Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Kinh tế xanh chiến lược Công nghiệp hóa sạch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.51 KB, 28 trang )

Trước sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế VN……… Những cách thức mà
chính phủ có thể sử dụng để đối phó với các yếu tố ngoại cảnh:
1. Quyết định Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh.
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt “Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ
2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050” (Quyết định số: 1393/QĐ-TTg, ngày 25/9/2012), với
mục tiêu tổng quát, tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự
nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng
khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội.
Theo đó, “Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm
2050” với 3 nhiệm vụ chiến lược:
Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch năng lượng tái
tạo: Giai đoạn 2011 - 2020, nhiệm vụ Chiến lược đề ra là giảm cường độ phát thải khí nhà
kính 8 - 10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 1 - 1,5% mỗi năm.
Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10 - 20% so với phương
án phát triển bình thường. Trong đó, mức tự nguyện khoảng 10%, 10% còn lại mức phấn đấu
khi có thêm hỗ trợ quốc tế.
Đến năm 2030, giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5% - 2%, giảm lượng phát
thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20 - 30% so với phương án phát triển
bình thường. Trong đó, mức tự nguyện 20%, 10% còn lại mức phấn đấu khi có thêm hỗ trợ
quốc tế.
Đến năm 2050, giảm mức phát thải nhà kính mỗi năm 1,5 - 2%.
Xanh hóa sản xuất: Thực hiện một chiến lược "công nghiệp hóa sạch" thông qua rà soát, điều
chỉnh những quy hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, khuyến
khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết
bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên; tích cực
ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm.
Đến 2020, giá trị sản phẩm ngành công nghệ cao, công nghệ xanh trong GDP là 42 - 45%;
tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn môi trường là 80%, áp dụng công nghệ sạch
hơn 50%, đầu tư phát triển các ngành hỗ trợ bảo vệ môi trường và làm giàu vốn tự nhiên
phấn đấu đạt 3 - 4% GDP.


Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững: Nhằm xanh hóa lối sống và thúc đẩy
tiêu dùng bền vững, Chiến lược đặt nhiệm vụ kết hợp nếp sống đẹp truyền thống với
những phương tiện văn minh hiện đại để tạo nên đời sống tiện nghi, chất lượng cao mang
đậm bản sắc dân tộc cho xã hội Việt Nam hiện đại. Thực hiện đô thị hóa nhanh, bền vững,
duy trì lối sống hòa hợp với thiên nhiên ở nông thôn và tạo lập thói quen tiêu dùng bền
vững trong bối cảnh hội nhập với thế giới toàn cầu.
Đến năm 2020, 60% đô thị loại III có hệ thống thu gom và xử lý nước thải đạt quy chuẩn
quy định, với đô thị loại IV, loại V và các làng nghề là 40%; 100% khu vực bị ô nhiễm
nặng được cải thiện môi trường; tỷ lệ đô thị lớn và vừa đạt tiêu chí đô thị xanh phấn đấu
đạt 50%.
2. Chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế và điều chỉnh kết cấu kinh tế.
2 - Điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế Việt Nam thời hậu khủng hoảng
Trở lại Việt Nam, nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường chưa được bao lâu, nhưng
tình trạng sản xuất thừa đã xuất hiện trong nhiều ngành hàng, chu kỳ tăng trưởng giảm đang được lặp đi
lặp lại với khoảng thời gian 10 năm đã lộ rõ. Nền kinh tế ngày càng lệ thuộc vào thị trường thế giới, khi
kim ngạch xuất - nhập khẩu tăng mạnh cả về giá trị tuyệt đối lẫn tỷ trọng so với GDP. Bởi vậy, khi nhu cầu
tiêu thụ trên các thị trường nước ngoài bị cắt giảm thì nền kinh tế rơi vào trạng thái khủng hoảng dây
chuyền, sản xuất thừa, nhân công bị cắt giảm, thất nghiệp
Ở một khía cạnh hẹp hơn, có thể xem xét mối quan hệ tương tác giữa thị trường trong nước và thị trường
xuất khẩu. Có một van an toàn để bù đắp khoản thiếu hụt nhu cầu trên thị trường xuất khẩu là kích thích
tiêu dùng trong nước. Vậy có phải tái cấu trúc nền kinh tế chính là nhằm tìm cách tạo được những khả
năng để nền kinh tế có thể tránh được tối đa tác động tiêu cực của khủng hoảng?. Chúng ta hẳn còn nhớ,
khoảng từ năm 1998 những ý tưởng về tái cấu trúc cũng đã xuất hiện ở phương diện hướng vào thị
trường trong nước như cái "van an toàn" cho xuất khẩu khi thị trường thế giới khủng hoảng.
