Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

thực trạng hoath động và một số biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro cho các ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.91 KB, 27 trang )

Mục lục
Trang
Lời nói đầu 2
nộI DUNG
Phần I: Lý luận về những rủi ro trong hoạt động ngân Hàng 3
I/ Tổng quan về các nghiệp vụ trong hoạt động ngân hàng 3
1. Khái niệm 3
2. Những nghiệp vụ chủ yếu trong hoạt động ngân hàng 3
II/ Rủi ro trong hoạt động ngân hàng 5
1. Rủi ro 5
2. Rủi ro tồn tại khách quan trong hoạt động ngân hàng 5
III/ Những rủi ro đặc thù trong hoạt động ngân hàng 6
1. Rủi ro tín dụng 6
2. Rủi ro lãi suất 8
3. Rủi ro hối đoái 9
4. Rủi ro thanh toán 10
5. Rủi ro nguồn vốn 11
6. Rủi ro hoạt động ngoại bảng 12
7. Rủi ro công nghệ hoạt động 12
8. Rủi ro quốc gia 13
PHần II

: thực trạng hoạt động ngân hàng của Việt nam
và biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng 14
I/ Thực trạng hoạt động ngân hàng ở Việt nam
trong thời gian qua 14
II/ Một số biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro 17
Kết luận 24
Tài liệu tham khảo 25
1
lời nói đầu


Sự ra đời hoạt động ngân hàng đánh dấu một b ớc ngoặt trong lịch
sử phát triển và tiến bộ của con ngời. Lênin đã coi sự ra đời ngân
hàng nh Sự phát minh ra lửa hay Sự phát minh ra bánh xe. Vai trò
to lớn của hoạt động ngân hàng đối với sự phát triển nền kinh tế và xã
hội đợc xuất phát từ chính những đặc trng của nó. Hoạt động kinh
doanh ngân hàng là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt bởi hàng hoá
trong quá trình kinh doanh là tiền tệ-loại hàng hoá có tính nhạy cảm
và sức cuốn hút đặc biệt. Chính tính đặc biệt riêng có này của tiền tệ
mà hoạt động kinh doanh ngân hàng vừa là một loại hoạt động đem
lại hiệu quả rất lớn đối với nền kinh tế, vừa là một lĩnh vực mà khả
năng xảy ra rủi ro cao.
Nghiên cứu về rủi ro trong hoạt động ngân hàng là một việc làm
hết sức cần thiết đối với hệ thống ngân hàng thơng mại của Việt nam.
Việc nghiên cứu này sẽ cho ta thấy rõ đợc các loại rủi ro, nguyên
nhân xuất hiện rủi ro và hậu quả của nó, và để từ đó đề ra các giải
pháp hữu hiệu, thiết thực nhằm hạn chế rủi ro, giảm thiểu tổn thất cho
hệ thống ngân hàng.
Xuất phát từ những vấn đề trong lý thuyết cũng nh thực trạng
hoạt động của hệ thống ngân hàng thơng mại Việt nam, em mạnh dạn
lựa chọn đề tài nghiên cứu:
"Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở Việt nam"
và cho rằng việc tìm hiểu và nghiên cứu ván đề này là hết sức cần thiết đối
với một sinh viên khoa Ngân hàng-Tài chính của trờng Đại học KTQD.
Mặc dù đã có sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình về mặt khoa học cũng nh tài
liệu phục vụ bài viết của cô giáo TS. Nguyễn Thị Bất, nhng do kiến thức còn
hạn chế nên bài viết của em sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót cần bổ
sung. Em rất mong nhận đợc sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết đợc
hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cám ơn.
Sinh viên: Phạm Thu Hơng

2
Phần I
Lý luận về những rủi ro trong hoạt động ngân hàng
I/ Tổng quan về các nghiệp vụ trong hoạt động
ngân hàng
1/ Khái niệm
Khi nghiên cứu về ngân hàng, do có sự xâm nhập mạnh mẽ
của các định chế tài chính phi ngân hàng và sự phát triển đa dạng của
bản thân ngành ngân hàng nên rất khó để đa ra một định nghĩa chính
xác, ngắn gọn về ngân hàng.
ở Việt Nam, luật các tổ chức tín dụng đã đa ra một định nghĩa
về ngân hàng nh sau: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng đợc
thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác có liên quan. Trong đó hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thờng xuyên là nhận
tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán.
Hệ thống ngân hàng hiện nay đợc chia thành hai bộ phận chính:
Ngân hàng Trung Ương và các ngân hàng trung gian. Vì sự liên đối
mật thiết với nhau trên thị trờng tiền tệ và tài chính, nhiều tổ chức
không phải là ngân hàng nhng cũng tham gia vào hoạt động cho vay
và kinh doanh tiền tệ nh các tổ chức tín dụng, công ty Bảo hiểm, công
ty Tài chính, các quỹ tiền tệ đợc nhiều nớc xem nh là bộ phận thứ
ba của hệ thống ngân hàng .
2/ Những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng
Nh phần trên đã nghiên cứu, hệ thống ngân hàng hiện nay đợc
chia thành hai bộ phận chính, và mỗi bộ phận này sẽ thực hiện những
chức năng riêng có của nó.
ở tất cả các nớc, Ngân hàng Trung Ương là cơ quan duy nhất
phát hành giấy bạc để đa vào lu hành trong nền kinh tế. Nó có nhiệm

3
vụ là tổ chức in tiền và đa khối lợng tiền giấy vào trong lu thông
thông qua kênh cần thiết, đồng thời lựa chọn, tiêu huỷ các đồng tiền
không đủ tiêu chuẩn lu hành và điều chỉnh cơ cấu tiền theo mệnh giá
giữa các vùng của đất nớc giữa các thời kỳ khác nhau.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Trung ơng còn đóng vai trò là ngân
hàng của các ngân hàng thực hiện. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng
Trung Ương mở tài khoản và quản lý tiền gửi cho hệ thống các Ngân
hàng Thơng mại và các tổ chức tín dụng khác, hay Ngân hàng Trung
Ương có thể cho vay đối với các Ngân hàng Th ơng mại. Mặt khác,
Ngân hàng Trung Ương cũng còn là ngân hàng của Nhà nớc; hoạt
động của Ngân hàng Trung Ương đặt dới sự kiểm soát và điều hành
của cơ quan Nhà nớc, đồng thời Ngân hàng Trung Ương cũng thực
hiện chức năng quản lý Nhà nớc đối với các hoạt động của cả hệ
thống ngân hàng. Hơn nữa, Ngân hàng Trung Ương còn thay mặt cho
Nhà nớc trong việc thực hiện một số quan hệ đối với n ớc ngoài nh
thực hiện việc ký kết các hiệp định về tín dụng, tiền tệ đối với Ngân
hàng Trung Ương các nớc hoặc các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
mà các nớc tham gia. Ngân hàng Trung Ương cũng có quan hệ chặt
chẽ đối với Kho bạc Nhà nớc trong việc thực hiện các khoản chi tiêu
cho Chính phủ.
Còn về các hoạt động của ngân hàng trung gian, trong đó điển
hình là Ngân hàng Thơng mại thì có thể chia thành ba nhóm hoạt
động chính; đó là hoạt động tập trung huy động vốn, hoạt động sử
dụng vốn và các hoạt động trung gian khác.
Về hoạt động tập trung huy động vốn, ngân hàng có thể tạo lập
nguồn vốn thông qua hoạt động mở tài khoản tiền gửi cho khách
hàng, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, hoặc đi vay các ngân
hàng khác. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng Th ơng mại có thể đợc hình
thành từ nhiều nguồn khác nhau nh do Nhà nớc cấp, do các cổ đông

