Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Luận văn tốt nghiệp Đại học Xóa đói giảm nghèo của huyện Mỹ Tú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.32 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐẢNG BỘ HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG LÃNH
ĐẠO CÔNG TÁC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
TỪ NĂM 2004 ĐẾN NĂM 2014
Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
TS. GVC: TRẦN VĂN HIẾU VÕ VĂN ÚT
MSSV: 6116451
MSL: ML11X4A1
Cần Thơ, 11/2014
LỜI CẢM ƠN!
Lời đầu tiên em xin chân thành cám ơn đến ban Giám Hiệu trường Đại Học
Cần Thơ, quý thầy cô các khoa đặc biệt là các thầy cô Khoa Học Chính Trị đã tận tình
truyền đạt những kiến thức quý báu và bổ ích cho em trong suốt quá trình học tập, rèn
luyện ở trường.
Đặt biệt em muốn gửi một lời cảm ơn sâu sắc nhất đó là thầy Trần Văn Hiếu,
người đã trực tiếp hướng dẫn cho em thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Mặc dù thầy
là người rất bận với công việc hàng ngày những thầy vẫn cố gắng giúp đỡ em với một
tấm lòng thật tận tình, nhiệt huyết, hòa nhã của một người thầy tận tâm với nghề, thầy
đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để em hoàn thành luận văn một cách thuận lợi nhất.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến lớp Sư Phạm Giáo dục Công dân k37
đã nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt thời gian nghiên cứu luận văn để em hoàn thành tốt
luận văn của mình.
Tuy nhiên, do kiến thức của em chỉ có giới hạn, còn rất hạn hẹp chưa có đủ điều
kiện để nghiên cứu sâu hơn đề tài nên trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi
những thiếu sót mong quý thầy cô và các bạn thông cảm và chỉ dạy thêm cho em.
Em xin gửi lời cảm ơn đến tất cả!
Cần thơ, ngày 26,tháng 11, năm2014.


Sinh viên thực hiện.
Võ Văn Út
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Thế giới đã bước sang thế kỷ XXI với một nền văn minh rực rỡ nhưng cũng ngổn
ngang những vấn đề gay gắt mang tính toàn cầu. Nó chứa đựng trong mình cả niềm
vui và bất hạnh, cả nụ cười và nước mắt, cả hạnh phúc và lo toan. Một trong những nỗi
lo toàn cầu, nỗi đau của nhân loại là sự đói nghèo trầm trọng trên phạm vi vô cùng lớn.
Hiện nay trên thế giới có hơn 1,3 tỷ người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó có
khoảng 800 triệu người sống ở các quốc gia khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đây
là một trở ngại trầm trọng đối với sự phát triển của các nước trên thế giới. Tuy nhiên
mức độ và tỷ lệ dân cư nghèo đói ở các nước, các khu vực rất khác nhau. Nó phản ánh
sự khác biệt về trình độ phát triển của các quốc gia mà trước hết là trình độ phát triển
kinh tế.
Việt Nam là một trong những nước vẫn còn tình trạng đói nghèo trên thế giới, với
gần hơn 80% dân số sống ở khu vực nông nghiệp và 70% lao động làm trong lĩnh vực
nông nghiệp. Do sự phát triển chậm của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu về kinh tế và
trình độ phân công lao động xã hội kém, dẫn tới năng suất lao động xã hội và mức
tăng trưởng xã hội thấp. Với chủ trương phát triển một nền kinh tế thị trường theo định
hướng Xã Hội Chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước thì đây vừa là một nhiệm vụ
chiến lược của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, vừa là phương tiện để đạt được
mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Muốn đạt được mục tiêu
này thì trước hết phải xóa bỏ đói nghèo và lạc hậu. Đây là một trách nhiệm hết sức
nặng nề của Đảng và Nhà nước ta, bởi Nhà nước không chỉ bảo đảm nhu cầu tối thiểu
cho dân mà còn xóa bỏ tận gốc các nguyên nhân gây ra đói nghèo trong dân cư. Để tập
trung các nguồn lực và triển khai đồng bộ, thống nhất và hiệu quả các giải pháp, chính
sách xóa đói giảm nghèo phải trở thành chương trình mục tiêu quốc gia phù hợp với
định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhằm hỗ trợ trực tiếp các xã nghèo,
hộ nghèo các điều kiện cần thiết để phát triển sản xuất, tăng thu nhập, ổn định đời

sống, tự vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Đói nghèo là vấn đề có liên quan mật thiết với
tăng trưởng, phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội, tới việc giữ gìn và phát huy
những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc. Thoát nghèo không chỉ là ước muốn mà
còn là trách nhiệm của chính những người nghèo, vùng nghèo đói còn là trách nhiệm
Trang 1
của cả cộng đồng và chính phủ. Nếu vượt qua được giới hạn đói nghèo thì quốc gia sẽ
ổn định chính trị - xã hội và tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước.
Như thế đủ để thấy đói nghèo và giải quyết nghèo đói là mang tính phổ biến,
không chỉ riêng của Đảng, Nhà nước mà còn quan trọng hơn nữa đó là chính sự ý thức
vươn lên thoát nghèo của mỗi cá nhân hộ nghèo, người nghèo từng địa phương.
Sóc Trăng là tỉnh ven biển thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có đông
đồng bào dân tộc Khmer sinh sống chiếm khoảng 30% dân số của tỉnh. Sóc Trăng là
khu vực có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất khu vực đồng bào sông Cửu Long, theo báo cáo
của sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Sóc Trăng, số hộ nghèo của tỉnh Sóc
Trăng năm 2011 là 170.168 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 22,68%, trong năm 2014 thì hiện tại
tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh chiếm 17,03%, đã giảm 5,6% tỷ lệ hộ nghèo. Tất cả các huyện
trong tỉnh Sóc Trăng đều là những huyện còn nhiều khó khăn. Nói riêng về huyện Mỹ
Tú, là huyện nghèo của tỉnh Sóc Trăng, trong huyện có tỷ lệ hộ dân tộc trong huyện
chiếm khoảng 27% tổng dân số trong huyện, theo báo cáo của phòng Lao động -
Thương binh và Xã hội của huyện Mỹ Tú thì cuối năm 2013 huyện có tổng số hộ
nghèo 3.776 hộ, chiếm 13,86 %, con số khá cao so với các huyện khác trong và ngoài
tỉnh Sóc Trăng. Đời sống người dân trong huyện còn rất khó khăn nhất là trong sản
xuất.
Với mong muốn tìm hiểu chủ trương của Đảng bộ huyện Mỹ Tú trong công tác
xóa đói, giảm nghèo nên tôi quyết định chọn đề tài “Đảng bộ huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc
Trăng lãnh đạo công tác xóa đói giảm nghèo từ năm 2004 đến năm 2014” để làm luận
văn tốt nghiệp đại học cho mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
2.1. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Tìm hiểu về chủ trương của Đảng bộ huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng lãnh đạo

công tác xóa đói giảm nghèo thời gian qua, phân tích, đánh giá hiệu quả của vấn đề
xóa đói, giảm nghèo ở huyện Mỹ Tú tỉnh Sóc Trăng, từ đó đưa ra những quan điểm,
phương hướng, giải pháp để thực tốt trong công tác xóa đói giảm nghèo của huyện Mỹ
Tú tỉnh Sóc Trăng thời gian tới.
Trang 2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
Để có được những những mục đích trên thì luận văn cần có những nhiệm vụ:
Thứ nhất, khái quát cơ sở lý luận về đói nghèo của thế giới, chuẩn nghèo của Việt
Nam, chủ trương của Đảng ta về xóa đói, giảm nghèo.
Thứ hai, làm rõ chủ trương của Huyện Mỹ Tú về xóa đói, giảm nghèo cũng như
đánh giá hiệu quả của công tác xóa đói, giảm nghèo ở địa phương, phân tích những
mặt đạt được và những vấn đề hạn chế trong công tác xóa đói giảm nghèo trong
những năm qua.
Thứ ba, nêu lên những phương hướng và giải pháp cơ bản để xóa đói giảm
nghèo có hiệu quả ở huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng từ nay đến 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đảng bộ huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng lãnh đạo công tác xóa đói giảm nghèo.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Không gian nghiên cứu: là địa phận huyện Mỹ Tú tỉnh Sóc trăng
- Thời gian nghiên cứu: chủ yếu lấy những số liệu từ những năm 2004-2014
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-lênin, và tư tưởng Hồ Chí Minh và sử dụng chủ yếu là phương pháp nghiên cứu
lịch sử, kết hợp và phương pháp logic, đồng thời của sử dụng những phương pháp thu
thập, xử lí số liệu, tổng hợp và thống kê để nghiên cứu đề tài.
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh mục tham khảo thì luận văn còn có 3
chương, 7 tiết.
Chương 1: Lý luận chung về đói nghèo và quan điểm của Đảng về công tác xóa