Muốn phát triển thị trường trong nước thì phải chăm lo đến đời sống của quảng đại quần chúng nhân
dân, nhất là 2/3 dân số khu vực nông thôn. Thế nhưng khi kinh tế thế giới phục hồi sau khủng hoảng tài
chính 1997, thì chúng ta lại lao vào sản xuất, gia công để xuất khẩu, nay kim ngạch xuất khẩu đã lên tới tỷ
trọng khá cao trong GDP. Đến năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của chúng ta đã lên đến con số trên 70%
GDP, nhưng khi thị trường thế giới bị suy thoái, hàng loạt hợp đồng bị cắt giảm, khó khăn trong việc ký
các hợp đồng xuất khẩu mới, thì câu chuyện tìm lại thị trường trong nước bắt đầu sôi động trở lại. Thị

trường trong nước là gì, ai tham gia, hiện trạng nó đang như thế nào, lại được tiếp tục bàn cãi.
Từ giữa năm 2009, chúng ta lại bàn tới tái cấu trúc nền kinh tế để đề kháng với khủng hoảng, để biến
thách thức thành thời cơ Nhưng mức độ hội nhập về lĩnh vực xuất - nhập khẩu đã khá sâu, đã tạo ra
mối quan hệ lệ thuộc quá lớn vào thị trường thế giới, mà chưa có một biện pháp phòng ngừa rủi ro nào
cho thật căn cơ và bài bản. Đây cũng là vấn đề cần được bàn tính kỹ.
Dưới sự tác động nhiều chiều của cuộc khủng hoảng lần này, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, sản xuất, gia công để hướng ra xuất khẩu làm cho nền kinh tế lệ thuộc sâu vào thế giới, nhưng
lại xem nhẹ thị trường trong nước. Lúc sức tiêu thụ bên ngoài giảm mạnh, thì những mặt hàng gia công -
xuất khẩu không dựa trên cơ sở nhu cầu thực tế của người tiêu dùng trong nước, nên lúng túng trước
việc quay lại với thị trường nội địa. Đó là chưa nói tới đặc thù của nhu cầu thị trường trong nước cũng
không hẳn trùng khớp với thị trường xuất khẩu. Có một sự giả định rằng, trong lúc nền kinh tế đang
đương đầu với lạm phát gia tăng năm 2008 mà được "hỗ trợ" bởi lượng hàng hóa xuất khẩu quay trở lại
thị trường trong nước do bị tác động bởi khủng hoảng kinh tế và suy thoái bên ngoài (với giả định là thị
trường trong nước hấp thu được số hàng hóa xuất khẩu bị từ chối đó), thì có lẽ nền kinh tế đã có tốc độ
tăng trưởng khác chứ không như hiện nay. Dường như Trung Quốc đã tận dụng được cơ hội này tốt hơn
ta. Tỷ lệ mậu dịch trên GDP của Việt Nam là 156, trong khi của Trung Quốc là 71,3. Đối với Việt Nam, các
sản phẩm nông nghiệp, nhiên liệu và khoáng sản chiếm 46,3% tổng kim ngạch xuất khẩu, đối với Trung
Quốc con số này chỉ là 6,7%. Trung Quốc cung cấp chính cho thị trường Việt Nam về máy móc, máy tính,
hóa chất và hàng dệt may. Lượng trái cây và các loại rau nhập khẩu từ Trung Quốc lớn gấp 3 lần số
lượng mà Trung Quốc mua của Việt Nam. Việt Nam xuất khẩu 70% mủ cao su sang Trung Quốc, nhưng
các sản phẩm cao su chế tạo từ Trung Quốc chiếm tới 2/3 số mặt hàng này trên thị trường Việt Nam.