góp vốn hoặc của các bên liên doanh; ngoài ra, vốn chủ sơ hữu còn có
thể do ngân hàng mở rộng các hoạt động nh làm dịch vụ, đại lý
Về hoạt động sử dụng vốn, Ngân hàng Thơng mại có thể cho
vay. Đây hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng Thơng mại và nó
4
cũng phản ánh đúng tính chất của các Ngân hàng Thơng mại là huy
động vốn để cho vay. Bên cạnh đó, Ngân hàng Thơng mại cũng có thể
đầu t kinh doanh chứng khoán, đầu t tài sản cố định
Ngân hàng Thơng mại còn thực hiện một số hoạt động trung
gian khác nh làm trung gian thanh toán cho khách hàng, chuyển tiền
cho khách hàng, t vấn, môi giới chứng khoán
Chính vì những đặc trng trong hoạt động của các Ngân hàng Th-
ơng mại nh nêu trên mà những rủi ro trong hoạt động ngân hàng th-
ờng gắn liền với các Ngân hàng Thơng mại .
II/ Rủi ro trong hoạt động ngân hàng

1/ Rủi ro
Rủi ro trong kinh doanh đợc hiểu là những thiệt hại trong kinh
doanh có thể nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị kinh doanh.
Từ đó ta có nhận xét:
- Không đợc coi tất cả các thiệt hại trong kinh doanh là rủi ro
trong kinh doanh
- Mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào trình độ quản lý thực có
của đơn vị.
- Rủi ro đợc gây ra bởi nhiều nguyên nhân: khách quan, chủ
quan,có rủi ro bất khả kháng và rủi ro tự nhiên, nhng dù là loại rủi ro
nào cũng đều có khả năng phòng ngừa với các biện pháp có thể khác
nhau.
2/Rủi ro tồn tại khách quan trong hoạt động ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trờng, kinh doanh và rủi ro là hai phạm

trù cặp đôi.
Kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN đã làm đa dạng hoá các
thành phần kinh tế, tạo sự bình đẳng trong hoạt động của các thành
phần này và thúc đẩy sự cạnh tranh lẫn nhau một cách lành mạnh.
Rủi ro tuy là sự bất trắc gây thiệt hại không mong đợi song lại
là hiện tợng dồng hành với các hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị
5
trờng, trong quá trình cạnh tranh. Rủi ro xuất hiện ở những điểm yếu,
kém hiệu quả, mất cân đối trong phát triển kinh tế. Rủi ro vừa là
nguyên nhân, vừa là hậu quả của những hoạt động kinh tế không có
hiệu quả. Nó tạo tiền đề cho quá trình đào thải tự nhiên của các
doanh nghiệp yếu kém, thúc đẩy sự chấn chỉnh, thích nghi của các
doanh nghiệp, tạo xu hớng phát triển ổn định và có hiệu quả cho nền
kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế thị trờng, hoạt động kinh doanh của các
Ngân hàng Thơng mại cũng không nằm ngoài sự tác động trên. Thậm
chí, với hoạt động ngân hàng, hầu nh không có loại nghiệp vụ nào,
không có loại dịch vụ nào của ngân hàng là không có rủi ro bởi một
lẽ là hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thơng mại trong nền kinh
tế thị trờng là một hoạt động rất nhậy cảm, mọi biến động trong nền
kinh tế-xã hội đều nhanh chóng tác động đến hoạt động ngân hàng,
có thể gây nên những xaó trộn bất ngờ và dẫn đến hiệu quả của ngân
hàng bị giảm sút một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thơng mại luôn chứa đựng những rủi ro tiềm
ẩn, nó có thể xẩy ra bất cứ lúc nào.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực đặc biệt do
hàng hoá của nó là tiền tệ-loại hàng hoá có tính nhạy cảm và sức
cuốn hút rất lớn; vì vậy mà rủi ro trong kinh doanh ngân hàng cũng
rất lớn và đa dạng.
Do vậy, nhận thức rõ từng loại rủi ro, đề ra những biện pháp

ngăn chặn phòng chống hữu hiệu để hạn chế thấp nhất rủi ro luôn là
vấn đề cấp bách thờng xuyên liên tục tồn tại song song với hoạt động
của ngân hàng.
III/ Những rủi ro đặc thù trong kinh doanh ngân hàng
1/Rủi ro tín dụng
Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng; nó th-
ờng chiếm phần lớn trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cả
6
về khối lợng công việc cũng nh mức độ tạo thuận lợi. Tỷ lệ thuận với
nó là mức độ rủi ro của nghiệp vụ này cũng chiếm phần lớn trong
tổng mức rủi ro của hoạt động ngân hàng.
Rủi ro tín dụng phát sinh trong trờng hợp ngân hàng không thu
đợc đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay. Nói cách khác, rủi ro tín
dụng là khả năng xảy ra do khách hàng không thực hiện trả nợ theo
các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và th ờng xuyên xảy ra
trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi
bên đi vay, trong một giao dịch nào đó, không thực hiện đợc việc
thanh toán tiền vay theo thời hạn và điều kiện trong hợp đồng làm
cho ngời cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính.
Rủi ro tín dụng có muôn hình muôn vẻ, với nhiều hình thái,
cung bậc khác nhau, chúng tiềm ẩn trong suốt quá trình tr ớc, trong và
sau khi cho vay và biểu hiện ra bên ngoài là món vay không thu hồi
đợc, nợ quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn
Để xem xét thực trạng rủi ro tín dụng của một ngân hàng, ngời
ta thờng phải xét đến tỷ trọng nợ quá hạn cao hay thấp. Trong tỷ
trọng nợ quá hạn, ngời ta lại chia ra tỷ trọng nợ quá hạn dới sáu
tháng, nợ quá hạn dới một năm, nợ quá hạn trên một năm, nợ quá hạn
khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi Các tỷ trọng này càng cao
thì khả năng bảo toàn vốn tín dụng của ngân hàng càng thấp.