đói giảm nghèo.
Chương 2: Chủ trương của Đảng bộ Huyện Mỹ Tú về công tác xóa đói giảm
nghèo và hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo của huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng
từ năm 2004 đến năm 2014.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp xóa đói giảm nghèo của huyện Mỹ Tú,
tỉnh Sóc Trăng trong thời gian tới.
Trang 3
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ
CÔNG TÁC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. Quan niệm đói nghèo.
1.1.1. Quan niệm chung về đói nghèo.
Trong đời sống con người cũng như trong nghiên cứu khoa học các vấn đề về
kinh tế - xã hội, chúng ta thường thấy các khái niệm đói nghèo hoặc nghèo khổ, giàu -
nghèo và sự phân hóa giàu – nghèo, trong xã hội còn đề cập đến thuật ngữ: phân tầng
xã hội, phân hóa giai cấp, phân cực hay (hay xung đột) xã hội. Ngay khái niệm đói
nghèo nếu tách riêng ra để phân tích và nhận dạng, cũng thấy giữa đói và nghèo, trong
cặp đôi này vừa quan hệ mật thiết với nhau, lại vừa có sự khác biệt về mức độ và cấp
độ, cụ thể là đói ăn, thiếu lương thực, thực phẩm để duy trì sự tồn tại của sinh vật và
con người thì tất nhiên là nghèo.
Quan niệm về nghèo thì có nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Dĩ nhiên dù ở
quan hệ hay khía cạnh nào thì nghèo sẽ vẫn có quan hệ mật thiết với đói, đã nghèo thì
gắn liền với nó là đói. Sự nghèo và nghèo khổ kéo dài, nếu không ra khỏi vòng luẩn
quẩn của cảnh trì trệ, túng thiếu thì chỉ cần xảy ra những biến cố đột xuất thì ngay và
lập tức sẽ rất dễ dàng rơi và cảnh đói. Ở đây chúng ta xem xét đói nghèo ở góc độ đời
sống vật chất, góc độ kinh tế, tức là tính vật chất của nó. Chủ thể đói nghèo được xem
xét ở đây là con người, từng cá thể cũng như trong phạm vi xã hội, tức là cộng đồng
dân cư xác định,quy mô lớn, nhỏ, rộng, hẹp khác nhau. Vì thế với những cách tiếp cận
khác nhau, chúng ta có thể hướng mục tiêu nghiên cứu vào người nghèo, hộ nghèo,

vùng dân cư nghèo, nước nghèo và khu vực nghèo.Tương ứng như vậy có thể nghiên
cứu các loại chủ thể trên về đói nghèo hoặc cực khác là giàu có, đứng từ góc độ lý
thuyết, để làm rõ bản chất, nội dung của từng khái niệm, đồng thời cần phải tập trung
mối liên lệ nội tại tức logic có trong chuỗi những khái niệm về đói nghèo, phân hóa
giàu nghèo và xóa đói giảm nghèo.
Các khái niệm phạm trù khác nhau được sử dụng và nhắc tới chỉ vì chúng có liên
hệ trực tiếp hay gián tiếp với trục khái niệm nêu trên. Hơn nữa cần thấy rằng, tuy đói
nghèo và phân hóa giàu nghèo là biểu đạt nội dung kinh tế, có nguồn gốc, căn nguyên
kinh tế của nó, xong với tư cách là một hiện tượng tồn tại phổ biến ở tất cả các quốc
Trang 4
gia trong tiến trình phát triển, đói nghèo và phân hóa giàu nghèo không bao giờ là một
hiện tượng thuần túy, mà thực chất của nó là hiện tượng kinh tế - xã hội.
Không có hiện tượng kinh tế nào là thuần túy, đứng độc lập, biệt lập bên ngoài xã
hội và các quan hệ hệ xã hội của con người trong quá trình sản xuất - trao đổi, lưu
thông - phân phối thì cũng không thể có một hiện tượng xã hội, một quan hệ xã hội
nào lại có thể tồn tại mà không có nội dung vật chất, gốc rễ kinh tế ở bên trong nó “Cái
kinh tế” và “ cái xã hội” là một sự liên kết chính thể, nương tựa, biểu hiện, tác động và
chế ước lẫn nhau. Trong hoạt động thực tiễn và trong đời sống của con người, của xã
hội, kinh tế và xã hội có quan hệ biện chứng với nhau. Như một liên quan hệ tất yếu,
kinh tế - xã hội còn tính biện chứng chính trị và xét rộng ra còn với cả văn hóa nữa.
Như thế, đói nghèo và phân hóa giàu nghèo là khái niệm kép, vừa có mặt kinh tế,
vừa có mặt xã hội trong nội dung của nó, trong sự phát sinh, diễn biến của nó. Nhân tố
chính trị và văn hóa cũng có phần tác động, gây ảnh hưởng tới hiện trạng, xu hướng và
cách giải quyết nó.
Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, bởi vì vậy là cơ sở
tìm kiếm đồng bộ các giải pháp, biện pháp xóa đói giảm nghèo ở nước ta, nhất là vùng
dân cư nông nghiệp nông thôn. sau nữa cần nhấn mạnh rằng, đói nghèo là một khái
niệm mang tính chất động, biến đổi, di chuyển chứ không tĩnh, không bất biến. Vậy,
những nhân tố nào tạo nên đặc điểm của hiện tượng đói - nghèo?, Đó là sự phát triển
của sản xuất, mức tăng trưởng kinh tế, sự tăng lên của nhu cầu con người, những biến

