Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

PHÁT TRIỂN ĐÀN BÒ Ở NÔNG HỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.48 KB, 26 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
DỰ ÁN CẤP TỈNH
PHÁT TRIỂN ĐÀN BÒ Ở NÔNG HỘ
Cơ quan chủ trì: PHÒNG KINH TẾ VÀ HẠ TẦNG HUYỆN PHỤNG HIỆP
Chủ nhiệm dự án: TRẦN KHÔNG DẬN
1
HẬU GIANG – 2010
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ DỰ ÁN
1.Tên dự án: Phát triển đàn bò ở nông hộ.
Lĩnh vực: chăn nuôi.
2.Chủ nhiệm dự án: Trần Không Dận.
3.Tổ chức chủ trì: Phòng Kinh tế và hạ tầng huyện Phụng Hiệp.
Địa chỉ: Khu hành chính UBND huyện Phụng Hiệp Số điện thoại:
07113.961155
4.Danh sách cán bộ tham gia chính (tên, học vị, chức danh, đơn vị công tác):
Trần Không Dận Kỹ sư Chủ nhiệm dự án Phòng TN và Môi trường
Ngô Hoàng Oanh Kỹ sư Kỹ thuật dự án Trạm Khuyến nông
Châu Ngọc Lợi Kỹ sư Thống kê, kế toán dự án Phòng Kinh tế và hạ tầng
5.Thời gian thực hiện đã được phê duyệt: 30 tháng.
Năm bắt đầu: 2007 Năm kết thúc: 2010.
6. Thời gian kết thúc thực tế (thời điểm nộp báo cáo kết quả): 2010.
7. Kinh phí thực hiện dự án: 292.000.000đồng.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CỦA DỰ ÁN
1. Kết quả nghiên cứu
1.1. Ý nghĩa khoa học của kết quả nghiên cứu:
- Tạo được mô hình chăn nuôi khép kín đạt hiệu quả kinh tế cao để kích
thích các nông hộ khác học hỏi và áp dụng theo.
- Đem lại cho nông hộ tư duy mới về sản xuất với việc đầu tư hợp lý, khai
thác tốt nguồn nội lực ở địa phương theo phương pháp khoa học.


1.2. Ý nghĩa thực tiễn và khả năng ứng dụng kết quả khoa học.
- Dự án đã xây dựng được mô hình chăn nuôi bò lai nhóm giống Zêbu
khép kín: Bò – Biogas - Cá, kết hợp trồng cỏ voi phù hợp với vùng kinh tế nông
thôn, kém phát triển; tập huấn kỹ thuật cho 103 lượt hộ dân về kỹ thuật chăm
sóc nuôi dưỡng bò lai nhóm giống Zêbu, kỹ thuật nuôi cá, trồng cỏ. Đây sẽ là
nguồn lực quan trọng trong quá trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất sau
dự án.
2
- Tạo được mô hình chăn nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao, đã tác động
tích cực đến việc kích thích nông hộ khác học hỏi và áp dụng. Góp phần xóa
đói, giảm nghèo ở địa phương. Đồng thời hạn chế được rất nhiều tình trạng ôn
nhiễm môi trường từ chất thải chăn nuôi, các phế phẩm nông nghiệp,…
2. Các sản phẩm khoa học (nếu có)
(các công trình, các báo cáo khoa học đã công bố trên các tạp chí khoa học, hội nghị khoa học
trong và ngoài nước và các kết quả ứng dụng ……có liên quan đến kết quả đề tài. Ghi rõ tên
công trình,tạp chí, số tạp chí, trang, thời gian đăng; tên báo cáo, địa điểm thời gian hội nghị;
địa điểm, thời gian, kết quả ứng dụng)
3. Kết quả tham gia đào tạo sau đại học (nếu có)
Số
TT
Họ và tên
học viên
Tên luận văn
Cấp đào tạo
ThS/ NCS
Ghi chú *
* Ghi các thông tin về: chủ nhiệm đề tài hướng dẫn chính hay tham gia hướng
dẫn, thời gian và kết quả bảo vệ.
4. Các kết quả khác (nếu có)
Bằng sáng chế hoặc giải pháp hữu ích từ kết quả nghiên cứu của đề tài (ghi rõ số,

ngày tháng năm cấp)
Phụng Hiệp, ngày 18 tháng 11 năm
2010
Xác nhận của tổ chức chủ trì Chủ nhiệm dự án
(Ký tên và đóng dấu)
MỞ ĐẦU
- Phụng Hiệp là huyện vùng sâu, thuần nông của tỉnh Hậu Giang, có tổng
diện tích 48.554,8ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 41.996,94 ha. Vì
có diện tích đất nông nghiệp rất lớn như thế nên có rất nhiều phụ phế phẩm
trong nông nghiệp. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển ngành chăn nuôi gia
súc nhai lại nói chung và chăn nuôi bò nói riêng.
3
- Là vùng đất nông nghiệp màu mỡ, nguồn thức ăn cho bò dồi dào (cỏ,
rơm, ngọn mía), điều kiện tự nhiên từ lâu đã thích hợp cho việc chăn nuôi bò
(đất rộng, người thưa). Đồng thời huyện Phụng Hiệp cũng có nguồn lao động
dồi dào, trẻ, cần cù, chịu khó, có khả năng tiếp thu và ứng dụng công nghệ vào
sản xuất, điều kiện an ninh trong vùng rất tốt.
- Xuất phát từ những điều kiện thuận lợi trên, huyện Phụng Hiệp từ lâu đã
chú trọng đến việc phát triển đàn bò theo hướng thịt. Nên việc nhân giống và
chăn nuôi bò hướng thịt có nguồn gốc từ bò lai nhóm giống Zêbu (lai Sind, lai
Brahman) là hướng đi đúng, phù hợp nhằm cải thiện tầm vóc và chất lượng thịt,
nâng cao hiệu quả chăn nuôi và thu nhập cho người dân. Đồng thời đây cũng là
vấn đề thời sự của ngành chăn nuôi bò: thiếu giống bò thịt năng suất cao và chất
lượng thịt tốt, thiếu điều kiện kỹ thuật, thiếu vốn chăn nuôi.
Vì thế việc thực hiện dự án "Phát triển đàn bò ở nông hộ" nhằm xác định
khả năng phát triển bò thịt, Zêbu hóa đàn bò ở địa phương và tận dụng triệt để
các điều kiện tự nhiên - xã hội thuận lợi hiện có ở địa phương và nâng cao thu
nhập cho người dân là việc làm rất cần thiết.
1. Mục tiêu của dự án:
- Mục tiêu tổng quát: Dự án nhằm phát triển chăn nuôi bò thịt góp phần