Khi nghiên cứu về các nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng, ng -
ời ta đã đa ra một số nguyên nhân chủ yếu sau: nguyên nhân khách
quan và nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân bất khả kháng, thông
tin không cân xứng, sự điều khiển sai lệch của cơ chế thị tr ờng.
Nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân từ phía ngân hàng (mà chủ
yếu là từ sự yếu kém của cán bộ ngân hàng, các nhà quản trị điều
hành không có năng lực, thiếu kiểm tra giám sát), nguyên nhân từ
phía khách hàng
Ngày nay, các Ngân hàng Thơng mại dù đã mở rộng kinh doanh
trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nhng hoạt động cho vay vẫn là nguồn
7
cơ bản tạo nên thu nhập của ngân hàng. Đặc biệt, ở những nớc đang
phát triển nh ở Việt Nam, hoạt động cho vay chiếm tới 90% hoạt
động của ngân hàng, và vì thế mà rủi ro tín dụng là vấn đề cần đ ợc
quan tâm đặc biệt trong hoạt động của các ngân hàng Th ơng mại ở n-
ớc ta hiện nay.
Về bản chất, rủi ro tín dụng là loại rủi ro đa dạng và phức tạp,
và việc quản lý và phòng ngừa nó rất khó khăn. Loại rủi ro này có thể
xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. Bất cứ một rủi ro nào đó của hoạt
động cho vay cũng đa đến rủi ro cho ngân hàng. Ngân hàng không thể
loại trừ khả năng rủi ro, song nếu ngân hàng có những giải pháp đồng
bộ hữu hiệu thì có thể ngăn ngừa rủi ro, hạn chế tối đa những thiệt
hại có thể xảy ra.
2/ Rủi ro về lãi suất
Rủi ro lãi suất là rủi ro phát sinh khi có sự biến động của chênh
lệch lãi suất giữa lãi suất cho vay của ngân hàng với lãi suất phải trả
cho việc đi vay, dẫn đến làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Rủi ro này là hậu quả của những thay đổi lãi suất. Trong nền
kinh tế, lãi suất là yếu tố rất nhạy cảm đối với biến động của nền

kinh tế; hơn nữa, nó là công cụ trong việc thực hiện chính sách tài
chính tiền tệ của Chính phủ. Vì vậy, rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện
thờng xuyên trong hoạt động kinh doanh ngân hàng .
Nh vậy, rủi ro lãi suất là những tác động do biến động lãi suất
đối với hoạt động của ngân hàng. Rủi ro lãi suất bắt nguồn từ mối
quan hệ qua lại của tài sản Có, tài sản Nợ và các hợp đồng ngoại
bảng.
Cơ cấu tài sản Có, tài sản Nợ sẽ quyết định tình trạng rủi ro lãi
suất của một ngân hàng. Tình trạng rủi ro lãi suất phụ thuộc vào mức
độ cân đối giữa tài sản Có và tài sản Nợ mà điển hình là khi ngân
hàng dùng tài sản Nợ ngắn hạn hoặc với lãi suất thay đổi để đầu t vào
tài sản Có dài hạn hơn với lãi suất cố định. Ngân hàng sẽ gặp rủi ro
khi lãi suất ngắn hạn tăng, chi phí ngân hàng tăng lên trong khi thu
nhập ở tài sản Có dài hạn hơn vẫn giữ nguyên. Nếu chênh lệch thu
8
nhập ở tài sản Có không bù đắp chi phí nghiệp vụ kinh doanh thì ngân
hàng sẽ bị ăn mòn vào vốn. Ngợc lại, khi nhận lại vốn với một thời
hạn và lãi suất ấn định, lợi nhuận ngân hàng sẽ bị giảm khi lãi suất
thị trờng bị giảm xuống.
Ngoài ra, rủi ro lãi suất còn có thể xảy ra trong những tr ờng hợp
sau đây:
- Lạm phát tăng, lãi suất buộc phải điều chỉnh theo xu h ớng tăng
lên, chi phí cho hoạt động ngân hàng cũng tăng lên, do đó làm giảm
thu nhập của ngân hàng. Khi lạm phát cao thì thờng có lợi cho ngời
vay vốn và bất lợi cho ngời cho vay.
- Rủi ro lãi suất cũng có thể xảy ra do trình độ thấp kém, bị thua
thiệt trong việc cạnh tranh lãi suất ở thị trờng hoặc do nhiều yếu tố
của nền kinh tế tác động đến lãi suất nh cung, cầu, yếu tố khác của
thị trờng Khi ngân hàng có quyết định điều chỉnh lãi suất theo hớng
giảm xuống, trong khi tiền gửi có kỳ hạn ch a đến hạn trả, tức là

khoản tiền gửi có kỳ hạn lại không giảm tơng ứng, nên cũng dẫn đến
rủi ro lãi suất.
3/ Rủi ro hối đoái
Kinh doanh ngoại hối là một trong những hoạt động của ngân
hàng nhằm phục vụ cho nhu cầu đa dạng của nền kinh tế, tạo điều
kiện cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động thuận lợi.
Rủi ro hối đoái là rủi ro xuất hiện trong nghiệp vụ kinh doanh
ngoại hối do sự biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền.
Nếu tỷ giá hối đoái bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì nhà kinh
doanh có lãi, ngợc lại thì bị lỗ.
Trong nền kinh tế thị trờng, tỷ giá luôn biến động, với biến đổi
của tỷ giá hối đoái, bất kỳ một khoản nợ nào cho dù dài hay ngắn, đối
với một đồng tiền nhất định, đều có thể tạo cho ngân hàng phải đối
mặt với rủi ro tỷ giá hối đoái.
Sự thay đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi giá trị ngoại hối, cụ thể:
- Nếu ngân hàng có d dật về ngoai tệ nào đó, khi ngoại tệ đó lên
giá, ngân hàng sẽ có lãi, ngợc lại ngân hàng sẽ lỗ khi ngoại tệ đó
xuống giá.
9
- Nếu ngân hàng ở vị đoản về loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ
đó lên giá, ngân hàng sẽ lỗ và ngợc lại ngân hàng sẽ có lãi nếu ngoại
tệ đó xuống giá.
Một trạng thái ngoại hối dù ở thế trờng hay thế đoản đều có
nguy cơ gây tổn thất cho các nhà giao dịch. D dật về ngoại tệ càng
lớn thì rủi ro càng cao khi tỷ giá giảm; ng ợc lại, đoản về ngoại tệ nào
đó càng mạnh thì rủi ro cũng không ít khi tỷ giá giảm.
Khi phân biệt tình hình lãi, lỗ ngoại hối theo vị thế ngoại hối,
ngời ta so sánh số lỗ, lãi thực tế xảy ra so với mức lỗ, lãi dự kiến, qua
đó đánh giá chất lợng quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái của một ngân
hàng.