Năm 2007 thặng dư thương mại với Mỹ đã giúp trang trải 92% thâm hụt thương mại của Việt Nam với
Trung Quốc(3).
Theo đánh giá của tờ The Asian Age (Ấn Độ), ngày 23-10-2009, các gói kích thích kinh tế của Trung Quốc
cũng có những khác biệt với Mỹ và phương Tây. Nếu chi tiêu của đại đa số các chính phủ, nhất là Mỹ,
đều hướng vào tiêu thụ, dưới hình thức trợ cấp, tiền lương, phúc lợi y tế , thì phần lớn các khoản kích
thích kinh tế của Trung Quốc vừa qua được sử dụng để đầu tư cho sự tăng trưởng kinh tế trong tương
lai: kết cấu hạ tầng, các công nghệ mới v.v ; khoảng 200 tỉ USD cho phát triển đường sắt (trong khi Mỹ
chi chưa đầy 20 tỉ USD), ngoài ra còn xây dựng thêm các tuyến đường mới với tổng chiều dài khoảng

44.000 dặm, 100 sân bay mới sẽ đi vào hoạt động trong thập niên tới(4).
Thứ hai, tăng trưởng nhanh chủ yếu dựa vào các yếu tố mang tính chất "quảng canh"- theo chiều rộng,
không chú ý các yếu tố chiều sâu. Khoảng 54% tăng trưởng là do yếu tố tăng vốn đầu tư. Năng suất của
các nhân tố tổng hợp chậm được cải thiện, thậm chí giảm dần. Bởi vậy, càng thúc đẩy tăng trưởng
nhanh, quy mô vốn, quy mô sản xuất càng phải tăng mạnh, trong lúc giá trị gia tăng thấp. Những khâu gia
công xuất khẩu cũng thường có giá trị gia tăng thấp cộng với gánh nặng về xã hội, phải ưu tiên cho công
nghệ sử dụng nhiều lao động để tạo nhiều việc làm và sự khai thác thái quá đặc điểm lao động rẻ, Rút
cục, càng tăng trưởng thì càng cần thu hút thêm nhiều đầu tư, nhưng đầu tư lại kém hiệu quả, hệ số
ICOR càng tăng, năng lực cạnh tranh càng ít có điều kiện để được cải thiện. Số liệu thống kê cho thấy,
ICOR của nền kinh tế nói chung và của các ngành nói riêng đều có xu hướng tăng trên cả ba khu vực:
kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Bởi vậy, gần đây nhiều học giả đã nói đến cái bẫy của thu nhập trung bình, hay cái bẫy của việc theo đuổi
tăng trưởng nhanh chính là cảnh báo cho tính kém bền vững, kém đồng bộ và mất cân đối của nền kinh
tế, mà muốn điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững là phải
khắc phục được những khiếm khuyết cố hữu của nó.
Đã thế, trong điều hành vĩ mô cũng đang còn nhiều mặt tồn tại. Có lẽ trong nghiên cứu, các nhà kinh tế
cũng nên xác định được rằng, đối với nền kinh tế đang cần đầu tư lớn (trong đó đầu tư dài hạn chiếm tỷ
trọng đáng kể) để tăng trưởng nhanh, thì mức độ lạm phát an toàn hay hợp lý cho chính nền kinh tế Việt
Nam(5) thường cũng cao hơn những nước công nghiệp phát triển, chứ không thể giống nhau được. Nếu
lạm phát ở mức 3%, như IMF khuyến nghị, thì môi trường đầu tư không thể năng động được, chưa nói
nền kinh tế có thể rơi vào trạng thái thiểu phát, thiếu tiền mặt trong lưu thông. Trên thực tế đã có lúc
chúng ta vừa phải đối mặt với thiểu phát cục bộ, vừa chống lạm phát. Như Nhật Bản đang phải đối phó
hiện nay thì thiểu phát cũng không kém phần nguy hiểm so với lạm phát.