tăng thu nhập cho nông dân ở hai xã vùng sâu còn gặp nhiều khó khăn. Đồng
thời tạo ra một số lượng bê lai nhóm giống Zêbu đáng kể có chất lượng cao thay
thế dần cho đàn bò vàng Việt Nam hiện nay ở địa phương có tầm vóc quá nhỏ
và thay đổi tập quán sản xuất trong nông nghiệp.
- Mục tiêu trước mắt:
+ Tăng thu nhập cho người dân, giải quyết việc làm cho lao động nông
nhàn ở địa phương.
+ Giúp nông hộ có nhu cầu chăn nuôi bò nắm được kỹ thuật và có vốn để
đầu tư nuôi bò.
+ Tạo mô hình nuôi bò có hiệu quả để kích thích nông hộ lân cận học hỏi
và mạnh dạn đầu tư.
- Mục tiêu lâu dài:
+ Tận dụng nguồn thức ăn thô xanh (cỏ, rơm rạ, ngọn mía) sẳn có ở địa
phương một cách có hiệu quả, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường do đốt
rơm rạ, ngọn mía hoặc xô ủ xuống ao mương.
4
+ Xây dựng mô hình chăn nuôi bò lai nhóm giống Zêbu theo quy trình
khép kín dựa trên nguồn thức ăn thô xanh dồi dào, lao động nông nhàn, tận dụng
diện tích ao mương để nuôi cá góp phần tăng thu nhập trên cùng diện tích canh
tác.
2. Đối tượng, phạm vi thực hiện dự án:
- Từ năm 2001, phong trào nuôi bò, đặc biệt là bò lai nhóm giống Zêbu
phát triển mạnh và gặt hái được nhiều thành công.
- Trước tình hình dịch cúm gia cầm diễn biến phức tạp, giá heo bất ổn mà
chi phí thức ăn lại tăng cao nên người chăn nuôi rất ngần ngại đầu tư nuôi heo,
gia cầm. Vì thế việc lựa chọn vật nuôi cho phù hợp, tránh được rủi ro là một
việc làm hết sức cần thiết.
- Đối tượng thực hiện dự án: Sử dụng bò cái lai Sind làm nền để gieo tinh
nhân tạo bằng bò nhóm giống Zêbu (Sind, Brahman). Sau khi sinh sản, bò mẹ có
thể tiếp tục để lại nuôi, bê lai đực có thể nuôi lên bán thịt và bê lai cái có thể

nuôi lên bán giống.
- Sử dụng bò đực lai Sind, Brahman để vỗ béo bán bò thịt.
- Phạm vi thực hiện dự án: dự án được thực hiện thí điểm ở 2 xã Hiệp
Hưng và Phương Phú, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Số hộ theo dự tính
ban đầu là 30 hộ nuôi 90 con bò lai Sind. Tuy nhiên, cơ quan chủ trì, chủ nhiệm
dự án và các ngành hữu quan chỉ lựa chọn được 18 hộ nhưng do nhiều yếu tốt
khách quan nên đến cuối dự án chỉ còn 15 hộ tham gia với 70 con bò lai Sind
đăng ký ban đầu.
3. Ý nghĩa của Dự án:
- Dự án đã xây dựng được mô hình chăn nuôi bò lai nhóm giống Zêbu
khép kín: Bò - Biogas - Cá, kết hợp trồng cỏ voi phù hợp với vùng kinh tế nông
thôn, kém phát triển; tập huấn kỹ thuật cho 103 lượt hộ dân về kỹ thuật chăm
sóc nuôi dưỡng bò lai nhóm giống Zêbu, kỹ thuật nuôi cá, trồng cỏ. Đây sẽ là
nguồn lực quan trọng trong quá trình xây dựng và mở rộng quy mô sau dự án.
- Tạo được mô hình chăn nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao, tác động tích
cực đến việc kích thích nông hộ khác học hỏi và áp dụng. Góp phần xóa đói,
giảm nghèo ở địa phương. Đồng thời hạn chế được rất nhiều tình trạng ô nhiễm
môi trường từ chất thải chăn nuôi, các phế phẩm nông nghiệp,…
5
CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ
NGOÀI NƯỚC
1.1 Đặc điểm của giống bò Zêbu:
1.1.1 Nguồn gốc:
Zêbu là tên gọi chung của một nhóm các giống bò u nhiệt đới (Bos
indicus), có nguồn gốc ở Ấn Độ, Pakistan, Châu Phi. Hiện có trên 30 giống bò
Zêbu, tập trung chủ yếu ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới.
6
1.1.2 Đặc điểm chung:
Các giống bò Zêbu có tầm vóc khá lớn, kết cấu ngoại hình chắc chắn, u vai
phát triển; yếm và dậu phát triển, tai to, màu sắc đa dạng, năng suất sữa, thịt

trung bình nhưng thích nghi tốt với điều kiện nhiệt đới nóng ẩm và hệ thống
chăn nuôi đầu tư thấp, ít bệnh tật và ký sinh trùng. Trong các giống bò Zêbu có
những giống cho thịt như Brahman, Africander , có những giống kiêm dụng
thịt, sữa như Red Sindhi, Sahiwal, Ongole, Thaparka, Guzerat
1.1.3 Bò Red Sindhi (bò Sind):
Bò Sind có nguồn gốc từ tỉnh Karachi và Hyderabad của Pakistan. Bò
Sind thuộc nhóm có kích cỡ nhỏ. Kết cấu cơ thể vững chắc, mông tròn, cơ bắp
nổi rõ. Màu lông nổi bật là màu đỏ cánh gián, có lẫn những mảng tối ở hai bên
cổ, u vai và dọc lưng. Đôi khi có những đốm trắng nhỏ ở yếm và ở trán. Có u
yếm phát triển. Khối lượng bò đực 370-450kg, bò cái 300-350kg, bê sơ sinh 18-
21kg. Tỷ lệ thịt xẻ 48-50%. Bò cái có khoảng cách lứa đẻ 13-18 tháng. Bò Sind
không chỉ có được những đặc điểm quý của bò Vàng mà chúng còn có màu sắc
và vóc dáng đẹp, khối lượng lớn, sản lượng sữa cao và sức kéo hơn hẳn bò
Vàng. Nhờ những điểm nổi trội này nên giống bò Sind và con lai của chúng với
bò Vàng đã nhanh chóng phát tán ra mọi vùng của đất nước.
1.1.4 Bò Brahman:
Bò Brahman nổi tiếng là giống bò thịt nhiệt đới, được nuôi rộng rãi ở các
nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Bò Brahman có màu lông thay đổi, nhưng trội
hơn cả là màu trắng ghi đến trắng xám (Brahman trắng) và màu đỏ sáng
(Brahman đỏ). Ngoại hình chắc khỏe, hệ cơ bắp phát triển. Chúng có đặc điểm
của giống bò indicus là có u cao, yếm thõng, da mềm, thịt săn và tai to dài cụp
xuống. Năng suất thịt cao hơn hẳn các giống bò có u khác, thích nghi tốt với khí
hậu nhiệt đới nóng ẩm, có khả năng sử dụng thức ăn thô tốt và chịu gặm cỏ. Bò
cái mắn đẻ, tuổi thọ cao, đẻ dễ và rất ham con. Bò cái trưởng thành đạt 450-
500kg, bò đực 800-900kg, bê sơ sinh 22-25kg. Bê đực có khả năng tăng trọng
tốt. Tỷ lệ thịt xẻ 52-55%. Hiệu quả sinh sản chưa cao, bò cái tơ có tuổi phối
giống lần đầu muộn (trên 24 tháng), khoảng cách lứa đẻ 15-17 tháng/lứa. So với
các giống bò chuyên thịt ôn đới thì vóc dáng còn cao, chất lượng thịt cũng chưa
cao do thớ thịt còn thô và mùi vị chưa thơm bằng bò thịt ôn đới. Nếu giống
Sahiwal được dùng làm nền cho lai tạo bò sữa thì giống Brahman được sử dụng