4/Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán phát sinh khi những ngời gửi tiền đồng thời
có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trờng
hợp nh vậy, ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán
hoặc phải bán tài sản Có của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của
ngời gửi tiền.
Mọi ngân hàng hoạt động bình thờng phải đảm bảo đợc khả
năng thanh toán. Khả năng chi trả là khả năng đáp ứng đ ợc nhu cầu
chi trả hiện tại, đột xuất, và trong tơng lai.
Khi ngân hàng thiếu khả năng chi trả, nếu không đợc giải quyết
kịp thời có thể dẫn đến mất khả năng chi trả. Khi ngân hàng thừa khả
năng chi trả sẽ đẫn đến đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu
nhập của ngân hàng giảm.
Rủi ro thanh toán nảy sinh do những nguyên nhân sau:
- Do mất cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn
d thừa quá lớn, trong khi đó thị trờng đầu ra hạn hẹp, nên một số
ngân hàng đã dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung hạn và
dài hạn quá mức, dẫn đến thiếu hụt khả năng chi trả tạm thời cho ng -
ời gửi tiền.
- Khi đến hạn, các khoản cho vay khó thu hồi đ ợc, uy tín của
ngân hàng giảm sút, ngời gửi tiền và ngời đi vay thờng phản ứng trớc
những khó khăn của ngân hàng bằng cách sử dụng hết hạn mức tín
10
dụng để đảm bảo có tiền cho những nhu cầu về sau hoặc rút hết số d
tiền gửi vì sợ có thể không rút đợc.
Tất cả những khía cạnh trên dẫn đến những rủi ro trong thanh
toán của ngân hàng. Các nhà chuyên môn khẳng định rằng đây là loại
rủi ro riêng của ngân hàng và liên quan đến sự sống còn của ngân
hàng. Rủi ro này thờng là hậu quả của một hay nhiều loại rủi ro mà
ngân hàng không lờng trớc đợc.

Trong trờng hợp này, vốn tự có của ngân hàng không có khả
năng bù đắp hết tất cả các khoản mất mát, thiệt hại, ngân hàng dễ rơi
vào tình trạng vỡ nợ hay phá sản.
5/ Rủi ro về nguồn vốn
Rủi ro về nguồn vốn thờng xẩy ra dới hai hình thức: rủi ro thiếu
vốn và rủi ro thừa vốn. Trớc hết, chúng ta cần phải hiểu rõ về khái
niệm thừa và thiếu vốn trong kinh doanh ngân hàng.
Thừa vốn là tình trạng vốn tồn đọng ở quỹ nghiệp vụ, bao gồm
cả quỹ thanh toán tiền gửi ở ngân hàng Nhà Nớc, quỹ tiền mặt, quỹ
dự trữ của ngân hàng.
Thiếu vốn là tình trạng xuất hiện trong các bộ phận thanh toán
của ngân hàng.
Rủi ro do thừa vốn: Ngân hàng Thơng mại thông qua hình thức
đi vay để cho vay nhằm kiếm lợi nhuận, còn nguồn vốn tự có chỉ
là cái đệm chống đỡ sự sụt giá của các tài sản Có. Khi nguồn vốn
huy động của ngân hàng bị ứ đọng có nghĩa là ngân hàng không cho
vay ra đợc hoặc không sử dụng hết, trong khi đó ngân hàng vẫn phải
trả lãi cho ngời gửi tiền, chi các chi phí nghiệp vụ, các chi phí quản
lý. Nếu không khắc phục tình trạng này thì đến một chừng mực nào
đó, mức độ thua lỗ lớn sẽ dẫn đến việc đóng cửa ngân hàng.
Rủi ro do thiếu vốn: Thừa vốn đã gây khó khăn cho ngân hàng
thì việc thiếu vốn còn tệ hại hơn nhiều. Rủi ro thiếu vốn không thể l -
ờng hết mức độ của nó gây ra vì vốn của ngân hàng phần lớn là vốn
huy động (vốn đi vay) của xã hội để cho vay ra. Nếu thiếu vốn trong
thanh toán ngân hàng không thể thanh toán cho khách hàng khi họ có
nhu cầu rút tiền. Nếu với các ngành kinh tế khác thì việc thanh toán
chỉ là một phần vốn của đơn vị và có thể sẽ không khó khăn trong
11
việc khất nợ với khách hàng (tất nhiên việc làm này không thể kéo
dài và thờng xuyên), nhng với hoạt động của ngân hàng, khi một

khách hàng bị khất nợ sẽ kéo theo hàng loạt khách hàng sẽ đến ngân
hàng để rút tiền. Điều xảy ra khi đó sẽ là hoạt động của ngân hàng bị
xáo trộn, mà khả năng cao nhất có thể xảy ra đó là tuyên bố mất khả
năng thanh toán và phá sản. Nh vậy, loại rủi ro này rất nguy hiểm,
khó lờng hết đợc hậu quả, thậm chí nó còn nguy hiểm hơn cả loại rủi
ro bất khả kháng do thiên tai, địch hoạ gây ra bởi lẽ với các loại rủi
ro đó ngân hàng vẫn còn khả năng phục hồi với các loại rủi ro thiếu
vốn thì khả năng xấu nhất của một doanh nghiệp có thể xảy ra.
6/ Rủi ro hoạt động ngoại bảng
Một xu hớng đang phát triển mạnh mẽ trong hoạt động của một
ngân hàng hiện đại là việc mở rộng các nghiệp vụ ngoại bảng. Theo
định nghĩa, hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng
cân đối tài sản (nội bảng), bởi vì các hoạt động này không liên quan
đến việc nắm giữ các chứng khoán hay giấy nhận nợ thứ cấp. Tuy
nhiên, các hoạt động ngoại bảng có thể ảnh hởng đến trạng thái tơng
lai của bảng cân đối tài sản nội bảng bởi vì các hoạt động ngoại bảng
có thể tạo ra những tài sản Có và tài sản Nợ bổ sung cho bảng cân đối
nội bảng.
Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoại bảng là ngân
hàng thu đợc phí trong khi không phải sử dụng đến vốn kinh doanh
cho nên đã khuyến khích phát triển các hoạt động ngoại bảng ngày
càng phát triển. Tuy nhiên, hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Chẳng hạn, trong trờng hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì
ngân hàng phải đứng ra thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do
công ty phát hành. Trong thực tế, những trờng hợp thua lỗ nghiêm
trọng trong các hoạt động ngoại bảng đã trở thành nguyên nhân chính
khiến cho ngân hàng có thể phá sản.
Ngày nay, hoạt động ngoại bảng rất phong phú và đa dạng.
Trong khi một số hoạt động ngoại bảng đợc sử dụng tích cực vào việc
phòng ngừa rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối và rủi ro tín dụng thì