đổi của xã hội (xét trên bình diện quốc gia - dân tộc lẫn khu vực và quốc tế).
Thực tế cho thấy rõ, chỉ số xác định đói nghèo và giàu – nghèo luôn di động. Ở
một thời điểm, với một vùng, một nước nào đói, thì chỉ số đo được là đói, nghèo hoặc
giàu, nhưng ở một thời điểm khác, cộng đồng dân cư khác, thì chỉ số đói đó có thể mất
ý nghĩa. Đây là điểm giải thích vì sao các nhà nghiên cứu lý luận về vấn đề đói nghèo
và phân hóa giàu nghèo lại thường gắn bó với lý thuyết phát triển. Điều đặc biệt quan
trọng là phải có một quan niệm hiện đại về phát triển, lấy đói làm cơ sở, làm điểm tựa
cho việc nghiên cứu về đói nghèo. phân hóa giàu nghèo cũng như xóa đói, giảm
nghèo.
Nghèo đói là một hiện tượng kinh tế xã hội có tính lịch sử và phổ biến ở mọi xã
hội, quốc gia dân tộc. Nghèo đói là một khái niệm không cố định và chưa thống nhất.
Trang 5
Tùy theo góc độ, mục đích nghiên cứu người ta có thể đưa ra quan niệm về nghèo đói
khác nhau.
Tại Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, tổ
chức tháng 9-1993 tại Băng Cốc (Thái Lan) đã đưa ra khái niệm nghèo đói như sau :
“ Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản của con người, mà nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận theo
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương” [1, tr. 2].
Có thể xem đây là định nghĩa chung nhất về đói nghèo, một định nghĩa có tính
chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ biến về nghèo
đói.
Các tiêu chí và chuẩn mực đánh giá còn ngõ về mặt lượng hóa (định lượng) bởi
nó chưa tính đến những khác biệt và độ chênh lệch giữa các vùng các điều kiện lịch sử
cụ thể quy định trình độ phát triển ở mọi nơi. Nội dung hạt nhân có trong định nghĩa
này là nhu cầu cơ bản của con người. Căn cứ xác định đói nghèo là ở chỗ đối với
những nhu cầu cơ bản ấy, con người không được hưởng và thỏa mãn, Nhu cầu cơ bản
ấy chính là cái thiết yếu, tối thiểu để duy trì sự tồn tại của con người như, ăn, mặc, ở.
Theo đó, sự nghèo khổ tuyệt đối, sự bần cùng được biểu hiện là đói, là tình trạng con
người không có ăn, ăn không đủ dinh dưỡng cần thiết tối thiểu, sự đứt đoạn trong nhu

cầu ăn. Nói một cách khác, đói là một khái niệm biểu đạt con người ăn không đủ no,
không đủ năng lượng tối thiểu để duy trì sự sống hàng ngày và không đủ sức lao động,
để tái sản xuất lao động. Đây là trường hợp đói gắt kinh niên, là tình trạng thiếu ăn
thường xuyên. Cũng như thế, nếu con người trong những hoàn cảnh đột xuất, bất ngờ
do thiên tai lũ lụt, mất mùa bệnh tậc, rơi vào cùng cực, không còn gì để sống, không có
lương thực, thực phẩm để ăn, có thể dẫn đến cái chết là trường hợp đói gay gắt cấp
tính, phải cứu trợ khẩn cấp[25. tr, 7].
Có thể hình dung tình trạng đói, thiếu ăn ở các hộ gia đình nông dân hoặc bộ
phận dân cư phải sống dưới mức tối thiểu qua động thái các bữa ăn trong ngày của họ.
Có mấy biểu hiện như sau:
Thất thường về lượng: bữa đói bữa no.
Đói bữa: ngày họ chỉ ăn một bữa, hoặc bữa cơm, bữa cháo hoặc cả hai đều
không đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu cần thiết. Đứt bữa kéo dài từ một tháng, hai
tháng, kéo dài một năm, nhất là thời kỳ giáp hạt.
Trang 6
Về mặt năng lượng, nếu trong một ngày, con người chỉ được thỏa mãn mức
15.000 calo/ ngày thì đó (thiếu ăn); dưới mức đó là đói gay gắt.
Để lượng hóa các tiêu chí đói, người ta thường dùng số đo hiện vật theo quy định
chuẩn mức bình quân đầu người trong tháng. Ở đây, mức chênh lệch khác nhau giữa
thành thị và nông thôn.Tính đến biến động giá cả trên thị trường tiêu dùng, nhất là khi
có lạm phát, khủng hoảng, nền kinh tế suy thoái hoặc chậm phát triển, ta thường thấy
mức hiện vật (gạo) phổ biến được dùng làm số đo hiện trạng đói nghèo.
Về mặt kinh tế, nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu, trong
hoàn cảnh nghèo thì người nghèo và những hộ nghèo cũng chỉ vật lộn với mưu sinh
hàng ngày về kinh tế - vật chất, biểu hiện trực tiếp nhất ở bữa ăn. Họ không thể vươn
lên mức nhu cầu về văn hóa tinh thần, hoặc nhu cầu này phải cắt giảm đến mức tối
thiểu nhất, gần như không có. Điều này thể hiện rõ ở nông thôn với những trẻ em thất
học, bỏ học, các người nghèo không có khả năng để thụ hưởng văn hóa chữa bệnh khi
ốm đau, không đủ hoặc không thể mua sắm thêm quần áo cho nhu cầu mặc, sửa chữa
nhà cửa cho nhu cầu ở…Nghèo là chỉ tình trạng thu nhập thực tế của người dân chỉ

dành chi hầu hết toàn bộ ăn, thậm chí không đủ ăn, phần tích lũy hầu như không có.
Do đó các nhu cầu tối thiểu ngoài ăn ra như ở, mặc, văn hóa, y tế giáo dục, đi lại, giao
tiếp, đáp ứng một phần ít ỏi không đáng kể.
- Theo Liên Hợp Quốc nghèo được chia làm hai loại: nghèo tuyệt đối và nghèo
tương đối:
Nghèo tuyệt đối: Là do mức thu nhập thấp, bình thường là một bộ phận dân cư
không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt tối thiểu thuộc về bản thân để duy
trì cuộc sống. Trên thực tế, một bộ phận dân cư nghèo rơi vào tình trạng đói và thiếu
đói.
Nghèo tương đối: Là khái niệm chỉ cái nghèo theo một tiêu thức nhất định trong
một cộng đồng dân cư nhất định. Đó là kết quả so sánh mức thu thập giữa các nhóm
dân cư trong một cộng đồng (vùng, ngành, quốc gia, khu vực…). Như vậy nghèo
tương đối là tình trạng của bộ một bộ phận dân cư có mức sống dưới trung bình cộng
đồng tại địa phương. Quan niệm này phù hợp với sự xác định khái niệm nghèo khổ ,
hiểu theo nghĩa tuyệt đối và tương đối do Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương (ASCAP) đưa ra gần đây[1, tr. 1].
Trang 7
Theo đó sự thiếu thốn của cải trong mối quan hệ với nhu cầu thiết yếu của con
người được xem là nghèo tuyệt đối. Còn khi xem xét thực trạng mức sống và nhu cầu
của họ sẽ cho ta hình dung được về nghèo khổ tương đối. Từ cách hiểu chung này cần
thấy sự khác biệt các mức nghèo khổ có tính chất địa phương, khu vực.
Một quốc gia được xem là nghèo thu nhập bình quân đầu người thấp, nguồn lực
(tài nguyên) cực kỳ hạn hẹp (về vật chất, lao động, tài chính) cơ sở hạ tầng, và môi
trường yếu kém, có vị trí thuận lợi trong giao lưu với cộng đồng quốc tế .
Ở đây cần đến một thực tế về khái niệm nghèo khổ có thể thống nhất (thống nhất
định tính) song, không thể có một chuẩn mực chung về nghèo khổ cho tất cả các quốc
gia. Ngay trong cùng một quốc gia cũng có những vùng miền khác nhau, Hơn nữa
chuẩn mực nào như đã nói, nó có tính động chứ không bất biến, nó biến đổi theo thời
gian, tương ứng với biến đổi kinh tế - xã hội. Vì lẽ đó, trên cơ sở thống nhất quan niệm
về mặt định tính, chúng ta cần phải xác định thước đo mức đói nghèo của mỗi quốc