phổ biến để lai tạo bò thịt.
7
1.2 Bò lai nhóm giống Zêbu:
- Bò lai nhóm giống Zêbu là kết quả lai tạo giữa nhóm giống bò Zêbu và bò
vàng Việt Nam.
- Việc lai tạo được tiến hành như sau: Sử dụng đực Zêbu (Sind, Sahiwal,
Brahman) để cải tạo bò vàng Việt Nam đã được chọn lọc để tạo ra con lai Zêbu
chất lượng cao. Con lai Zêbu về cơ bản giữ được các đặc điểm quý của bò vàng
Việt Nam nhưng khối lượng tăng lên rõ rệt (bò cái 270 – 300kg tùy mức độ lai
máu).
1.3 Bò lai Sind:
Bò lai Sind là kết quả lai tạo giữa giống bò Red Sindhi (Pakixtan) với giống
bò vàng Việt Nam.
Bò lai Sind có màu vàng sậm hay màu cánh gián, có u yếm phát triển, đầu
thanh nhỏ, phần sau phát triển, vú to, núm vú mềm, sinh sản tốt, đẻ con dễ, tính
hiền. U yếm càng phát triển, màu vàng càng đậm thì tỷ lệ máu bò lai Sind càng
cao, bò càng tốt. Bò lai Sind có tầm vóc lớn, con cái trưởng thành nặng trên
250kg, con đực nặng trên 450kg. Tỷ lệ thịt xẻ 50%. Thích nghi rộng ở nước ta.
Tuổi thành thục: 8-12 tháng tuổi. Phối giống: 18-24 tháng tuổi. Tỷ lệ đẻ khá,
khoảng cách lứa đẻ khoảng 13 tháng. Thời gian mang thai: 280-285 ngày (9
tháng 10 ngày). Tuổi và trọng lượng thích hợp phối giống lần đầu đối với bò cái
lai Sind là 18-24 tháng tuổi và trên 200 kg.
1.4 Kỹ thuật chế biến rơm làm thức ăn cho bò:
1.4.1 Phương pháp mềm hoá:
Rơm phơi khô hoặc còn tươi. Tính lượng rơm bò có thể sử dụng hết trong
ngày để riêng hoặc cho vào máng rồi dùng nước muối 1% tưới lên. Sử dụng 1 lít
nước cho 1kg rơm.
1.4.2 Phương pháp kiềm hoá:
- Dụng cụ: sử dụng bể xây hoặc chảo, thùng nhựa để ngâm rơm, giá để, cây
đảo.

- Nguyên liệu: Rơm khô, vôi, nước sạch.
- Công thức: 100kg rơm khô + 6kg vôi + 600 lít nước.
- Cách làm: Cho rơm vào bể hoặc chảo rồi đổ nước vôi 1% vào đảo đều
trong 3 ngày (mỗi ngày đảo 2 - 3 lần). Sau đó cho rơm lên giá để ráo nước vôi.
Tiếp theo dùng nước rửa sạch vôi là có thể cho bò ăn ngay hoặc phơi khô cho ăn
dần.
8
1.4.3 Phương pháp ủ urê:
- Công thức: 100kg rơm + 4kg urê + 100 lít nước.
- Có thể dùng hố ủ nửa chìm như phương pháp ủ chua hoặc xây bể nổi, ủ
trong bao nylon, ủ thành cây rơm phủ kín nylon có dây buộc chặt. Tuỳ lượng
rơm cần ủ để lựa chọn kích thước cho phù hợp. Mỗi hố kích thước dài, rộng, sâu
tương ứng: 1,5 x 1, 5 x 1m có thể ủ được 200kg rơm khô. Sau khi bỏ rơm vào,
nén chặt thành hố hoặc lót 1 lớp bao tải xác rắn xung quanh.
* Cách ủ rơm cho vào túi nylon
- Nguyên liệu: 100kg rơm khô + 4kg đạm urê + 100 lít nước.
- Dụng cụ: 12 chiếc bao tải, 12 túi nylon loại to, 1 tấm vải dứa, bạt, ôdoa,
cân, xô đựng nước, lạt buộc, cào để đảo rơm.
- Cách làm: Cân 10kg rơm khô, rải đều lên sân gạch hoặc vải nhựa. Dùng
bình ô doa chứa 10 lít nước hoà với 0,4kg urê tưới; nếu rơm tươi và ướt thì chỉ
tưới 6 - 7 lít nước/10kg rơm nhưng vẫn hoà đủ 0,4kg urê. Tưới xong đảo đều để
rơm thấm urê, sau đó dùng tay cuộn từng nắm rơm nhét chặt vào bao tải.
- Cho ăn: Sau khi ủ 7 - 10 ngày có thể lấy rơm cho trâu, bò ăn. Ban đầu
cho ăn 1-2kg. Mỗi ngày cho ăn tối đa 7 - 10 kg/con.
- Lưu ý: Khi bò ăn rơm ủ urê phải cho uống đủ 20 lít nước/con/ngày.
1.5 Kỹ thuật sử dụng ngọn mía làm thức ăn cho bò:
Ngọn mía sau khi thu hoạch được băm nhỏ với kích thước từ 1-3cm. Sau
đó trộn đều với urê (2%), rỉ mật (2 - 4%) hoặc bột sắn, bột ngô, cám gạo,… (tỷ
lệ 4 - 6%). Nếu là rỉ mật thì có thể dùng vòi phun hoặc pha trong bình ô doa để
tưới đều vào đống lá và ngọn đã băm nhỏ. Nếu là bột mì, bột ngô hoặc cám gạo

thì dùng tay trộn đều trước khi đem ủ trong các silo (silo là những ống tròn rỗng
có đường kính khoảng 1,2 - 1,4m, cao 1,3 - 1,4m được làm bằng nhiều loại vật
liệu khác nhau như bê tông, gỗ, tôn sắt và có thể chồng lên nhau để có chiều
cao theo ý muốn). Trong trường hợp không có các silo thì có thể đào hố đất, xây
bể xi măng hoặc dùng các bao nilon chắc chắn để nén ủ. Dùng nilon để lót đáy
và xung quanh silo trước khi cho hỗn hợp ngọn, lá mía và chất phụ gia gây lên
men vào ủ. Sau 1 lớp ngọn, lá mía dày 10 - 15cm dùng chân để nén chặt xuống
cho đến khi đầy silo. Sau cùng dùng nilon đậy kín rồi lấp 1 lớp đất dày 20-30cm
(nện chặt) lên trên. Dùng bao đựng cát hoặc đất xếp 1 lớp lên trên, làm giàn mái
che mưa nắng. Sau 30-45 ngày có thể lấy ra cho bò ăn dần.
1.6 Kỹ thuật trồng cỏ voi:
9
- Điều kiện đất đai khí hậu: Cỏ mọc được khắp nơi. Trên vùng đất cao, đất
thấp, sườn đồi. Nhưng tăng trưởng mạnh nơi đất có nhiều chất mùn, ẩm độ cao.
Cỏ voi dễ bị thối gốc và chết nếu đất bị ngập nước. Sức chịu đựng hạn hán
không bằng cỏ sả.
- Làm đất: Trước khi trồng phải cày bừa thật kỹ và làm sạch cỏ. Cày đất ở
độ sâu 20 - 25cm, nhặt hết cỏ dại và san bằng đất trồng. Đào rãnh sâu 15 -
20cm.
- Cách trồng: Cỏ voi sinh sản vô tính, trồng bằng thân. Tốt nhất sử dụng
thân giống có độ tuổi từ 80 - 100 ngày và được chặt thành hom có độ dài từ 20-
25cm/hom. Mỗi hom có 3- 5 mắt mầm. Bảo quản hom giống trong râm mát, vài
hôm sau đem trồng là tốt nhất. Đặt hom gối đầu nối tiếp nhau, rồi lấp đất dày từ
7- 10cm. Sử dụng 7 - 10 tấn giống/ha. Nên trồng theo từng hàng, tiện cho việc
chăm sóc như làm cỏ dại, bón phân, Khoảng cách trồng: 30cm x 40cm.
- Bón phân: Tùy theo từng loại đất tốt, trung bình, xấu mà bón phân cho
phù hợp. Cách bón phân cho 1ha đất/năm tham khảo: Phân chuồng: 15- 20 tấn,
Super lân: 250- 300 kg, KCL: 100- 200 kg, urê: 400-500 kg. Trong đó, phân
chuồng và super lân được sử dụng toàn bộ để bón lót. KCL và urê chia đều cho
bón thúc (sau khi trồng từ 20- 30 ngày) và sau mỗi đợt thu hoạch. Tuy nhiên tùy