nếu việc quản trị điều hành không hiệu quả hoặc không đánh giá
12
đúng đợc tác dụng của các nghiệp vụ ngoại bảng có thể dẫn đến
những tổn thất to lớn.
7/ Rủi ro công nghệ và hoạt động
Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu t cho phát triển
công nghệ không tạo ra đợc khoản tiết kiệm trong chi phí nh đã dự tính.
Rủi ro về công nghệ có thể gây nên hậu quả là khả năng cạnh tranh của
ngân hàng giảm xuống đáng kể và là nguyên nhân tiềm ẩn của sự phá
sản ngân hàng trong tơng lai.
Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công
nghệ và có thể phát sinh bất cứ khi nào nếu hệ thống công nghệ
bị trục trặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt
động.
Ví dụ, trong giao dịch trên thị trờng liên ngân hàng, ngân
hàng có thể là ngời cho vay hoặc ngời đi vay. Việc thanh toán
giữa các ngân hàng diễn ra hàng ngày.
Thông thờng, hệ thống máy tính của ngân hàng hoạt động
hiệu quả nhng đôi khi cũng xảy ra trục trặc và do đó rủi ro có thể
phát sinh. Rủi ro có thể xảy ra khi hệ thống máy tính đã xử lí sai
các khoản vay của ngân hàng ở mức quá cao, ảnh h ởng đến khả
năng thanh toán của ngân hàng và buộc ngân hàng này phải lập
tức vay tiền từ Ngân hàng Trung Ương để đảm bảo khả năng
thanh toán.
8/ Rủi ro Quốc gia
Ngoài các loại rủi ro ngoại hối, rủi ro lãi suất ngoại tệ nh
đã trình bày ở trên thì ngay cả trong trờng hợp ngân hàng đầu t
bằng bản tệ cho các công ty nớc ngoài có trụ sở ở nớc ngoài cũng
có thể chịu rủi ro đầu t nớc ngoài, đó là rủi ro Quốc gia.
Rủi ro Quốc gia còn nghiêm trọng hơn cả trờng hợp tín dụng

mà ngân hàng gặp phải khi đầu t cho các công ty nội địa. Trong
trờng hợp ngân hàng đầu t cho công ty nớc ngoài thì ngay cả
trong trờng hợp công ty có khả năng và sẵn sàng hoàn trả vốn
vay, nhng cũng có thể không thực hiện đợc, bởi vì Chính phủ nớc
13
nµy cÊm hoÆc h¹n chÕ viÖc thanh to¸n cho n íc ngoµi do dù tr÷
ngo¹i hèi h¹n hÑp hoÆc v× lÝ do chÝnh trÞ.


14
Phần II
Thực trạng hoạt động kinh doanh ngân hàng
Và biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động
ngân hàng của Việt Nam
I/ Thực trạng hoạt động ngân hàng ở Việt Nam
trong thời gian qua
Với chính sách và thành tựu đổi mới nền kinh tế, ngành ngân
hàng Việt nam đã có những thay đổi bớc ngoặt. Việt nam đã xây dựng
đợc những cơ sở quan trọng cho một nền kinh tế thị trờng và một hệ
thống ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trờng.
Hơn 10 năm qua, nhờ tích cực đổi mới và hội nhập, Việt nam đã
đẩy lùi và kiềm chế đợc lạm phát, ổn định vĩ mô, tạo điều kiện cho
nền kinh tế tăng trởng với tốc độ cao trong nhiều năm, từng bớc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá và hiện đại
hoá, đạt đợc thành tựu nổi bật trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo,
ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt đ ợc của ngành ngân
hàng Việt nam trong thời gian qua, chúng ta thấy vẫn còn tồn tại rất
nhiều những hạn chế. Điều này có thể thấy rõ qua một số thực trạng
rủi ro đang tồn tại ở Việt nam nh sau:

- Rủi ro về cơ chế chính sách:
+ Thay đổi chủ trơng đờng lối của chính phủ
+ Thay đổi lãi suất, tỷ giá.
+ Chính sách xuất nhập khẩu.
+ Chính sách thuế.
Chẳng hạn nh:
Về chính sách tiền tệ:Từ năm 1999, ngân hành nhà nớc
Việt nam đã sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt và mở rộng tín
dụng trong nớc. Năm 1999 tín dụng đã mở rộng ra tới 20% và đến
15
nửa đầu năm 2000 đã tăng lên tới 30%. Hơn nữa, trong vòng 12
tháng, từ tháng 6 năm 1999 tới tháng 6 năm 2000, 60% trong tổng
số tín dụng tăng thêm đó là của khu vực phi nhà nớc.Tuy nhiên sự
bùng nổ về tín dụng này đã đa ngân hàng tới hai rủi ro. Thứ nhất,
nó sẽ tạo ra áp lực đối với lạm phát, mặc dù không rõ ràng. Có
một số chứng cứ cho thấy việc mở rộng tín dụng đã có ảnh h ởng
tới tình hình tài chính và xuất khẩu của gạo và cà phê. Thứ hai,
nó làm cho các ngân hàng thơng mại vốn đã non yếu giờ càng khó
khăn thêm, đồng thời còn gây ra những khó khăn hơn trong quá
trình quản lý rủi ro tín dụng
Về chính sách lãi suất. Tháng 7 vừa qua, ngân hàng nhà n -
ớc Việt nam đã xoá bỏ chính sách lãi suất cố định và đ a ra chính
sách lãi suất hợp lý hơn, cho phép các ngân hàng th ơng mại đa ra
mức lãi suất hợp lý mà ngời vay chấp nhận đợc ( 0,75%/tháng ),
và cho phép các tổ chức tín dụng tự đa ra mức lãi suất với điều
kiện phần chênh lệch không đợc vợt quá 0,3% đối với các khoản
vay ngắn hạn và 0,5% đối với các khoản vay trung và dài hạn.
Tuy nhiên điều này cũng gây ra những khó khăn cho ngân hàng
trong việc cho vay đối với những khách hàng mang tính rủi ro
cao.

Thêm nữa, chúng ta đều thấy năm vừa qua lãi suất trên thị
trờng Việt nam giảm mạnh. Tuy nhiên đây không phải do chính
sách giảm lãi suất của nhà nớc, mà trên thực tế nhà nớc hoàn toàn
bị động. Nguyên nhân ở đây chính là: do lãi suất thực bằng lãi
suất danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát. Mà trong những năm vửa qua,
do tình trạng nền kinh tế yếu kém, trì trệ đã kéo tỷ lệ lạm phát
xuống, và vì vậy lãi suất cũng bị giảm xuống theo.
- Rủi ro về đầu t tín dụng ở các Ngân hàng Thơng mại:
+ Chẳng hạn nh một số vụ án kinh tế nh vụ của công
ty Minh Phụng Những vụ án này đã gây những hậu quả thiệt hại
nặng nề cho ngân hàng và cho nền kinh tế Việt nam.
+ Rủi ro cho vay từ cầm cố, thế chấp.
+ Rủi ro trong bảo lãnh xuất nhập khẩu.
16
- Rủi ro trong thanh toán:
+ Rủi ro do chuyển tiền bị đánh cắp, lợi dụng.
+ Tiền giả mạo, lừa đảo.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều rủi ro trong các nghiệp vụ khác.
Nhìn nhận một cách khách quan, xét về tổng thể, hệ thống ngân
hàng Việt nam còn tồn tại nhiều khó khăn.
Trong giai đoạn hiện nay, phần lớn tài sản Có của ngân hàng là
ở dạng tiền cho vay và thờng tạo ra tới trên 60% tổng thu nhập của
mỗi ngân hàng (ở Việt nam trên 90%). Những rủi ro này làm cho
ngân hàng kinh doanh lĩnh vực này những thiệt hại nặng nề, có khi
dẫn đến phá sản. Lý do chủ yếu là các khoản tiền cho vay (chiếm tới
trên 70% tài sản có) kém lỏng hơn so với tài sản Có khác bởi chúng
thờng không thể chuyển thành tiền mặt trớc khi các món vay đó đến
hạn.
Về chính sách lãi suất, có rất nhiều vấn đề cần đ ợc xem xét.
Mặc dù ngân hàng Nhà nớc đã điều chỉnh lãi suất áp dụng cho khối