gia.
1.1.2. Quan niệm về chuẩn nghèo của Việt Nam.
Việt Nam được xem là một những nước nghèo nhất thế giới, đời sống người dân
ở các vùng, miền còn rất nhiều khó khăn. Để hiểu như thế nào là nghèo đói ở Việt
Nam, với nguyên tắc phương pháp luận sau đây, chúng ta hãy xem cụ thể hơn các chỉ
số xác định đói nghèo ở Việt Nam.
Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội nước ta và hiện trạng đời sống
trung bình phổ biến của dân cư hiện nay, có thể xác lập các chỉ tiêu đánh giá về đói
nghèo theo mấy chỉ tiêu chính sau đây: thu nhập; nhà ở và tiện nghi sinh hoạt; tư liệu
sản xuất và vốn liếng để dành. Trong 4 chỉ tiêu này, cần chú ý về chỉ tiêu về thu nhập
và nhà ở (cùng các tiện nghi sinh hoạt). Hai chỉ tiêu này phản ánh trực tiếp mức hay
mức độ thực hiện các nhu cầu cơ bản tối thiểu của đời sống. Hai chỉ tiêu tư liệu sản
xuất và vốn liếng để dành cũng có ý nghĩa không nhỏ. Nó cho thấy rõ tình cảm thật sự
của người nghèo và các hộ đói nghèo, nhất là ở các xã vùng xa vùng sâu. Trong thực
tế đã lâm vào cảnh đói nghèo thì thường là tư liệu sản xuất hết xuất ít ỏi, nghèo nàn,
kém giá trị sử dụng và khai thác để làm ra của cải. Người nghèo và hộ nghèo, đặc biệt
là các hộ nghèo không có vốn tích lũy sản xuất và tái sản xuất. Hai chỉ tiêu này giúp
chúng phân biệt rõ hơn người giàu và nghèo, giữa người giàu và nghèo ở các vùng
nông thôn, xã, thị trấn và đô thị. Sau đây ta xem xét nội dung các chỉ tiêu đó:
Trang 8
- Chỉ tiêu về thu nhập và các nguồn thu nhập khác:
Tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người trong một năm (GDP/ người/ năm)
hay tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người trong một năm
(GDP/người/năm). Đây là chỉ tiêu khái quát nhất về mặt kinh tế, phản ánh thu nhập
của người dân về mặt giá trị vật chất. Đó là tổng thu V+M, từ tất cả các nguồn chính
tính bình quân trên đầu người trên tháng.
Các đối tượng khác thì có nguồn thu nhập khác nhau. Công nhân viên chức ở cơ
quan và doanh nghiệp có nguồn thu từ lương và các nguồn thu ngoài lương vẫn thuộc
các cơ quan, doanh nghiệp với thu từ các hoạt động khác (kinh tế gia đình, làm thêm
ngoài giờ)

Nông dân có nguồn thu nhập các hoạt động sản xuất nông nghiệp và thu từ các
hoạt động không kết cấu (nghề phụ, chạy chợ…). Do giá cả thay đổi theo thời gian và
có sự khác nhau giữa các địa phương, cho nên để đơn vị đo thống nhất cần quy thu
nhập từ tiền ra gạo trung bình. Cơ cấu sử dụng thu nhập cho nhu cầu tối thiểu là 15,1
đến 16,2 kg gạo/ người/tháng, bao gồm:
Ăn: 13kg/người tháng.
Mặc: ở (chi phí sửa chữa nhà cửa): 2,1kg.
Văn hóa: y tế giáo dục , đi lại: 1,1 kg.
Như vậy, theo bản cơ cấu này thì người nghèo tuyệt đối là tình trạng dân cư chỉ
có thu nhập đảm bảo mức sống dưới mức tối thiểu, tức dưới 15kg gạo/người/tháng.
Người nghèo tuyệt đối và các hộ nghèo tuyệt đói đương nhiên là không có điều kiện
thực hiện các nhu cầu văn hóa, y tế giáo dục và đời sống tinh thần nói chung.
Còn nghèo tương đối, được xác định cho tình trạng dân cư có mức thu nhập dưới
mức trung bình cộng đồng tại địa phương đang xét. Nếu thu nhập dưới ngưỡng của
nghèo là đói, mức dưới ngưỡng càng xa thì càng gay gắt. Do đó, đó có thể phân biệt
hai mức độ của đói là thiếu đói và đói gay gắt.
Thiếu đói là tình trạng dân cư có thu nhập dưới 12kg gạo/người/tháng, còn gay
gắt là tình trạng dân cư có mức thu nhập dưới 8 kg/ gạo/ người/ tháng.
Tương tự chúng ta cũng có thể tính thu nhập bằng tiền để xác minh mức độ
nghèo như sau: Nghèo tuyệt đối; bộ phận dân cư nông thôn có mức dưới sống tối thiểu
25.000 đồng/người/tháng hay 300.000 đồng/người/năm. Ở đô thị thì xét dưới 30.000
Trang 9
đồng/người/tháng hay 360.000 đồng/người/năm; Nghèo tương đối vẫn được xét dưới
mức trung bình của cộng đồng tại địa phương.
Về mặc thu tính theo giá trị đồng tiền thì thiếu đói có nghĩa là bộ phận dân cư ở
nông thôn, có thu nhập tính theo giá trị đồng tiền thì thiếu đói có nghĩa là bộ phận dân
cơ ở nông thôn có thu nhập dưới mức 20.000 đồng/người/tháng, 245.000
đồng/người/năm và ở thành thị là dưới 24.500 đồng/người/tháng hay 294.000
đồng/người/năm.
Đói gay gắt: bộ phận dân cư nông thôn có thu nhập dưới 13.000

đồng/người/tháng hoặc 163.000 đồng/người/năm. Bộ phận dân cư đô thị dưới 16.300
đồng/người/tháng hoặc 196.000 đồng/người/năm[1, tr. 3].
- Chỉ số nhà và tiện nghi sinh hoạt:
Những người nghèo đói thường sống trong những căn hộ tồi tàn, nhà tranh vách
đất (miền Bắc), nhà lá dừa nước lợp tôn (miền Nam)
Đồ dùng sinh hoạt không có gì ngoài gỗ, tre, phả, cái chõng và vài thứ khác, ở
mức dưới trung bình về lượng và tồi tàn về chất.
Tuy nhiên, có một số người nghèo đối vẫn có thể ở nhà xây, có vài đồ dùng khác,
tất cả hầu như do cha ông để lại là dấu tích của thời khá giả còn lại trước khi rơi và
ngoài nghèo khổ.
- Chỉ tiêu về tư liệu sản xuất:
Đa phần những người nghèo đói ít có tư liệu sản xuất hoặc thậm chí không có tư
liệu sản xuất phải đi làm mướn, làm thuê, phần lớn thô sơ, đất đai, vườn ao hầu như
không có, một bộ phận thiếu ruộng đất để sản xuất.
- Chỉ tiêu về vốn:
Những người nghèo đói thường không có vốn để dành. Họ thường phải vay nợ và
những người đói gay gắt lại thường vay nợ để mua lương thực cứu đói. Ở một số nơi
cho vay nặng lãi (lãi suất cao), người nghèo không trả được, nợ nần ngày càng chồng
chất, đã không ít trường hợp phải bán ruộng đất (nếu có) để có thể trừ nợ vào những
khoản nợ đã vay, hoặc làm thêm trả nợ, bỏ đi thành phố, lần hồi để kiếm kế sinh nhai
bằng đủ cách, mọi nghề.Trường hợp trẻ em lang thang, phụ nữ đi ở hoặc làm công cho
các nhà giàu có, rơi vào ổ chứa mại dâm, nam giới bán sức lao động ở các chợ lao
động từ mấy năm trở lại đây cho các vấn đề xã hội trở nên phức tạp và nan giải hơn,
Trang 10
hạnh phúc gia đình bị đe dọa, nhân phẩm con người bị hạ thấp, tệ nạn xã hội ngày
càng trở nên gay gắt.
Ngoài ra, ở nước ta chính phủ còn đưa ra tiêu thức để phân định đói nghèo. Ngân
hàng thế giới (WB) đưa ra ngưỡng nghèo cho Việt Nam là mức chi tiêu cần thiết cho
hộ gia đình đủ mua lương thực, thực phẩm cung cấp 2100 calo năng lượng/người/ngày
và năm 1995 và 2300 Calo và thời điểm 1997.