theo đất tốt hay xấu và mùa nắng hay mùa mưa mà chúng ta tăng hay giảm
lượng phân bón cho phù hợp.
- Chăm sóc: Để cỏ sử dụng được lâu và năng suất ổn định, cần chăm sóc
thường xuyên theo đúng quy trình kỹ thuật. Sau khi trồng được 10 - 15 ngày,
tiến hành kiểm tra tỷ lệ nẩy mầm. Trồng dặm những chỗ bị chết. Làm cỏ dại 2 -
3 lần trước khi cỏ trồng lên cao phủ kín mặt đất. Sau mỗi lần thu hoạch, xới đất,
diệt cỏ dại, tưới nước, bón phân urê để cỏ trồng tái sinh nhanh, cho năng suất
cao.
- Thu hoạch: Thu hoạch lần đầu sau 2 tháng kể từ ngày trồng. Những lần
sau, chu kỳ thu hoạch từ 30- 40 ngày trong mùa mưa. Mùa nắng đối với những
đồng cỏ không có hệ thống tưới, thời gian thu hoạch có thể tới 60 ngày. Một
năm trung bình thu hoạch từ 6- 10 lần. Cỏ voi có thể cao đến 3m, nhưng thường
khi cỏ cao độ 1m là cho thu hoạch. Vì nếu cỏ càng già, thành phần giá trị dinh
dưỡng càng kém và tỷ lệ chất xơ sẽ gia tăng nhiều. Nếu cỏ còn non quá, chứa
nhiều nước, gia súc ăn vào dễ bị tiêu chảy. Gốc cỏ chừa lại cao từ 20- 30cm, để
10
cỏ nhảy nhiều mầm. Năng suất 1 lần cắt trung bình 30- 60 tấn/ha, một năm từ
240- 350 tấn/ha.
1.7 Kỹ thuận nuôi cá sặc rằn
- Chuẩn bị ao nuôi: Tát cạn, vệ sinh ao, vét bùn đáy, lấp hang ổ. Diệt hết cá
tạp, cá dữ. Bón vôi liều lượng 10 - 20kg/m
2
cho vùng đất ít nhiễm phèn và 20 -
30kg/m
2
cho vùng đất phèn. Phơi ao, ruộng cho lớp bùn se lại. Cho nước vào và
phải dùng vải lọc nước, theo dõi 3 ngày khi các yếu tố nhiệt độ từ 26 đến 32
0
C,
pH đạt từ 6 - 7, độ trong từ 30 - 40cm ổn định mới thả cá nuôi.

- Thả nuôi: Con giống phải đạt 4 tiêu chuẩn: sức khỏe, đều cỡ, không sây
sát, dị tật, màu sắc tương đồng. Con giống được nuôi từ cá bột lên, thời gian
nuôi từ 20 - 45 ngày. Mật độ thả nuôi, đối với ao nuôi từ 40con/cm
2
mặt nước
nuôi. Đối với ruộng lúa, 10con/cm
2
mặt nước nuôi. Thời gian thả lúc sáng sớm
hoặc chiều tối.
- Thức ăn: Chế biến theo công thức cá, cua, ốc xay nhuyễn từ 50 - 70%,
cám xay từ 30 - 50%. Bổ sung thêm lượng thức ăn viên công nghiệp để giúp tạo
độ kết dính cho thức ăn. Thức ăn cho vào sàng ăn, số lượng sàng ăn càng nhiều
càng tốt, sàng ăn cách mặt nước 0,5m là tốt nhất. Cho ăn nhiều lần trong ngày,
cá sẽ ăn nhiều và mau lớn. Giai đoạn cá còn nhỏ cho ăn từ 3 - 5 lần/ngày, với
khối lượng thức ăn bằng 10 - 15% tổng trọng lượng cá thả. Giai đoạn cá lớn cho
ăn từ 2 - 3 lần/ngày với khối lượng thức ăn bằng từ 5 - 7% tổng trọng lượng cá
thả.
- Chăm sóc và quản lý: 10 - 15 ngày thay nước một lần, theo dõi các chỉ
tiêu nhiệt độ từ 26 – 32
0
C, pH từ 6 - 7, độ trong từ 30 - 40cm. Sau khi thay nước
sẽ xử lý nguồn nước: xử lý nền, đáy bằng Zeolite nồng độ 3kg/100m
2
ao. Kết
hợp xử lý bằng các loại thuốc sunfat đồng, BKC Xổ lãi cho cá 2 tháng/lần, bổ
sung vitamin C cho cá 5g/1kg thức ăn. Bổ sung premix khoáng 1kg/100 – 200kg
thức ăn. Thời gian nuôi từ 6 đến 8 tháng là thu hoạch, cá có thể đạt trọng lượng
từ 80 - 100g/con. Năng suất ước tính, đối với cá nuôi trong ao từ 20 - 30tấn/ha,
cá nuôi ruộng lúa đạt 6 - 10tấn/ha.
11

CHƯƠNG 2- PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Phương tiện thực hiện:
2.1.1 Địa điểm và thời gian thực hiện dự án:
- Dự án được triển khai thực hiện ở 02 xã Hiệp Hưng và Phương Phú. Đây
là 02 xã nghèo, vùng sâu, vùng xa của huyện và có điều kiện thích hợp cho việc
nuôi bò.
12
- Tổng thời gian thực hiện dự án là: 30 tháng, từ tháng 12/2007 đến tháng
6/2010.
2.1.2 Vật liệu thực hiện dự án:
- Bò: bò cái lai Sind hoặc bò đực lai Sind, Brahman.
- Cá giống: cá sặc rằn.
- Thức ăn thô xanh: cỏ voi, ngọn mía và rơm.
- Thước dây đo trọng lượng bò, số tai và viết số tai.
- Tinh bò nhóm giống Zêbu được cấp từ Trung tâm Khuyến nông - Khuyến
ngư tỉnh Hậu Giang.
- Các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật nuôi bò, trồng cỏ voi, cách chế biến ngọn
mía, rơm làm thức ăn cho bò và nuôi cá.
2.2 Phương pháp thực hiện:
2.2.1 Cách thức chọn hộ:
Cơ quan chủ trì, Chủ nhiệm dự án, đại diện Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn chi nhánh huyện Phụng Hiệp, UBND xã Hiệp Hưng và
Phương Phú tiến hành khảo sát những hộ có kinh nghiệm nuôi bò (ưu tiên cho
những hộ đã từng nuôi bò) và có điều kiện thực hiện dự án. Sau đó tiến hành
thẩm định và chọn những hộ phù hợp với yêu cầu của dự án (điều kiện chăn
nuôi, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng mua bò
giống,… và các điều kiện khác mà các thành phần tham gia thẩm định đặt ra).
Dự án chọn được 8 hộ ở xã Phương Phú và 10 hộ ở xã Hiệp Hưng tham gia nuôi
87 con bò.
2.2.2 Cách thức chọn bò cái lai Sind, bò đực lai Sind, Brahman:

- Lựa chọn bò cái lai Sind: Tầm vóc lớn, thể chất khoẻ mạnh, nhanh nhẹn,
da bóng, lông mượt, mông to. Đầu thanh, mắt sáng, ngực sâu, hiền lành. Vú phát
triển cân đối. Bốn chân thẳng, khoẻ, móng khít Con bò có đặc tính này sẽ mắn
đẻ và nuôi con tốt.
- Lựa chọn bò đực lai Sind, Brahman: lựa chọn những con có tầm vóc khá
lớn, kết cấu ngoại hình rắn chắc, u vai phát triển, yếm và dậu phát triển, tai to
màu sắc đa dạng, đầu to vừa phải, ức rộng, đầy đặn, vai nở, ngực rộng sâu, 4
chân thẳng to, gân guốc, 2 chân trước cách xa nhau, 2 đùi sau dài to, bàn chân
sau xuôi, ngắn, đuôi to dài, tinh hoàn đều đặn, to vừa.
13
- Việc mua bò cái giống do nông hộ tự mua, có sự giám sát của cơ quan
chủ trì, chủ nhiệm dự án và cán bộ kỹ thuật. Giám sát về số lượng, chất lượng và
phòng dịch.
2.2.3 Tập huấn kỹ thuật và hội thảo rút kinh nghiệm:
- Tổ chức 3 đợt tập huấn cho nông hộ tham gia dự án và có mở rộng cho
các hộ nông dân có ý định nuôi bò về kỹ thuật nuôi bò qua các giai đoạn: bê, bò
trưởng thành và sinh sản. Kỹ thuật nuôi cá, lắp đặt và sử dụng túi Biogas, xây
dựng chuồng trại, trồng cỏ voi và cách chế biến, sử dụng hiệu quả thức ăn thô
xanh.
- Tổ chức 02 đợt hội thảo để nông dân trao đổi kinh nghiệm quý lẫn nhau,
cán bộ kỹ thuật và các thành viên dự án giải đáp thắc mắc cho nông hộ.
2.2.4 Cách thức thu thập số liệu: số liệu được các thành viên tham gia
thực hiện dự án xuống tận nông hộ để kiểm tra, cập nhật thường xuyên.
Cách thức thu thập cụ thể từng số liệu như sau:
- Trọng lượng bê lai: hướng dẫn nông hộ sử dụng cân đồng hồ lò xo để xác
định trọng lượng của bê lai khi mới sinh ra và ghi chép lại. Bê lai được cân sau
khi bú mẹ lần đầu và chỉ cân 01 lần (tháng thứ 2 trở đi sử dụng thước dây để đo
trọng lượng). Sử dụng thướt dây đo bò thịt của Viện Khoa học kỹ thuật nông
nghiệp miền Nam. Đo vòng ngực của gia súc (giáp thân và sát hai chân trước
của gia súc), hàng số phía trên biểu thị chu vi vòng ngực của gia súc, hàng số

phía dưới biểu thị trọng lượng của gia súc.
- Lợi nhuận từ việc bán bò thịt, bê lai, cá và sử dụng túi Biogas: hướng dẫn
nông hộ mở sổ ghi chép chi phí đầu tư cho bò, cá, Biogas và lợi nhuận từ việc
bán bò, bê lai, cá. Riêng lợi nhuận từ Biogas chỉ mang tính ước lượng vì trước
khi được lắp đặt túi Biogas hầu hết các nông hộ tham gia dự án không sử dụng
bếp gas.
- Tỷ lệ sống của bê sơ sinh, tỷ lệ bê đực, bê cái, tỷ lệ phối giống đậu thai,
dịch bệnh và tình trạng sinh sản: cán bộ kỹ thuật kết hợp với nông hộ tự mở sổ
để cập nhật, ghi chép số liệu.
2.2.5 Cách thức chọn cá sặc rằn giống:
- Lựa chọn con giống đạt 4 tiêu chuẩn: sức khỏe, đều cỡ, không sây sát, dị
tật, màu sắc tương đồng.
- Tổng diện tích mặt nước ao nuôi: 1.060m
2
(với 02 đợt nuôi).
- Mật độ nuôi: khoảng 400 con/m
2
.
14
- Thời gian nuôi trung bình: 8 tháng/đợt, đạt trọng lượng trung bình
khoảng 50g/con.
- Việc mua cá giống do nông hộ tự mua, có sự giám sát của cơ quan chủ trì,
chủ nhiệm dự án và cán bộ kỹ thuật. Giám sát về số lượng và chất lượng.
2.2.6 Trồng cỏ voi bổ sung thức ăn cho bò:
- Sử dụng thân giống loại không quá già, không non quá, có độ tuổi từ 80 -
100 ngày.
- Diện tích trồng: 1.000m
2
.
- Năng suất: 40 tấn/ha với 1 đợt thu hoạch.

- Thời gian thu hoạch: 40 ngày/đợt.
- Mỗi hộ nuôi bò chỉ trồng cỏ với diện tích từ 100-200m
2
nên chỉ đáp ứng
được 20-30% lượng thức ăn xanh cho bò của mỗi nông hộ.
2.2.7 Các chỉ tiêu theo dõi:
- Tỷ lệ phối đậu thai.
- Tỷ lệ bê đực, bê cái.
- Tỷ lệ sống của bê sơ sinh.
- Trọng lượng bê sơ sinh.
- Tình trạng sinh sản và dịch bệnh xảy ra trên bò.
- Hiệu quả kinh tế từ việc bán bò thịt, bê lai, cá và sử dụng túi Biogas.
- Hiệu quả xã hội và môi trường của dự án.
CHƯƠNG 3- KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Đây là dự án mang lại hiệu quả kinh tế cao, người nuôi rất phấn khởi và là
mô hình mẫu để kích thích và tạo niềm tin mạnh mẽ cho bà con nông dân trên
địa bàn huyện học hỏi và áp dụng mô hình của dự án trong tương lai.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện dự án cũng đã thể hiện rõ sự chênh
lệch rất lớn giữa các nông hộ nuôi bò tham gia thực hiện dự án. Cụ thể là khả
15
năng chăm sóc vật nuôi của từng nông hộ không đồng đều nên ảnh hướng rất
lớn đến hiệu quả kinh tế của dự án.
- Nhóm nông hộ nuôi hiệu quả: là những người nắm bắt và áp dụng kỹ
thuật tốt, chăm sóc bò, cá chu đáo, cho con vật ăn đủ no, có bổ sung thức ăn
tinh, ham học hỏi và có lợi nhuận cao, đảm bảo môi trường nuôi tương đối tốt.
+ Nhóm nông hộ nuôi không hiệu quả: khi tham gia dự án ở giai đoạn đầu,
người nuôi thực hiện rất tốt các hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, nhưng dần về
sau thực hiện không tốt lắm. Do điều kiện khách quan, quản lý chưa tốt, chăm
sóc không còn chu đáo như trước dẫn đến bò bị thiếu ăn, không phát triển trọng
lượng, thời gian lên giống và khả năng đậu thai kém. Điều này ảnh hưởng không

tốt đến tiến độ, kết quả thực hiện dự án và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của
hộ nuôi. Cũng chính điều này mà số hộ tham gia dự án đã giảm so với ban đầu,
chỉ còn lại 15 hộ với 70 con bò ban đầu (Hiệp Hưng có 03 hộ không tham gia
hết dự án).
Do điều kiện khách quan và điều kiện thực tế của từng nông hộ nên một số
yêu cầu mà dự án đặt ra không thực hiện được, cụ thể như: số hộ sử dụng
Biogas: 10 hộ, hộ nuôi cá: 8 hộ, hộ trồng cỏ voi: 10 hộ.
3.1 Tiến độ thực hiện dự án:
Theo thuyết minh được duyệt, dự án thực hiện từ tháng 8/2007 đến tháng
02/2010.
Nhưng do việc chọn hộ và thực hiện các thủ tục vay vốn ngân hàng gặp
nhiều khó khăn (như: chọn được hộ đủ điều kiện tham gia thực hiện dự án thì
không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng và ngược lại,…) nên thời gian bắt
đầu thực hiện dự án và ký hợp đồng từ tháng 12/2007 và kết thúc vào tháng
6/2010. Tuy thời gian bắt đầu chậm nhưng dự án vẫn đảm bảo đủ 30 tháng thực
hiện và thực hiện đúng tiến độ, yêu cầu đề ra.
3.2 Gieo tinh nhân tạo cho bò:
Nhìn chung việc gieo tinh nhân tạo cho bò được thực hiện kịp thời, đảm
bảo đúng kỹ thuật, chất lượng tinh bò. Sau 30 tháng có 54 con bò cái lai được
gieo tinh (39 con bò cái lai Sind và 15 con bò cái lai Brahman) và tỷ lệ bò đậu
thai đạt 77,77% (32 bò lai Sind và 10 bò lai Brahman). Dự án đã thực hiện 62
lần gieo tinh nhân tạo cho bò cái lai (42 lần gieo tinh nhân tạo cho bò cái lai
Sind và 20 lần gieo tinh nhân tạo cho bò cái lai Brahman), tỷ lệ gieo tinh đậu
thai đạt 67,7% (nhóm bò lai Sind đạt 76,1% và nhóm bò lai Brahman đạt
16
66,7%). Tuy nhiên có đôi lúc việc gieo tinh không được tiến hành một cách kịp
thời, đúng lúc do đội ngũ dẫn tinh viên chỉ có 01 người. Mặc khác, một vài nông
hộ tuy đã được tập huấn rất kỹ về biểu hiện lên giống của bò và thời gian phối
giống thích hợp nhưng không áp dụng được dẫn đến việc dẫn tinh viên đến
không đúng lúc, kịp thời thường xuyên xảy ra. Chính 02 điều này đã làm ảnh