Ngân hàng Thơng mại rất linh hoạt nhng nếu nhìn vào mặt bằng lãi
suất chung ta có thể thấy nổi lên vấn đề không hợp lí về sự chênh
lệch giữa hai loại lãi suất chủ yếu ở Việt nam hiện nay là lãi suất
ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác và lãi suất huy động của Kho
bạc Nhà nớc. Trớc ngày 1-7-1997, ngân hàng Nhà nớc quy định trần
lãi suất cho vay ngắn hạn của các ngân hàng tối đa là 15% năm, lãi
suất cho vay trung và dài hạn là 16,1% năm. Theo đó, lãi suất huy
động tối đa không quá 12%, nghĩa là với sự chênh lệch giữa lãi suất
huy động và lãi suất cho vay đảm bảo hợp lý lãi suất thực d ơng cho
hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thơng mại. Trong khi đó, huy
động vốn để đáp ứng nhu cầu chi ngân sách hoặc cho những dự án lớn
dới hình thức huy động bằng bán trái phiếu kho bạc với lãi suất cao
hơn lãi suất cùng loại của Ngân hàng Thơng mại tại thời điểm đó. Sự
chênh lệch này đã tạo ra một hình thức cạnh tranh không đáng có,
đồng thời nó thể hiện tính không nhất quán trong việc thực hiện chính
sách tiền tệ của Nhà nớc.
17
Bên cạnh đó, những biến động tiền tệ và tỷ giá trong thời gian
qua đã tạo một áp lực về thanh khoản nội tệ ở một số nhiều trở nên
căng thẳng, buộc các ngân hàng đồng loạt phải giảm lãi suất để huy
động thêm nguồn vốn, và điều đó tăng sức nóng của thị trờng vốn
và lãi suất. Hiện nay, lãi suất huy động tiết kiệm kỳ hạn d ới 1 năm
bình quân khoảng 0,85% tháng; sau khi dự trữ bắt buộc và đảm bảo
thanh toán thì lãi suất đầu vào gần 1,1%. Phần lớn các ngân hàng
chấp nhận huy động 0,9%-1%/tháng cũng có nghĩa là họ chấp nhận
hoà vốn hoặc lỗ nếu so với lãi suất ngắn hạn là 1,2%/tháng. Nếu tình
huống này kéo dài thì đây là nguy cơ rủi ro tiềm tàng đối với khả
năng tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt nam đang còn
rất non yếu. Thêm nữa, hệ thống ngân hàng hiện nay đang ở trong
tình trạng ứ đọng vốn trầm trọng, tốc độ tăng trởng tín dụng không t-

ơng xứng với tốc độ tăng trởng của nguồn vốn huy động do sức hấp
thụ vốn của nền kinh tế thuyên giảm, tiến độ giải ngân của một số dự
án lớn chậm, tiền gửi của dân c tiếp tục đổ vào hệ thống các Ngân
hàng Thơng mại; trong khi đó, lãi suất cho vay thực tế trên thị tr ờng
giảm mạnh.
Lãi suất trên thị trờng liên ngân hàng không ổn định. Một số
ngân hàng đang cho vay ngắn hạn ở mức 0,45%-0,475%/tháng. Tình
trạng ứ thừa vốn đang đẩy các Ngân hàng Thơng mại đi đến tranh
giành khách một cách gay gắt, dễ đa các ngân hàng đến chỗ đầu t
mạo hiểm.
Theo thống kê năm 1999, ta có tốc độ huy động và cho vay nền
kinh tế của hệ thống ngân hàng nh sau:
Bảng 1: Tốc độ huy động vốn và cho vay nền kinh tế
của hệ thống NHTM Việt nam
Quý 1 Quý 2 Quý 3 Tháng 10/1999
Huy động - 9,3 19,3 -
Choi vay nền
kinh tế
âm 6,0 8,5 10
18
Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nớc, 2000.
Trên đây là một số điểm nổi bật về hoạt động của hệ thống
ngân hàng Việt nam trong thời gian qua. Qua đó ta thấy, dù rằng hệ
thống ngân hàng đang ngày càng phát triển và tiến bộ hơn, nh ng bên
cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến những rủi ro trong hoạt động
kinh doanh của hệ thống ngân hàng Việt nam.
Để hạn chế đựơc những rủi ro này, chúng ta có thể xem xét một
số biện pháp hạn chế rủi ro đợc trình bày dới đây.
II/ Các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro
Sau khi phân tích các rủi ro trong hệ thống ngân hàng Việt nam

và những nguyên nhân dẫn đến các loại rủi ro này, ta có thể có một
số giải pháp sau:
1/ Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng
1.1/ Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý
Chính sách tín dụng của một Ngân hàng Thơng mại là một hệ
thống các biện pháp nhằm mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay
của nó với việc thực hiện 3 mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận cao, sự an
toàn và sự lành mạnh. Đây là chính sách để quản lý cho vay, đảm bảo
hiệu quả của vốn tín dụng, chính sách cho vay cần quy định cụ thể
trong việc xem xét các loại khách hàng có thể cho vay, tiêu chuẩn
ngân hàng có thể cho vay. Chính sách tín dụng là kim chỉ nam đảm
bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng quĩ đạo. Chính sách tín dụng của
một ngân hàng cần bao quát các vấn đề sau:
- Giới hạn về mặt địa lý, lĩnh vực đầu t tín dụng
- Thể thức cho vay
- Giới hạn kỳ hạn nợ, thời hạn cho vay
- Tiêu chuẩn khách hàng và tài sản đảm bảo
- Mức cho vay một khách hàng, một nhóm khách hàng
- Thẩm quyền và thủ tục thanh lý thu hồi nợ
- Tiêu chuẩn tài chính tối thiểu khách hàng cần
19
Tuỳ theo đặc điểm, quy mô hoạt động của từng ngân hàng để
xây dng chính sách tín dụng phù hợp. Căn cứ vào các chế độ, thể lệ
về tín dụng mà Ngân hàng Trung Ương đã thống nhất ban hành, các
Ngân hàng Thơng mại sẽ cụ thể hoá chính sách này trong quá trình
xây dựng chính sách, thủ tục cho vay phù hợp với đặc điểm hoạt động
và tính chất khách hàng của mình. Trong quá trình thực hiện, các
Ngân hàng Thơng mại cần đúc rút kinh nghiệm, phát hiện những chỗ
bất hợp lý, cha phù hợp để kiến nghị, bổ sung, hoàn chỉnh chính sách,
chế độ.