- Chuẩn nghèo đói của Việt Nam được xây dựng trên hai căn cứ chính:
Đảm bảo thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt cơ bản của người như ăn, mặc, y tế, giáo
dục, đi lại, văn hóa, giao tiếp.
Khả năng nguồn lực của đất nước để giải quyết vấn đề đói nghèo.
Chuẩn nghèo đói :
Chuẩn nghèo của Bộ Lao động - Thương binh – Xã hội nước ta cũng đã thay đổi
nhiều lần và các năm 1993, 1995, 1997 và những giai đoạn mới vào các năm từ 2001 –
2005; 2006 – 2010 và mới nhất hiện nay là chuẩn nghèo được xác định ở giai đoạn
giai đoạn hiện nay từ 2011 – 2015 của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành.
Khu vực nông thôn: thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng, hay
4.800.00 đồng/người/năm gọi là nghèo.
Khu vực thành thị: thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng hay
6.000.000 đồng/người/năm gọi là nghèo.
Ngoài ra còn xác định chuẩn hộ cận nghèo: hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có
mức thu nhập bình quân từ 401.000 – 520.000 đồng/người/tháng. Hộ cận nghèo ở
thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 – 650.000
đồng/người/tháng[31].
Xã nghèo có trên 40% tổng số hộ nghèo đói, không có hoặc thiếu những cơ sở hạ
tầng thiết yếu, trình độ dân trí thấp, tỉ lệ mù chữ cao. Vùng nghèo là những vùng có
địa bàn tương đối rộng, nằm ở những khu vực khó khăn, trở ngại giao thông không
thuận lợi, có tỷ lệ hộ nghèo, xã nghèo cao[1, tr 2].
Trên đây là một số quan niệm đói nghèo và chỉ tiêu đánh giá người nghèo và hộ
nghèo, chúng ta thấy rõ thêm đặc trưng kinh tế - xã hội của hiện tượng nghèo, đặc
trưng là về mặt kinh tế. Các hậu quả tiêu cực của đói nghèo, xét từng bình diện xã hội,
đều bắt nguồn và phát sinh trực tiếp từ căn nguyên kinh tế.
Trang 11
Từ đó vấn đề bức xúc nhất là phải xóa đói, giảm nghèo về kinh tế. Các biện pháp
xóa đói, giảm nghèo trước hết và căn bản phải là biện pháp kinh tế, các chính sách đầu
tư phát triển kinh tế, đồng thời không xem nhẹ lĩnh vực xã hội và các chính sách xã
hội. Tạo thêm việc làm mới, ngành nghề mới, thu hút sức lao động của nghèo vào chỗ

việc làm mới, chính sách cho vay và hỗ trợ sản xuất của công dân nghèo (lãi suất thấp)
… là những biện pháp và chính sách góp phần thực hiện chương trình xóa đói giảm
nghèo ở nước ta.
Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội, là vấn đề của cả nước ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của cả cộng đồng dân cư, xã hội gây trở ngại với sự phát
triểnchung của cả nước.
Do đó, đây cũng là vấn đề mang tính phổ biến chung của các quốc gia, không thể
giải quyết triệt để vấn đề này chỉ trong một thời gian ngắn và quy mô trên toàn xã hội.
Yêu cầu thiết yếu và nhu cầu to lớn này cần phải giải quyết từng bước, từng thời kỳ,
mà trọng điểm trước mắt là cần xóa đói giảm nghèo ở lĩnh vực kinh tế với đối tượng là
nông dân và dân cư nông thôn.
1.2. Sự cần thiết của công tác xóa đói giảm nghèo và chủ trương của Đảng ta về
công tác xóa đói, giảm nghèo.
1.2.1. Sự cần thiết của công tác xóa đói giảm nghèo.
Việt Nam được xếp vào nhóm nước nghèo nhất của thế giới với tỷ lệ hộ nghèo
còn khá cao. Theo kết quả điều tra của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, mức
sống dân cư thì tỷ lệ đói nghèo trong giai đoạn 1992 - 1993 là 50% vào trong năm
1998 là trên 37% nếu tính theo tiêu chuẩn nghèo chung của Ngân hàng thế giới. Theo
tiêu chuẩn xác định đói nghèo của Việt Nam thì 1992 - 1993 là 30%, năm 1999 là 13%
và năm 2000 dự kiến còn khoảng 11%, nhưng theo kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo
năm 2012 thì cho tới năm 2010 thì tỷ lệ hộ nghèo còn tới 14,2 % và còn 11,76% vào
năm 2011, 9,6% (2012), cho thấy được giảm nghèo chưa đáng kể trong những năm
qua [27, tr 12].
Đói nghèo là chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, theo kết quả khảo sát thì có
tới 90% hộ nghèo là ở vùng nông thôn nhất là ở các khu vực miền núi.
Đói nghèo mang tính chất vùng rõ rệt, ở vùng núi và vùng dân tộc thiểu số đói
nghèo hiện nay chiếm 20%, miền núi phía Bắc, vùng Bắc trung bộ và Tây Nguyên là
những vùng nghèo nhất.
Trang 12
Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng, tăng theo kết quả điều tra nông thôn,

nhóm hộ có thu nhập cao nhất so với nhóm hộ thu nhập thấp nhất chênh nhau 7,3 lần
(1996) tăng lên 11,2 lần (1998) và hệ số chênh lệch này cho đến nay vẫn còn rất lớn, tỷ
lệ mức sống giữa thành thị và nông thôn hiện nay rất chênh với nhau.
Những người nghèo họ rất dễ bị tổn thương: thể hiện ở chỗ, những khó khăn đột
biến, rủi ro đến với gia đình, những cuộc khủng hoảng xảy ra đối với cộng đồng…
thường gây thiệt hại lớn với những người đói nghèo, đó là nét đặc trưng cơ bản của
các xã hội khác nhau. Những hộ gia đình nghèo chỉ có khả năng trang trải ở mức độ
hạn chế, tối thiểu các chi phí lương thực và nhu cầu thiết yếu khác, họ rất dễ bị tổn
thương trước các yếu tố khác xảy ra, họ thường phải bỏ ra các chi phí không đáng có
hoặc bị giảm thu nhập vì khó tiếp cận của sự phát triển kinh tế. Đối với hộ nghèo khi
chỉ có một thành viên của gia đình bị ốm đau thì đó là sự nghiêm trọng, mà các hộ
nghèo thường đau yếu do mức sinh hoạt thấp, vì vậy cuộc sống của các hộ nghèo
thường gặp rất nhiều khó khăn[27, tr. 14].
Nghèo đói ảnh hưởng đến sự phát kinh tế - xã hội: Qua nhiều nghiên cứu thực tế
cho thấy, đói nghèo là một lực cản trên con đường phát triển kinh tế của mỗi vùng
quốc cũng như các quốc gia. trên góc độ cá nhân và gia đình thì đói nghèo tạo thành
một vòng luẩn quẩn: Nghèo đói → trình độ văn hóa thấp → thu nhập thấp → ăn uống
không đầy đủ → sức khỏe kém → năng suất lao động kém → làm không đủ ăn → vay
mượn, nợ nần chồng chất → nghèo đói, cứ quấn lấy những người nghèo mà họ không
biết phá vỡ mắt xích nào để thoát ra được[27, tr. 15]. Trên góc độ vùng hay quốc gia
thì vòng luẩn quẩn là:
Vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói
Trang 13
CÁC HOẠT
ĐỘNG KINH TẾ-
XÃ HỘI
Nhìn vào đó đó có thể thấy sự nghèo đói có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự
hưng, thịnh quốc gia, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau cho nên vấn đề xóa đói giảm
nghèo phải rất là cần thiết.
1.2.2. Chủ trương của Đảng ta về xóa đói giảm nghèo.