hưởng rất lớn đến khả năng đậu thai của bò, số bê lai được sinh ra và hiệu quả
kinh tế của dự án.
3.3 Phòng, trị bệnh cho bò, cá:
- Về Bò: Đã tổ chức được 03 đợt tập huấn và 02 đợt hội thảo cho nông hộ
tham gia dự án và các nông hộ lân cận trong vùng về kỹ thuật chăm sóc bê lai,
bò trưởng thành, sinh sản, Đồng thời nông hộ cũng thường xuyên được nhắc
nhở và chấp hành tốt việc tiêm phòng các bệnh: lở mồm long móng, tụ huyết
trùng và tẩy giun sán theo đúng định kỳ; sử dụng các loại thuốc diệt ruồi, muỗi,
đảm bảo chuồng trại sạch sẽ, thoáng mát và ban đêm có mắc màng cho bò. Kết
thúc dự án không có bò bị bệnh lở mồm long móng và 01 hộ có bò bị bệnh tụ
huyết trùng. Nguyên nhân là do số bò này được mua từ Vĩnh Long đã có bệnh từ
trước nhưng chưa biểu hiện. Khi bò đã phát bệnh, nông hộ phát hiện và báo cho
cán bộ kỹ thuật, chủ nhiệm dự án thì bò đã chuyển sang giai đoạn nặng (đã chết
07 con). Số bò còn lại (03 con) được cán bộ kỹ thuật hướng dẫn điều trị tích cực
bằng việc sử dụng các loại thuốc như: D.O.C, Gentatylosine, Analgine C,
Camphona. Sau 1 tuần điều trị số bò này đã khỏi bệnh và dần dần phục hồi sức
khỏe, phát triển tốt.
- Về Cá: Đã tổ chức 03 đợt tập huấn và 02 đợt hội thảo để hướng dẫn nông
hộ về kỹ thuật chọn cá giống, mật độ thả cá, cách chế biến thức ăn, chăm sóc và
quản lý cá nuôi. Kết thúc dự án có 08 hộ tham gia nuôi cá với số lượng cá giống
là 1.060kg, trung bình mỗi hộ nuôi được từ 2 đến 3 đợt, mỗi đợt nuôi khoảng 8
tháng sẽ cho thu hoạch. Tất cả các nông hộ nuôi cá đều có thu hoạch với
7.815kg cá thương phẩm. Nhìn chung việc nuôi cá gặp nhiều thuận lợi, cá thích
hợp với điều kiện tự nhiên ở địa phương, ít bệnh và tỷ lệ hao hụt thấp.
3.4 Tình trạng sinh sản và bệnh sau sinh sản ở bò:
- Sau 30 tháng có 42 con bê lai được sinh ra, tỷ lệ đực, cái là 13/29. Tỷ lệ
bê sống là 100%. Trọng lượng bê sơ sinh: ở bê lai Sind đạt trọng lượng từ 16-
18kg, ở bê lai Brahman đạt trọng lượng từ 20-22kg.
17
- Nhìn chung bò đẻ tốt, chủ yếu là tự đẻ, đôi khi có trường hợp gặp thai lớn

thì chủ hộ nắm kéo tiếp bê ra theo nhịp rặn của bò mẹ. Không có trường hợp
nhờ thú y can thiệp.
- Vì không can thiệp sâu lúc bò đẻ nên phần lớn bò không bị viêm nhiễm
và mắc bệnh sinh sản sau khi sinh.
3.5 Tình hình sử dụng túi Biogas:
Kết thúc dự án có 10 hộ được lắp đặt 10 túi Biogas và hiện tại các túi
Biogas vẫn còn sử dụng tốt, nông hộ đang sử dụng. Nhìn chung các nông hộ
được lắp đặt túi Biogas đều rất phấn khởi bởi việc sử dụng túi Biogas vừa mang
lại hiệu quả kinh tế, vừa mang lại hiệu quả môi trường một cách rõ rệt. Việc sử
dụng túi Biogas đã tiết kiệm cho nông hộ trên 20.200.000đồng và môi trường
chăn nuôi không còn bị ô nhiễm nhiều.
3.6 Tiêu thụ sản phẩm:
Các sản phẩm của dự án như: bò thịt, bê lai, cá được tiêu thụ một cách rất
dễ dàng. Thương lái đến tận nhà nông hộ mua với giá cả tương đối phù hợp với
giá thị trường, không có hiện tượng ép giá, nông hộ tự quyết định và thương
lượng giá cả.
3.7 Cấp phát vốn:
- Vốn mua bò giống: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi
nhánh huyện Phụng Hiệp cho 100% nông hộ tham gia dự án vay bằng hình thức
thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với mức vay là 5 triệu đồng/con
bò. Tổng cộng có 18 hộ vay với số tiền là: 435 triệu đồng. Việc giải ngân được
ngân hàng thực hiện tương đối kịp thời để nông hộ mua bò giống. Hộ vay nhiều
nhất là 40 triệu đồng và hộ vay ít nhất là 15 triệu đồng. Tất cả nông hộ khi nhận
được tiền điều tiến hành mua bò theo đúng quy định.
- Các khoản hỗ trợ khác từ vốn SNKH: Ban chủ nhiệm dự án trực tiếp đến
từng nông hộ tham gia dự án để xem xét hỗ trợ từng trường hợp, bao gồm: cá
giống: 15,9 triệu đồng, túi Biogas: 11,53 triệu đồng, cỏ giống 5,8 triệu đồng,
thuốc thú y: 8,978 triệu đồng, chi phí gieo tinh: 1,854 triệu đồng,….
3.8 Thu hồi vốn và lãi:
- Lãi suất ngân hàng được cơ quan chủ trì tiến hành chi trả hàng quý qua

tài khoản cho ngân hàng đúng quy định. Dự án đã hỗ trợ 124,155 triệu đồng lãi
suất cho nông hộ tham gia dự án.
18
- Thu hồi vốn: Đến thời điểm kết thúc dự án chỉ còn lại 04 hộ chưa trả vốn
ngân hàng với số tiền là 80 triệu đồng (thời gian đến hạn trả là 12/2010). Việc
thu hồi vốn rất dễ dàng, thuận lợi, ngân hàng chỉ thông báo và nông hộ ra ngân
hàng chi trả (không có trường hợp nợ xấu).
3.9 Sản phẩm của dự án:
- Số lượng bò thịt: 109 con.
- Số lượng bê lai: 42 con (13 con đực, 29 con cái).
- Túi ủ Biogas: 10 túi.
- Cá: 7.815kg.
- Nâng cao được kiến thức nuôi bò, cá cho nông hộ tham gia dự án và các
nông hộ lân cận.
- Tạo được mô hình làm ăn hiệu quả, đem lại thu nhập cao cho nông dân.
- Môi trường chăn nuôi nói riêng và môi trường ở nông thôn nói chung
được cải thiện.
3.10 Phương án triển khai sau khi kết thúc dự án:
- Sau khi kết thúc dự án, chúng tôi đã tiến hành thăm dò ý kiến của các
nông hộ tham gia dự án và các nông hộ ở khu vực lân cận thì tất cả đều cho rằng
dự án này rất phù hợp với kiều kiện ở địa phương và tất cả đều hài lòng về mô
hình, hiệu quả mà dự án đem lại. Các nông hộ ở khu vực lân cận cũng đã đến
tìm hiểu và về áp dụng tại nông hộ mình. Trước khi thực hiện dự án, trên địa
bàn 2 xã Hiệp Hưng và Phương Phú có khoảng 15 hộ nuôi với 100 con bò và
hiện nay có 35 hộ nuôi với trên 30 con bò (một trong những nguyên nhân là do
tác động từ dự án) (số liệu do khuyến nông 2 xã cung cấp). Khi kết thúc dự án,
số hộ còn duy trì là 13 hộ (so với 18 hộ ban đầu tham gia dự án (03 hộ không
tham gia hết dự án, 02 hộ khi kết thúc dự án không nuôi lại)), các nông hộ này
sẽ duy trì lâu dài và có hướng mở rộng quy mô chăn nuôi.
- Cơ quan chủ trì dự án sẽ đề xuất cơ quan chủ quản tiếp tục phát huy các