1.2/ Thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng
Quy trình quản lý tín dụng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt
động của ngân hàng. Một ngân hàng mạnh là một ngân hàng có quy
trình quản lý tín dụng chặt chẽ và có hiệu quả.
Quy trình quản lý tín dụng chi làm 4 giai đoạn: quá trình thẩm
định, giám sát khách hàng vay, thu nợ và dự đoán đợc rủi ro trong
quá trình cho vay.
Về quá trình thẩm đinh: quá trình này đợc bắt đầu từ khi nhận
đơn xin vay cho đến khi phát tiền vay, trong giai đoạn này chú ý đến
mục tiêu kinh doanh, các nguyên tắc tín dụng đã quy định. Đây là
giai đoạn khởi đầu nên mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào việc xem
xét, lập hồ sơ vay vốn, đánh giá tài sản thế chấp, quyết định cho vay
và giám sát sau khi vay. Trong quá trình này, các ngân hàng phải tập
trung đánh giá những mặt sau:
+ Năng lực pháp lý của khách hàng: khách hàng vay vốn phải có
t cách pháp nhân. Đây là điều kiện tiên quyết để ngân hàng xem xét
cho vay nhằm xác định trách nhiệm trớc pháp luật về việc trả nợ vay
cho ngân hàng.
+ Uy tín của ngời vay vốn: đây là yếu tố hết sức quan trọng mà
ngân hàng cần phải đánh giá. Phần lớn các thông tin về khách hàng
đều đã đợc ngân hàng biết đến. Đối với một khách hàng truyền thống,
những giao dịch trớc đó của ngân hàng với họ sẽ đa lại một lợng
thông tin về tính trung thực, các nguồn tài chính và năng lực của
khách hàng, thông tin về tính nghiêm túc trong việc thực hiện nghĩa
20
vụ trả nợ, tính ổn định trong sản xuất kinh doanh. Đối với khách hàng
mớivà tiềm năng, phần nhiều phụ thuộc vào sự giới thiệu, vào các
doanh nghiệp khác có quan hệ với khách hàng đó, và thông báo thực
trạng từ ngân hàng khác.
+ Phân tích tình hình tài chính của khách hàng : khách hàng có

tiềm lực tài chính mạnh là cơ sở quan trọng đảm bảo tính tự chủ trong
hoạt động kinh doanh, đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị tr ờng và
đảm bảo khả năng hoàn trả các khoản nợ trong tơng lai. Đây cũng là
căn cứ quan trọng nhất để ngân hàng xem xét có cho vay hay không?
Mức cho vay là bao nhiêu?
+ Đánh giá về năng lực về điều hành sản suất kinh doanh của
ban lãnh đạo doanh nghiệp: khi xem xét, phân tích, ngân hàng cần
đánh giá về năng lực chuyên môn, năng lực tài chính và uy tín của
ngời lãnh đạo. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, cần khẳng định t
cách đạo đức họ nh thế nào? Có nhạy bén, nắm đợc những cơ hội mới
không? Có thực hiện các điều chỉnh kịp thời trong kinh doanh không?
Có uy tín trong nội bộ và uy tín với các bạn hàng khác không? Có
kiến thức, có kinh nghiệm trong quản lý không?
+ Đánh giá về tài sản đảm bảo (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh ) :
Đối với tài sản đảm bảo cần đánh giá một cách chính xác giá trị, xác
định hiện trạng, sự hoàn hảo của tài sản đ ợc dùng làm đảm bảo.
Trong quá trình tính toán, ngân hàng cần tính đến yếu tố rủi ro của
tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh đó.
1.3/ Phân tán rủi ro
- Không nên tập trung cho vay một vài lĩnh vực, khu vực vì khi đó
ngân hàng sẽ chịu ảnh hởng của các yếu tố, khuynh hớng vận động
của các khu vực đó (về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, chính
trị, xã hội).
- Ngân hàng Thơng mại không nên dồn vốn đầu t vào một vài
khách hàng vì nếu khách hàng đó gặp khó khăn trong kinh doanh thì
ảnh hởng rất lớn đến hoạt động của Ngân hàng Thơng mại. Do đó,
cần phải tôn trọng giới hạn an toàn. Bất kỳ một khoản vay nào v ợt
21
giới hạn quy định so với vốn của ngân hàng đều có thể rơi vào trạng
thái rủi ro.

ở Việt nam, Luật tổ chức tín dụng áp dụng từ ngày 1/10/ 1998
có quy định rằng d nợ của một khách hàng không vợt quá 15% vốn
của ngân hàng, và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đợc xác định bằng tỷ
lệ giữa vốn tự có so với tài sản Có.
- Đa dạng hoá hoạt động kinh doanh là nhân tố hết sức quan
trọng trong điều kiện nền kinh tế thị trờng đầy biến động. Việc đa
dạng hoá hoạt động kinh doanh sẽ phân tán đợc rủi ro cho các ngân
hàng.
- Cho vay hợp vốn là để cung cấp các khoản tín dụng lớn mà một
ngân hàng khó có đủ khả năng cho vay, khó xác định mức rủi ro, mạo
hiểm. Việc các ngân hàng tham gia cho vay hợp vốn sẽ giúp cho các
ngân hàng có thể san sẻ rủi ro.
- Bảo hiểm tín dung có thể đợc thực hiện dới các loại nh bảo
hiểm hoạt động cho vay, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm tiền vay
- Lập quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp các khoản cho vay bị rủi ro.
Việc sử dụng các quỹ khi có rủi ro nh sau: (1) Quỹ dự phòng rủi ro
đặc biệt: dùng để bù đắp các khoản rủi ro khi ngân hàng làm ăn thua
lỗ do những nguyên nhân khách quan mang lại; (2) Quỹ dự phòng rủi
ro tín dụng: dùng để bù đắp các khoản tổn thất rủi ro tín dụng do
khách hàng gây nên.
1.4/ Duy trì quan hệ khách hàng lâu dài
Điều này có thể giảm chi phí tập hợp thông tin, sàng lọc thông
tin và ngân hàng tránh đợc việc lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức
từ phía khách hàng.
1.5/ Thực hiện tốt các hình thức đảm bảo tín dụng (Cầm cố, Thế
chấp, Bảo lãnh )
1.6/ Chú trọng đến nghệ thuật cho vay
Các ngân hàng cần phải hiểu rõ cho vay là một nghệ thuật chứ không
phải chỉ là một ngành khoa học đơn thuần. Do đó, cần phải đ a khía
cạnh con ngời trong các ứng xử và tâm lý và công tác đào tạo và tín