Đảng cộng sản Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác - Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn
kiên định con đường ‘dân giàu, nước mạnh. Đảng ta coi cơ sở phương pháp luận quan
trọng và cơ bản nhất để phân tích vấn đề đói nghèo và xóa đói giảm nghèo là giải
phóng con người khỏi mọi áp lực, bất công thực hiện công bằng xã hội. Chủ nghĩa xã
hội là quá trình kiến tạo hạnh phúc và cũng là quá trình với sự công bằng, đấu tranh để
thủ tiêu nguồn gốc bất công xã hội.
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Đảng
ta luôn quan tâm thích đáng đến việc xóa đói, giảm nghèo, xây dựng một đời sống vật
chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Đặc biệt là từ sau 1975,
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đưa đất nước đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã
hội. Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội luôn là vấn đề cốt yếu của chế độ xã hội chủ
nghĩa, với tư tưởng xuyên suốt là tăng trưởng và phát triển kinh tế phải đi đôi với việc
giải quyết các vấn đề xã hội, từng bước thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện
kinh tế cho phép, trong đó vấn đề xóa đói giảm nghèo xem là mang tính chiến lược
trong chiến lược kinh tế - xã hội của đất nước.
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xóa đói giảm nghèo, Đảng
Cộng sản Việt Nam coi đói nghèo như là một thứ “giặc” cần phải diệt trừ trong quá
trình đổi mới và phát triển đất nước. Đảng ta luôn quan tâm đến đói nghèo và luôn
nhất quán xây dựng đất nước mà nhân dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành, được sống tự do, ấm no hạnh phúc. Quan điểm của Đảng về xóa đói, giảm
nghèo xây dựng nước Việt Nam là một quá trình hoàn thiện, sâu sắc hơn. Những đại
hội gần đây nhất, từ đại hội VI đến Đại hội XI, Đảng ta có nhiều nghị quyết, nhiều văn
bản đề cập tới vấn đề xóa đói, giảm nghèo.
Tại Đại hội VI (1986) với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiêm khắc phê bình những sai lầm, kiểm
điểm, đề ra những đường lối mới về xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nội dung cơ bản
mang tính đột phá của đường lối mới là chuyển biến nền kinh tế từ mô hình tập trung
Trang 14
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế

thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đây là bước ngoặc lịch sử quan trọng, nó đánh
dấu bước khởi đầu cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế đất nước, đồng thời cũng
là điểm khởi sắc cho việc thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo. Đại hội VI của Đảng
đã đề ta mục tiêu là bảo đảm nhu cầu ăn của toàn xã hội và bước đầu có dự trữ. Vấn đề
lương thực phải được giải quyết một cách toàn diện.
Quan điểm xóa đói giảm nghèo được Đảng ta tiếp tục thể hiện rõ ràng trong văn
kiện Đại hội đại biểu toàn qua lần thứ VII của Đảng. Trong phần “Chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế đến 2000” chỉ rõ “nhân dân làm chủ nhân ái có văn hóa, có kỷ
cương, xóa bỏ áp bức bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do
hạnh phúc” [3, tr. 8]. Xóa đói, giảm nghèo là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc cần giải
quyết để tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Theo quan điểm của Đảng ta, xóa đói, giảm nghèo là điều kiện, là tiền đề giữ
vững ổn định chính trị và xã hội. Đồng thời là điều kiện cơ bản đảm bảo cho công
cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi. Xóa đói, giảm nghèo
thể hiện: đường lối, chính trị, bản chất đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội Đại
biểu toàn quốc Lần VII của đảng xác định “Cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng
kinh tế phải tiến hành công tác xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội tránh
sự phân hóa giàu nghèo quá giới hạn cho phép”[4, tr. 39 ].
Đến Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường kinh gắn liền công
bằng xã hội”[5,tr.72], Đảng ta chủ trương “khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống
làm giàu phi pháp đi đôi với chăm lo xóa đói giảm nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách
và trình độ phát triển về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư, đặc
biệt là căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, các gia đình chính sách, làm cho mọi
người, mọi nhà đều tiến tới cuộc sống ấm no hạnh phúc”[5,tr. 27]. Chủ trương khuyến
khích tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người làm giàu chính đáng, hợp pháp tạo ra
nhiều của cải vật chất cho xã hội, mang sức mạnh cạnh tranh cao với thị trường, đóng
góp nhiều tài lực, vật lực cho xã hội. Đảng ta đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo “
Thừa nhận thực tế là có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội,

nhưng phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của người loa động, vừa khuyến khích làm
Trang 15
giàu hợp pháp, vừa coi trọng xóa đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã
hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả”[5,tr.72-73].
Để xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả thiết thực, tích cực vững chắc cần phải quán
triệt phương châm chủ động, tự lực vươn lên để giải quyết tại chỗ, cộng đồng hỗ trợ
phát triển. Yêu cầu xóa đói, giảm nghèo ở nước ta phải phát huy tính tự sáng tạo của
quần chúng nhân dân, của bản thân người nghèo, cũng như trách nhiệm to lớn của Nhà
nước và chính quyền địa phương và toàn thể cộng đồng xã hội. Đại hội VIII đã đề ra
chương trình xóa đói, giảm nghèo với phương châm thực hiện “xây dựng và phát triển
quỹ xóa đói, giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong nước và ngoài nước, quản lý
chặt chẽ đầu tư đúng đối tượng có hiệu quả”[5,tr.125].
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX thì quan điểm của Đảng ta về xóa đói,
giảm nghèo cũng nhất quán với các quan điểm trong các lần Đại hội trước nhưng có
điểm mới đó là “Chính sách xóa đói giảm nghèo phải thực hiện thông qua những biện
pháp cụ thể, sát với từng địa phương để xóa nhanh các hộ đói, giảm nhanh các hộ
nghèo. Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội tạo các nguồn vốn cho
vay sản xuất, đẩy nhanh kết cấu hạ tầng ở nông thôn như trường học, trạm y tế, điện,
nước sạch ở nông thôn, phải đầu tư mạnh hơn cho các xã khó khăn” [6,tr.41]. Quan
điểm trên cho chúng ta thấy rằng: vấn đề xóa đói, giảm nghèo phải thực hiện bằng
những biện pháp cụ thể, những hành động thiết thực chứ không phải là những lời nói
suông, những hoạt động mang tính hình thức, làm cho qua loa không phù hợp với địa
phương. Bên cạnh đó còn thấy được xóa đói, giảm nghèo không chỉ là trách nhiệm của
Đảng và Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn thể nhân dân, là trách nhiệm của
toàn xã hội.
Quan điểm của Đảng về xóa đói, giảm nghèo còn bao hàm cả việc nhà nước tạo
điều kiện cho mọi người đều có cơ hội để phát triển và dự dụng tốt năng lực của mình.
Nhiều chiến lược, chương trình về vấn đề này đã được Đảng và Nhà nước đề ra “Tiếp
tục tăng trưởng nguồn vốn đói, giảm nghèo, mở rộng các hình thức tín dụng trợ giúp
người nghèo sản xuất, kinh doanh. Có chính sách hỗ trợ giá nông sản, phát triển việc

làm và nghề phụ nhằm tăng thu nhập của các hộ nông dân. Thực hiện chính sách xã
hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm bảo hiểm xã hội
đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, cứu trợ xã hội những người gặp
rủi ro, bất hạnh”[6,tr.106].
Trang 16
Trong định hướng phát triển ngành, lĩnh vực và vùng giai đoạn 2006 – 2010, Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X chỉ rõ tiếp tục đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo; đa
dạng hóa các nguồn lực và phương hướng thực hiện xóa đói, giảm nghèo theo hướng
phát huy cao nội lực và kết hợp sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp của quốc tế. “Nhà
nước tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và sự trợ giúp về điều
kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn lên
thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững…Đẩy mạnh việc thực hiện
chính sách đặc biệt về sự trợ giúp đầu tư phát triển sản xuất, nhất là đất ở, nước sạch,
đào tạo nghề, đào tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo”[7,tr.189-217].
Đến đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Thực
hiện có hiệu quả hơn các chính sách giảm nghèo cho phù hợp với từng thời kỳ; đa
dạng hóa nguồn lực và thức thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các
huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn, khuyến khích làm giàu theo pháp
luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có chính sách và giải pháp
phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông
thôn và thành thị”[8,tr. 96]. Để cụ thể hóa hơn định hướng các Đảng, Chính phủ đã
đưa ra các mục tiêu cần đạt được trong giảm nghèo từ năm 20011 đến năm 2020:
Giảm nghèo bền vững là một trong những trọng tâm Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội giai đoạn 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao đời sống của người
nghèo, trước hết là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo chuyển biến
mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị
và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư.
Trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đưa chương trình xóa đói,
giảm nghèo là một trong mười một chương trình kinh tế - xã hội với mục tiêu và giải
pháp đến năm 2020. Tiếp đó, Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Chỉ thị số