thành quả mà dự án đem lại. Nhằm phát huy những hiệu quả hết sức rõ rệt mà
dự án đã đem lại trên địa bàn huyện.
- Huyện ủy, UBND huyện sẽ đưa mô hình của dự án vào chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương và chỉ đạo các đơn vị chức năng có liên
quan, chính quyền địa phương tiếp tục tạo mọi điều kiện để nhân rộng mô hình
của dự án ra trên toàn huyện.
3.11 Hiêu quả kinh tế của nông hộ tham gia dự án:
19
Sau 30 tháng thực hiện dự án, chúng tôi tiến hành phân tích và tổng hợp
hiệu quả kinh tế của nông hộ được trình bày cụ thể ở các bảng sau:
Bảng 3.1: Tổng chi phí của nông hộ
STT Tên nguyên, vật liệu Số lượng
Chi phí
(đồng)
01 Bò 109 con 418.000.000
02 Biogas 10 cái 4.800.000
03 Cá 1.060kg 58.400.000
04 Chuồng trại 15 cái 53.500.000
05 Thức ăn, thuốc thủy sản,… cho cá 16.000.000
06 Thức ăn, thuốc thú y, chi phí gieo tinh, cho bò 35.800.000
Tổng cộng 586.500.000
Ghi chú: Chi phí mua bò giống nhân dân đầu tư 100% từ nguồn vốn vay ngân hàng; chi phí
lắp đặt túi Biogas nông hộ đối ứng 40%; chi phí chuồng trại, thức ăn, thuốc thủy sản, …nông hộ tự
đầu tư 100%, thuốc thú y nông hộ đối ứng 50%, chi phí gieo tinh nông hộ đối ứng 70%, thức ăn và
các khoản đầu tư khác do nông hộ tự đầu tư 100%. Không tính chi phí thức ăn xanh cho bò và công
lao động chăn nuôi của chủ hộ.
Bảng 3.2: Tổng doanh thu của dự án
STT Tên sản phẩm Số lượng Doanh thu (đồng)
01 Bò 109 con 673.300.000
02 Bê lai 42 con 173.000.000

03 Cá 7.815kg 163.500.000
04 Biogas 10 cái 25.000.000
Tổng cộng 1.034.800.000
Bảng 3.3: Tổng lợi nhuận của dự án
STT Tên sản phẩm Chi phí (đồng) Doanh thu (đồng) Lợi nhuận (đồng)
01 Bò 507.300.000 673.300.000 166.000.000
02 Bê lai 173.000.000 173.000.000
03 Cá 74.400.000 163.500.000 89.100.000
04 Biogas 4.800.000 25.000.000 20.200.000
Tổng cộng 586.500.000 1.034.800.000 448.300.000
Ngoài ra, chuồng trại và túi Biogas vẫn còn sử dụng tốt (70%) nên giá trị
còn lại khoảng 40.810.000đồng. Vì thế, lợi nhuận thực tế của nông hộ sau 30
tháng ước đạt: 489.110.000đồng.
20
- Tuy số hộ tham gia dự án ít (15/30), số lượng bò (70/90), cá
(1.060/1.800kg), không đáp ứng đúng theo thuyết minh được duyệt. Đồng thời
có vài hộ thực hiện dự án không có lợi nhuận cao (không có hộ lỗ vốn), giá bò
có thời điểm giảm nhưng lợi nhuận mà dự án đem lại là khá cao. Cá biệt có vài
hộ sau 30 tháng thực hiện dự án có lợi nhuận rất cao (95 triệu đồng, 63,02 triệu
đồng).
3.12 Phân tích hiệu quả kinh tế của từng loại mô hình:
- Theo thuyết minh được duyệt, dự án được thực hiện theo mô hình Bò -
Biogas - Cá sặt rằn. Nhưng trên thực tế do nhiều điều kiện khách quan như hộ
không có ao mương để thả cá, chuồng trại xa nhà không thể lắp đặt túi Biogas,
nên dự án đã hình thành 4 loại mô hình sản xuất: Bò, Bò - Biogas, Bò - Cá, Bò -
Biogas - cá.
- Sau 30 tháng thực hiện dự án, chúng tôi tiến hành phân tích hiệu quả của
từng loại mô hình như sau:
* Mô hình Bò: có 04 hộ thực hiện với 15 con bò ban đầu, trong đó có 01
hộ nuôi bò đực vỗ béo. Chúng tôi có nhận xét như sau:

- Đối với hộ nuôi bò đực vỗ béo:
+ Hiệu quả kinh tế: sau 30 tháng hộ đã vỗ béo được 03 đợt với 22 con bò.
Lợi nhuận mà nông hộ thu được là 95 triệu đồng.
+ Hiệu quả môi trường: tương đối tốt, phân bò được tận dụng để bón cây
trồng.
- Đối với 03 hộ nuôi bò sinh sản:
+ Hiệu quả kinh tế: sau 30 tháng 11 con bò (01 con bò đực) ban đầu đẻ
được 8 con bê lai (01 con bê đực). Lợi nhuận của 03 nông hộ là: 36,7 triệu đồng
(13 triệu đồng, 9,5 triệu đồng và 14,2 triệu đồng). Bình quân lợi nhuận thu được
từ 01 con bò ban đầu là: 3,336 triệu đồng.
+ Hiệu quả môi trường: chúng tôi đánh giá có 02 hộ không đảm bảo điều
kiện môi trường sạch sẽ: phân bò không được xử lý đúng cách và tận dụng.
* Mô hình Bò – Biogas: có 03 hộ thực hiện.
- Hiệu quả kinh tế: sau 30 tháng thực hiện, 16 con bò cái ban đầu đẻ được
11 con bê lai (6 con bê đực). Lợi nhuận từ nuôi bò là: 55,5 triệu đồng (17 triệu
đồng, 21,5 triệu đồng và 17 triệu đồng). Lợi nhuận từ Biogas ước khoảng 6,06
triệu đồng. Tổng lợi nhuận của 03 nông hộ là: 61,56 triệu đồng. Bình quân lợi
nhuận thu được từ 01 con bò ban đầu là: 3,8475 triệu đồng.
21
- Hiệu quả môi trường: sử dụng túi ủ Biogas để tận dụng phân bò làm khí
đốt nên cả 03 nông hộ này đều đảm bảo tốt về điều kiện môi trường: môi trường
nuôi sạch sẽ, chuồng trại thoát mát, ít ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.
* Mô hình Bò – Cá: có 01 hộ thực hiện.
- Hiệu quả kinh tế: với 03 con bò cái ban đầu, sau 30 tháng đẻ được 03 con
bê lai (01 bê đực). Lợi nhuận từ cá là 2,2 triệu đồng, bò là 10 triệu đồng. Tổng
lợi nhuận của nông hộ là: 12,2 triệu đồng. Bình quân lợi nhuận thu được từ 01
con bò ban đầu là: 4,066 triệu đồng.
- Hiệu quả môi trường: tuy hộ có nuôi cá nhưng không tận dụng được phân
bò nên điều kiện môi trường không được đảm bảo.
* Mô hình Bò – Biogas – Cá: có 07 hộ thực hiện.