22
dụng, lựa chọn và sử dụng các cán bộ vừa có kỹ năng xử thế của con
ngời vừa có năng lực kỹ thuật.
Trên đây là một số biện pháp làm giảm rủi ro có tính chất cơ bản.
Tuy nhiên, trong từng điều kiện cụ thể của mỗi Ngân hàng Th ơng
mại, tổ chức tín dụng đều có những biện pháp và sách l ợc riêng để
hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.
2/ Biện pháp làm giảm rủi ro lãi suất
Trong nền kinh tế thị trờng, rủi ro lãi suất có thể giảm xuống
bằng cách vận dụng các phơng pháp sau:
+ Cho vay vốn với lãi suất thả nổi cho phép các ngân hàng có
những thay đổi tơng ứng trong mức lãi suất cho vay phù hợp với sự
biến động của lãi suất thị trờng.
+ Hợp đồng kỳ hạn sẽ tránh đợc rủi ro trong trờng hợp đúng vào
thời điểm cho vay mức lãi suất thị tr ờng giảm xuống. Phơng pháp này
cho phép phân tán rủi ro lãi suất với khách hàng.
+ Các hợp đồng lãi suất tơng lai giống nh hợp đồng lãi suất có
kỳ hạn nó tạo ra khả năng ấn định tr ớc lãi suất cho một thời hạn trong
tơng lai. Đặc điểm nổi bật của các hợp đồng lãi suất trong t ơng lai là
không có sự thay đổi lợng tiền gốc mà chỉ có các khoản chênh lệch
lãi suất đợc trả theo số lợng tiền gốc và ngày thanh toán.
3/Các biện pháp làm giảm rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là loại rủi ro biến động của tỷ giá hối đoái. Để
giảm rủi ro biến động của tỷ giá hối đoái ng ời ta thờng sử dụng các
biện pháp sau:
+ Hợp đồng ngoại tệ kỳ hạn là sự ký kết hợp đồng có thời hạn
giữa ngân hàng với khách hàng về việc mua hay bán một loại ngoại tệ
nào đó.
Hợp đồng mua bán ngoại tệ kỳ hạn nhằm tránh rủi ro về tỷ giá.
Việc tránh những rủi ro về tỷ giá đợc thể hiện ở chỗ những khoản

ngoại tệ trong tơng lai ngời ta mới cần đến và mới không phải tính
23
bằng giá mua bán ngay thời điểm mà tỷ giá đó đ ợc xác định ngay khi
hợp đồng kỳ hạn đợc thoả thuận.
Các điều kiện của hợp đồng tơng lai có thể dễ đợc xem xét lại khi
cần thiết.
+ Đa dạng hoá nguồn vốn ngoại tệ của ngân hàng
Ngoài các biện pháp trên, ngân hàng còn có thể áp dụng biện
pháp lựa chọn ngoại tệ, bảo hiểm ngoại tệ để giảm rủi ro hối đoái.
4/ Các biện pháp làm giảm rủi ro thanh toán
Để giảm rủi ro thanh toán, ngân hàng thờng phải thực thi các giái
pháp sau:
+ Tính toán nhu cầu khả năng thanh toán: để tính toán đợc khả
năng thanh toán đòi hỏi phải đánh giá đợc nhu cầu tiền phải chi và có
thể phải chi. Muốn vậy phải dựa vào việc thanh toán nguồn tiền, chi
tiết về các nguồn tiền gắn với tài sản Nợ, tài sản Có hiện hành. Ngân
hàng phải dự tính khả năng tăng vốn trong cho vay và tiền gửi
+ Quản lý khả năng thanh toán nhằm duy trì đủ mức vốn cần
thiết để thanh toán cho các nhu cầu dự tính và nhu cầu đột xuất.
Giống nh rủi ro về lãi suất, để quản lý khả năng thanh toán, các
ngân hàng buộc phải quản lý theo từng loại tiền mà ngân hàng có
giao dịch. Hơn nữa, để định lợng đợc những hậu quả trong một môi
trờng bất ổn, ngân hàng thờng có kế hoạch dự phòng bất trắc, kế
hoạch này sẽ tính đến trờng hợp xấu nhất có thể xẩy ra và đa ra các
biện pháp để đối phó với tình hình đó.
5/ Biện pháp làm giảm rủi ro về nguồn vốn
Để giảm rủi ro do thừa vốn, ngan hàng không còn cách nào khác
là phải tăng cờng công tác kế hoạch hoá.
Ngân hàng cần kết hợp tốt giữa khâu huy động vốn và khâu cho
vay luôn đảm bảo cân đối mới mong hạn chế đọc loại rủi ro này.

Để giảm rủi ro do thiếu vốn thì không thể bằng cách huy động
vốn rỗi để ở quỹ thanh toán nhiều cho an toàn. Cũng nh loại rủi ro do
24
thừa vốn, rủi ro do thiếu vốn cần phải đa công tác kế hoạch hoá
nguồn vốn và sử dụng vốn lên một bớc.
Việc cân đối phải đợc thực hiện thờng xuyên mới mong hạn chế
đợc rủi ro này.
Tóm lại, tất cả các biện pháp nêu trên chỉ nhằm phòng ngừa và
hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Rủi ro vẫn có thể xẩy ra ở
ngân hàng này hay ngân hàng khác, tại thời điểm này hay thời điểm
khác với nghiệp vụ này hay nghiệp vụ khác Vấn đề đặt ra ở đây là
phơng pháp và nghệ thuật xử lý. Nếu xử lý đúng, chuẩn xác thì rủi ro
sẽ giảm nhẹ nhiều.
KếT LUậN
Qua việc nghiên cứu, phân tích những rủi ro trong hoạt động
ngân hàng ở trên, chúng ta đã nhận thấy đợc tầm quan trọng và cần
thiết của việc nghiên cứu rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng. Thông qua việc phân tích rủi ro và những nguyên nhân gây nên
rủi ro đó ta cũng nhận thấy rằng: hoạt động kinh doanh là một loại
hoạt động đem lại hiệu quả rất lớn đối với nền kinh tế, song đây cũng
là một lĩnh mà khả năng xảy ra rủi ro cao do những tính năng hoạt
động phức tạp của nó. Do đó, rủi ro rất dễ xảy ra và có thể xảy ra
trong rất nhiều nghiệp vụ khác nhau của ngân hàng. Hơn nữa, rủi ro
còn gây ra những hậu quả không thể lờng trớc, thậm chí còn tạo ra
những thiệt hại nặng nề không chỉ đối với một ngân hàng mà còn với
cả hệ thống ngân hàng và toàn nền kinh tế. Đồng thời, chúng ta có
thể thấy rõ đợc các nguyên nhân gây nên rủi ro trong hoạt động ngân
hàng để có thể đề ra các biện pháp phòng tránh, hạn chế rủi ro.
Có thể nói, rủi ro rất dễ xuất hiện trong hệ thống ngân hàng. Nó
không chỉ xuất hiện ở một nghiệp vụ mà còn xuất hiện ở rất nhiều

nghiệp vụ khác nhau của hoạt động ngân hàng. Có rủi ro gây ra
25

×