23/CT – TƯ, ngày 29/11/1997 về lãnh đạo công tác xóa đói, giảm nghèo. Đến nay chủ
trương của Đảng, Nhà nước đã đi vào cuộc sống. Xóa đói, giảm nghèo đã trở thành
phong trào sâu rộng ở cả 64 tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước.
Để giải quyết vấn đề đói nghèo trên phạm vi cả nước Đảng và Nhà nước đã ban
hành nhiều quyết định, chương trình xóa đói giảm nghèo hiệu quả như:
- Quyết định số 133/QĐ – TTg, ngày 23/7/1998 phê duyệt chương trình mục tiêu
quốc gia về xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 1998 – 2000.
Trang 17
- Quyết định số 143/2001/QĐ – TTg 27/9/2001 về phê duyệt chương trình xóa
đói giảm nghèo việc làm giai đoạn 2001 – 2005.
- Quyết định 134/2004/QĐ – TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ
chương trình 134 về ột số danh sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt
cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, có đời sống khó khăn.
- Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, ngày 27/12/2008 về vấn đề Chương trình hỗ
trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo.
Từ những chủ trương và chiến lược trên chúng ta có thể thấy một số quan điểm
cụ thể trong công tác chỉ đạo, triển khai công tác xóa đói giảm nghèo của Đảng như
sau:
- Xóa đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả
bền vững, đồng thời chủ động tạo các nguồn lực cho các hoạt động trợ giúp người
nghèo.
- Xóa đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước, của toàn xã hội mà
trước hết là bổn phận người nghèo,phụ thuộc và sự vận động tự giác của bản thân
người nghèo, cộng đồng nghèo.
- Triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo bằng nguồn
tài chính trợ giúp của Nhà nước và các tổ chức trong và ngoài nước.
- Việc hỗ trợ cho vay vốn với người nghèo phải đi liền với công tác tư vấn,
hướng dẫn sử dụng vốn vay hiệu quả căn cứ hoàn cảnh cụ thể của từng hộ gia đình.
Xóa đói, giảm nghèo một chủ trương lớn, quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước
ta. Chiến lược xóa đói giảm nghèo không chỉ có ý nghĩa toàn diện về chính trị - xã hội,

kinh tế - an ninh – quốc phòng mà còn là mục tiêu nhân đạo tiến bộ và công bằng xã
hội. Chỉ có trên cơ sở lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, phong trào xóa đói,
giảm nghèo mới thực hiện được thắng lợi.
Trang 18
CHƯƠNG 2
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN MỸ TÚ VỀ CÔNG TÁC XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO VÀ HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
CỦA HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG TỪ NĂM 2004 ĐẾN NĂM 2014
2.1. Khái quát huyện Mỹ Tú và những nguyên nhân gây ra đói nghèo của huyện
Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.
2.1.1. Khái quát về huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.
Mỹ Tú là huyện có diện tích đất tự nhiên lớn của tỉnh Sóc Trăng, đã qua nhiều lần thay
đổi và bị chia cắt ra. Nói về lịch sử thành lập của huyện Mỹ Tú, theo Nghị định số
03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3
năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh
ngang bằng nhau là tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ để thành lập
một tỉnh mới có tên là tỉnh Hậu Giang. Lúc này, huyện Châu Thành (thuộc tỉnh Sóc
Trăng cũ) được đổi tên thành huyện Mỹ Tú, do tỉnh Hậu Giang lúc này đã có huyện
Châu Thành vốn trước đó thuộc tỉnh Cần Thơ. Như vậy, từ năm 1976 Mỹ Tú trở thành
huyện của tỉnh Hậu Giang, gồm thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa và 9 xã: Phú Mỹ, Mỹ Tú,
Thuận Hưng, Mỹ Phước, Long Hưng, Hồ Đắc Kiện, Phú Tâm, Mỹ Hương, An Ninh.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh
Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Huyện Mỹ Tú thuộc tỉnh Sóc Trăng,
bao gồm thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa và 15 xã: Hồ Đắc Kiện, Phú Tâm, Thuận Hòa,
Long Hưng, Phú Tân, Thiện Mỹ, Hưng Phú, Mỹ Hương, An Hiệp, Mỹ Tú, An Ninh,
Mỹ Phước, Thận Hưng, Mỹ Thuận, Phú Mỹ.
Ngày 30 tháng 10 năm 1995, một phần đất xã An Hiệp và xã An Ninh của huyện
Mỹ Tú được nhập vào thị xã Sóc Trăng để thành lập mới phường 7 trực thuộc thị xã
Sóc Trăng. Ngày 24 tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số
02/NĐ-CP, về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Mỹ Tú để thành lập huyện

Châu Thành thành một huyện riêng.
Từ năm 2009 sau khi chính phủ đã ban hành nghị định về việc điều chỉnh địa giới
hành chính huyện Mỹ Tú để thành lập huyện Châu thành thì huyện Mỹ Tú còn lại 9
đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm: Thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa và các xã Mỹ Tú,
Mỹ Hương, Mỹ Phước, Mỹ Thuận, Hưng Phú, Long Hưng, Phú Mỹ, Thuận Hưng[29].
- Vị trí địa lý và đặc điểm khí hậu:
Trang 19
Mỹ Tú là một trong 11 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Sóc Trăng, cách Thành
phố Sóc Trăng 18 km về phía Tây, có tổng diện tích tự nhiên là 36.815,56 ha, bao gồm
8 xã và 1 Thị trấn: Thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa, các xã Long Hưng, Hưng Phú, Mỹ
Hương, Mỹ Tú, Mỹ Phước, Thuận Hưng, Mỹ Thuận và Phú Mỹ.
Về vị trí địa lý: toàn huyện nằm trên tọa độ địa lý 9o52 – 9o78 vĩ độ Bắc và
105o74 – 106o kinh Đông, giáp ranh với 5 huyện, thành phố trong tỉnh Sóc Trăng và
huyện Long Mỹ - tỉnh Hậu Giang. Cụ thể phía Đông giáp với Thành phố Sóc Trăng,
huyện Châu Thành, huyện Mỹ Xuyên; phía Tây giáp với huyện Long Mỹ - tỉnh Hậu
Giang, huyện Ngã Năm và huyện Thạnh Trị; phía Nam giáp huyện Thạnh Trị, Ngã
Năm và huyện Mỹ Xuyên; phía Bắc giáp với huyện Long Mỹ - tỉnh Hậu Giang và
huyện Châu Thành.
Về khí hậu: do nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long nên khí hậu của
huyện mang những nét đặc trưng của khí hậu đồng bằng châu thổ, chịu ảnh hưởng khí
hậu nhiệt đới gió mùa, hàng năm có 2 mùa mưa nắng rõ rệt. gió mùa Tây Nam được
hình thành từ tháng 5 đến tháng 10; gió mùa Đông Bắc được hình thành từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau. Tốc độ gió trung bình/năm là 3,9m/s, trung bình tháng lớn nhất
là 4,9 m/s, trung bình tháng nhỏ nhất là 3,1 m/s.
- Lợi thế về tiềm năng tài nguyên thuận lợi phát triển kinh tế:
Mỹ Tú là huyện có nhiều thuận về tài nguyên thiên nhiên và con người:
Lợi thế tiềm năng về tài nguyên đất đai: Mỹ tú có 4 loại đất chính bao gồm: đất
phèn, đất phù sa, đất giồng cát và đất nhân tác. Những loại đất này chủ yếu dùng để sử
dụng sản xuất nông nghiệp và cất nhà ở.
Lợi thế tiềm năng về tài nguyên nước:Tài nguyên nước của huyện rất dồi dào,