- Hiệu quả kinh tế: với 39 con bò ban đầu (10 con bò đực), sau 30 tháng đẻ
được 20 con bê lai (5 con bê đực). Lợi nhuận từ bò: 141,8 triệu đồng (42 triệu
đồng, 27 triệu đồng, 5,5 triệu đồng, 25 triệu đồng, 15 triệu đồng, 17,3 triệu
đồng, 10 triệu đồng); từ cá: 86,9 triệu đồng (19 triệu đồng, 22 triệu đồng, 5 triệu
đồng, 5 triệu đồng, 12,7 triệu đồng, 12,7 triệu đồng, 10,5 triệu đồng); từ Biogas
ước khoảng 14,14 triệu đồng. Tổng lợi nhuận của nông hộ là: 242,84 triệu đồng.
Bình quân lợi nhuận thu được từ 01 con bò ban đầu khoảng: 6,226 triệu đồng.
- Hiệu quả môi trường: Sử dụng túi Biogas để tận dụng phân bò làm khí
đốt, chất thải từ Biogas tận dụng làm thức ăn cho cá. Với quy trình khép kín này
các nông hộ đều đảm bảo được môi trường chăn nuôi sạch sẽ, thoát mát, hạn chế
mùi hôi và ít ô nhiễm đến môi trường xung quanh.
Từ 4 loại mô hình nêu trên, chúng tôi nhận thấy: mô hình bò - biogas - cá
là mô hình đem lại hiệu quả tốt nhất cả về mặt kinh tế và môi trường. Đồng thời
mô hình nuôi bò vỗ béo cũng là một hướng đi mang lại hiệu quả kinh tế cao cho
nông hộ. Tuy nhiên, mục đích chính của dự án là đem lại lợi nhuận cho nông hộ
tham gia dự án và qua phân tích nêu trên ta thấy tất cả 04 loại mô hình này đều
mang lại lợi nhuận khá cao cho người chăn nuôi.
3.13 Hiệu quả xã hội và môi trường của dự án:
- Dự án đã lai tạo được 42 con bê lai nhóm giống Zêbu có chất lượng cao
nhằm thay thế dần cho đàn bò vàng Việt Nam hiện nay ở địa phương có tầm vóc
nhỏ và thay đổi tập quán sản xuất trong nông nghiệp.
22
- Dự án đã góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống vật chất, tinh
thần cho nông hộ một cách rõ rệt. Đồng thời dự án cũng đã góp phần xóa đói,
giảm nghèo bền vững ở địa bàn 2 xã Hiệp Hưng và Phương Phú.
- Tạo thêm việc làm cho lao động nhàn rỗi ở nông thôn, góp phần hạn chế
tình trạng dịch chuyển lao động nông thôn lên thành thị và bảo đảm an ninh trật
tự ở địa phương.
- Nâng cao trình độ hiểu biết về kỹ thuật quản lý giống và chăn nuôi bò,
nuôi cá cho nông dân theo mô hình khép kín hiệu quả.

- Sử dụng một cách có hiệu quả nguồn phế phẩm nông nghiệp như: rơm,
ngọn mía làm thức ăn cho bò nên hạn chế rất lớn tình trạng đốt đồng gây khói
bụi hoặc xô ủ xuống ao mương gây ô nhiễm nguồn nước.
- Xử lý chất thải chăn nuôi một cách hiệu quả kinh tế bằng việc sử dụng túi
Biogas nên hạn chế được mùi hôi, ruồi nhặng, ô nhiễm nguồn nước,…
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua quá trình thực hiện dự án Phát triển đàn bò ở nông hộ, chúng tôi có
một số nhận xét như sau:
- Bò cái lai Sind làm nền để sản xuất bò lai nhóm giống Zêbu cho kết quả
tốt. Bê được sinh ra rất dễ dàng không cần phải can thiệp về thú y.
23
- Đây là dự án mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt. Dự án đã góp phần
cải thiện đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho lao
động nhàn rỗi ở nông thôn. Lợi nhuận mà dự án đem lại cho hộ chăn là khá cao.
- Bò lai nhóm giống Zêbu thích nghi và phát triển tốt với điều kiện nuôi ở
huyện Phụng Hiệp, kỹ thuật chăm sóc và điều kiện nuôi đơn giản, ít bệnh, khả
năng tăng trọng nhanh.
- Có một vài hộ ban đầu khi tham gia dự án rất nhiệt tình nhưng về sau
chăm sóc không tốt dẫn đến bò không tăng trọng, khả năng sinh sản kém hoặc
bán bò giữa chừng,… làm ảnh hưởng lớn đến dự án.
- Kỹ thuật chăn nuôi của nông dân còn theo kiểu truyền thống. Đa số chăn
nuôi theo tập quán cũ, chưa có đất hoặc không quan tâm đến việc trồng cỏ mà
chỉ dựa vào cỏ tự nhiên nên phần nào không đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng
của đàn bò. Kỹ năng chăm sóc bò chưa đáp ứng yêu cầu nuôi nên dẫn đến bò cái
chậm hoặc không lên giống, bê con bị chết và bò mẹ chậm mang thai lại cũng
như tăng trọng kém làm giảm hiệu quả kinh tế của nông hộ.
- Người dân chưa phối hợp tốt với cán bộ thực hiện dự án và điều kiện
nuôi chưa đáp ứng đúng yêu cầu nên một số chỉ tiêu ban đầu đề ra chưa thực
hiện được như: 100% hộ tham gia dự án lắp đặt túi Biogas, 100% hộ nuôi cá và

trồng cỏ voi,…
- Đội ngũ dẫn tinh viên rất mỏng, kỹ thuật khám bệnh sinh sản ở bò còn
hạn chế nên ảnh hưởng rất lớn đến việc phối đậu thai cho bò.
- Có 01 hộ tham gia dự án chỉ nuôi toàn bò đực để vỗ béo. Tuy không đúng
theo mục đích ban đầu của dự án nhưng lợi nhuận của hộ này là rất cao.
Tuy trong quá trình thực hiện dự án gặp một vài khó khăn nhưng mục đích
cuối cùng của dự án cũng thành công đó là đem lại lợi nhuận cho người nuôi.
Góp phần đa dạng, chuyển đổi vật nuôi ở địa phương theo hướng bền vững,
Zêbu hóa đàn bò ở địa phương để dần thay thế đàn bò Vàng kém chất lượng ở
địa phương, giảm ô nhiễm môi trường ở nông thôn.
2. Kiến nghị
Việc nuôi bò lai nhóm giống Zêbu hướng thịt rất phù hợp với điều kiện của
huyện Phụng Hiệp cũng như toàn tỉnh Hậu Giang. Là một mô hình hiệu quả,
hướng đi đúng để năng cao thu nhập cho người dân. Đề nghị các ngành chức
năng phổ biến rộng rãi về hiệu quả kinh tế của dự án và tiếp tục hỗ trợ nông dân
24
về vốn, kỹ thuật nuôi bò, mở rộng dự án trên toàn tỉnh để góp phần xóa đói,
giảm nghèo ở địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Đinh Văn Cải (2007), Nuôi bò thịt, Nhà xuất bản Nông nghiệp, TP. Hồ Chí
Minh.
2- Quy trình kỹ thuật nuôi bò giống lai
/>3- Cách chọn và nuôi dưỡng bò lai Sind
25

×