ sở và tiền đề cho việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay.
2. Chủ thể của hợp đồng tín dụng:
a. Bên cho vay:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, một tổ chức tín dụng muốn trở
thành chủ thể cho vay trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn các điều kiện sau:
• Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.
• Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.
• Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.
• Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng
với khách hàng.
Đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng (TCTD), muốn trở thành
chủ thể cho vay trong hoạt động tín dụng (HĐTD) thì chỉ cần thoả mãn các điều
kiện như có giấy phép hoạt động ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh và có người đại diện hợp pháp. Trong giấy phép hoạt động ngân hàng và
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động
cho vay là hoạt động ngân hàng đươc phép thực hiện.

b. Bên vay:
Bên vay là tổ chức, cá nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên tắc,
những điều kiện này có tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi vay trong mọi
hợp đồng tín dụng):
- Bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với tổ
chức là pháp nhân hay không phải là pháp nhân thì phải có người đại diện hợp
pháp có đủ năng lực và thẩm quyền đại diện cho tổ chức đó khi ký kết hợp đồng
tín dụng.
- Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.
Ngoài ra bên vay còn có một số điều kiện chung sau (những điều kiện này
chỉ có tính bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi chúng được các bên thoả
thuận rõ trong hợp đồng tín dụng):
• Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
• Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả.
• Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của người
thứ ba trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh.
3. Giao kết hợp đồng tín dụng:
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp
vụ – pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp
đồng tín dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây:
Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực hiện
dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí
mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.
Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá
nhân có nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm
theo các giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay
phương án sử dụng vốn vay. Các tài liệu này do bên vay gửi cho tổ chức tín dụng
để xem xét, thẩm định và được coi như bằng chứng đề nghị giao kết hợp đòng tín
dụng.
Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng ở Việt Nam trong những năm gần đây

cho thấy, có nhiều trường hợp bên chủ động giao kết hợp đồng tín dụng lại chính là
tổ chức tín dụng chứ không phải là khách hàng, nhằm tăng cường khả năng cạnh
tranh và mở rộng thị trường tín dụng. Những tổ chức tín dụng đã từng đi tiên
phong trong việc lựa chọn phương thức này chính là các ngân hàng cổ phần, ngân
hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trong trường hợp
này, văn bản đề nghị là thư chào mời được tổ chức tín dụng gửi cho tổ chức, cá
nhân có khả năng tài chính mạnh, có uy tín trên thương trường và có nhu cầu vay
vốn thường xuyên (gọi là những khách hàng tiềm năng) mà tổ chức tín dụng lựa
chọn là bên đối tác. Trong thư chào mời, bên đề nghị (tổ chức tín dụng) thường
đưa ra những điều kiện có tính chất tổng quát nhất kèm theo những ước khoản cụ
thể để cho bên kia xem xét chấp nhận. Tuy nhiên, do một thư chào mời có thể
không nhất thiết phải là một văn bản dự thảo hợp đồng nên trong thực tế, nếu bên
tiếp nhận thư chào mời có hành vi chấp nhận toàn bộ nội dung của thư chào mời
đó thì không vì thế mà hợp đồng tín dụng được coi là đã hình thành.
Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng:
Thẩm định hồ sơ tín dụng: là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ –
pháp lý do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với
bên vay, trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không. Do tính đặc biệt quan
trọng của giai đoạn này trong cả quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp luật đòi
hỏi bên cho vay là tổ chức tín dụng phải triệt để tuân thủ nguyên tắc đảm bảo tính
độc lập, phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới giữa khâu
thẩm định và khâu quyết định cho vay. Sau khi đã thẩm định hồ sơ tín dụng của
khách hàng, bên cho vay có toàn quyền quyết định việc chấp nhận hoặc từ chối cho
vay. Trong trường hợp từ chối cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách
hàng bằng văn bản và phải nêu rõ lí do từ chối cho vay. Việc từ chối cho vay
không có căn cứ xác đáng có thể là lí do để khách hàng thực hiện hành vi đối
kháng với tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do bên
nhận đề nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho bên kia với
nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Theo đó, hành vi chấp

nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị như một lời tuyên bố đồng ý
ký kết hợp đồng chứ không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng giữa các bên.
Có nghĩa là việc giao kết hợp đồng tín dụng chỉ được xem là hoàn thành sau khi
các bên đã trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của
hợp đồng (bao gồm các điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy
nghi) và người đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào bản hợp
đồng tín dụng.
Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng: Đây là giai đoạn cuối
cùng, cũng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. Trong
giai đoạn này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín
dụng. Giai đoạn này được coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã chính thức ký
tên vào văn bản hợp đồng tín dụng.
4. Hình thức của hợp đồng tín dụng:
Theo quy định tại Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, mọi hợp đồng tín dụng
đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp luật quy
định như vậy là vì những ưu điểm sau đây:
- Hợp đồng tín dụng được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ
thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
tín dụng.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố
công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho
người thứ ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý, an
toàn trong trường hợp cần thiết.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ
quan có trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn.
Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn
bản viết và văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương
tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản.
Các hợp đồng điện tử được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và
có giá trị chứng cứ trong quá trình giao dịch.

×