gồm hai nguồn chính: nước mặt và nước ngầm, chất lượng nước tương đối tốt, ít bị ô
nhiễm vì thế có giá trị lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.
Lợi thế tiềm năng về tài nguyên sinh vật: Mỹ Tú có tài nguyên sinh vật đa dạng
và phong phú, rất có ích cho phát triển kinh tế của vùng. Nổi bật nhất là tài nguyên
thủy sản và tài nguyên rừng.
Lợi thế tiềm năng về tài nguyên con người: Mỹ tú có tổng số người khoảng
111.647 người, là nơi gắn kết và sinh sống của nhiều dân tộc anh em, chủ yếu là dân
tộc kinh chiếm 75,54%, Hoa chiếm 1,59%, Khmer chiếm 22,87% (2009). Cộng đồng
Trang 20
các dân tộc trong huyện với những truyền thống, bản sắc riêng đã hình thành một nền
văn hóa phong phú, có nhiều nét độc đáo và giàu bản sắc dân tộc[29].
Huyện Mỹ Tú là vùng đất nông nghiệp lớn của tỉnh Sóc Trăng với tổng diện tích
đất thần nông chiếm hơn 91% (33.544,01 ha) diện tích của huyện, là vùng đất nông
nghiệp chủ là cây lúa nước. Ngoài cây lúa, cây mía cũng là một trong những cây trồng
chính của huyện Mỹ Tú. Cùng với các huyện Long Phú, Cù Lao Dung, Mỹ Tú là một
trong 3 huyện nằm trong vùng mía nguyên liệu tập trung của tỉnh Sóc Trăng. Là huyện
có nhiều tiềm năng kinh tế về nông nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi.
Nhìn chung, Huyện Mỹ Tú là vùng có vị trí địa lý quan trọng của tỉnh Sóc Trăng,
có chiều dài lịch sử rất lâu, là địa bàn hoạt động cách mạng trong những năm kháng
chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Bên cạnh đó, huyện Mỹ Tú cũng là nơi
có nhiều tài nguyên thiên nhiên thuận lợi trong sản xuất và phát triển kinh tế.
2.1.2. Những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo của huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc
Trăng trong thời gian qua.
Nghèo khổ hay đói nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội, vừa là vấn đề của
lịch sử để lại, vừa là vấn đề của phát triển, thường có trong quá trình phát triển mà
quốc gia nào cũng vấp phải. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, cả nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, nhưng ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu những
nguyên nhân chính, cụ thể sau đây:
- Những nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, do điều kiện môi trường: Tình trạng suy thoái tài nguyên môi trường tự

nhiên đang gia tăng do các chất thải công nghiệp của các nhà máy, chất sinh hoạt
thải…cùng với thiên tai ngày càng khắc nghiệt (mưa to, lốc xoáy, áp thấp nhiệt đới…)
trên một số vùng đã ảnh hưởng rất lớn tới sản xuất cũng như đời sống của người dân
như huyện Mỹ Tú, thuận Hưng và Phú Mỹ…, nhiều hoa màu, lúa, cây trái bị chết,
ngập úng, hư hỏng, năng suất thấp, gây thiếu thốn vật chất và không có điều kiện thỏa
mãn nhu cầu tinh thần. Trong đó đối tượng chịu thiệt hại nhiều nhất vẫn là tầng lớp
người nghèo.
Mỹ Tú là huyện thần nông, chiếm hơn 91% tổng diện tích tự là đất nông nghiệp
(33.544,01 ha). Với dân số trong huyện phân bố không đồng đều, mật độ dân số vào
năm 2009 là 287 người/km2. Tỷ lệ người dân tộc cao, Khơmer trên 25% (2013). Với
tỷ lệ hộ nghèo còn cao, 5.527 hộ nghèo chiếm 20.7% dân số huyện (2010). kỹ thuật
Trang 21
công nghệ được áp dụng chưa rộng rãi, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, do điều kiện
của thiên nhiên còn hạn chế, chưa khai thác hết được tiềm năng của điều kiện tự
nhiên[29].
Thứ 2, hậu quả do chiến tranh để lại: Những năm tháng đi qua, những hậu quả
của những cuộc chiến tranh vẫn còn đó, có biết bao là chiến sĩ đã nằm xuống cho đất
nước, huyện Mỹ Tú cũng vậy, nơi đây đã có hàng ngàn chiến sĩ đã nằm xuống vì quê
hương, vì con em sau này. Những cuộc tàn phá của chiến tranh đi qua để lại biết bao
đau thương, những cuộc càn quét bắn phá của Mỹ và và thực thực dân Pháp, làm nơi
đây thiệt hại nặng nề, cây cối, đường xá, những người già mất con, những người con
mất cha, mất mẹ. Hiện tại trong huyện còn rất nhiều người nghi nhiễm chất độc da
cam mà chiến tranh để lại gần 800 người (2013) tập trung chủ yếu ở 3 xã: Mỹ Phước;
Mỹ Tú và thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa. Những người mẹ Việt Nam anh hùng neo đơn
do con cái họ đã hy sinh. Những gia đình này họ đang lâm vào hoàn cảnh thiếu thốn,
nghèo đói, đang rất cần sự giúp đỡ của chính quyền địa phương cũng như tất mọi
người.
Thứ ba, do cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công còn nhiều yếu kém: Cơ sở hạ tầng
trong nước nói chung và huyện Mỹ Tú tỉnh Sóc Trăng nói riêng, đến nay tuy đã cải
thiện rất nhiều đem lại môi trường thuận lợi ,nhưng vẫn chưa đồng bộ vẫn còn thấp

kém so với các khu vực đô thị, bộ phận thua thiệt nhất vẫn là những người nghèo. Ở
vùng sâu, vùng xa, nông thôn trên địa bàn huyện vẫn chưa có điện hết hoàn toàn. đặc
biệt vào những mùa mưa, những đường lộ đất chưa được làm lộ, Nhất là ở xã Mỹ
Phước từ đầu câu kinh Ông ban chạy vào 5km thì đường lộ đất, Chính quyền địa
phương vẫn chưa có thể làm đường, ngoài ra, còn một số xã như Thuận Hưng, Hưng
Phú….Cản trở sự đi lại của người dân, khó khăn cho những em học sinh và việc làm
ăn của những người dân, dẫn đến hạn chế giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội thấp kém.
Cơ sở y ,tế giáo dục đang được nâng cao nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu người dân
nói chung và người nghèo nói riêng, đặc biệt là những hộ nghèo ở vùng sâu.
Thứ tư, do một số chính sách của nhà nước: Một số chính sách của nhà nước vẫn
chưa thỏa đáng, đặc biệt là năng lực, phương pháp tổ chức thực hiện chương trình,
chính sách xóa đói giảm nghèo của những tổ chức hữu quan và của người dân còn
nhiều bất cập, tùy tiện và sai lệch, trong khi đó thiếu sự quản lý chặt chẽ, nghiêm minh
Trang 22

×