Kích cầu, hay nói chuẩn xác hơn là kích thích kinh tế, có nghĩa là "tăng ga" cho "cỗ xe" kinh tế Việt Nam.
Vấn đề là kích cầu có trọng tâm, trọng điểm. Chẳng hạn, kích thích tăng trưởng vào những lĩnh vực chiến
lược mà khi kinh tế phục hồi thì chúng ta đã chuẩn bị mọi điều kiện để "cất cánh". Đó chính là cơ hội để
đầu tư vào kết cấu hạ tầng và nông thôn, là căn chỉnh lại các cân đối lớn của nền kinh tế, như năng
lượng, điện, hệ thống lưu thông phân phối; hay tập trung vốn để hoàn thành dứt điểm những công trình
đầu tư sắp kết thúc, nhằm giảm tỷ lệ vốn đầu tư "chết" do các công trình chậm tiến độ, ngâm vốn và dàn
trải hiện đang khá lớn Kích thích kinh tế như vậy giống như một mũi tên trúng ít nhất hai đích sau:

- Những ngành, những lĩnh vực đó đòi hỏi phải đầu tư dài hạn, nên nó sẽ góp thêm cung tiền, làm cho
lạm phát có thể nhích lên đôi chút, nhưng chúng ta tạo được việc làm, tăng thu nhập cho nền kinh tế mà
không những không làm tăng thêm cung vốn đang bị thừa do khủng hoảng, nhất là cung tiêu dùng, mà
còn tạo thêm cầu nhờ thu nhập của khối lao động trong khu vực này.
- Phát triển nông thôn chính là tạo nền tảng cho phát triển thị trường trong nước, vì số dân đông, nhưng
thu nhập bằng tiền mặt rất hạn chế. Trung Quốc đã khai thác rất tốt đặc điểm này của kinh tế Việt Nam.
Nhìn vào các sạp hàng tiêu dùng tại Việt Nam, đa phần là hàng hóa nhập từ Trung Quốc, từ cái kim, sợi
chỉ, đến đồ chơi các loại với giá rất rẻ, hợp túi tiền của đa số dân nghèo. Nên không khéo kích cầu lại
rơi vào hàng nhập khẩu giá rẻ chính là ở khâu này. Doanh nghiệp Việt Nam đã làm được khá nhiều,
nhưng chắc chắn là chưa đủ. Bởi vậy, chúng tôi ủng hộ quan điểm cho rằng, nếu cân nhắc thấy thật sự
cần thiết cho nền kinh tế, mà khu vực tư nhân và khu vực đầu tư nước ngoài không làm, thì nhất thiết
phải đầu tư từ ngân sách, trong đó có việc phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước.
Điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế hiện nay là phải nhắm đến thời kỳ kinh tế thế giới phục hồi hoàn toàn với
hy vọng có sự thay đổi nào đó trong trật tự kinh tế thế giới, đồng thời tìm cách để kinh tế Việt Nam tham
gia tốt nhất vào chuỗi giá trị toàn cầu, phân công lao động toàn cầu. Muốn làm được điều đó, điều chỉnh
cơ cấu nền kinh tế phải gắn chặt với điều chỉnh cơ cấu lại thị trường, bao gồm thị trường trong nước, thì
trường nước ngoài, và mối quan hệ giữa thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
Kết nối giữa hai thị trường này làm sao để thị trường trong nước có thể làm tốt vai trò "van an toàn" cho
thị trường xuất khẩu. Nhiều học giả chỉ trích vấn đề gia công là đúng, nhưng để có những bước đi ban
đầu chúng ta phải chấp nhận gia công, điều quan trọng là chúng ta phải biết tận dụng giai đoạn này một
cách hiệu quả nhất để xây dựng thương hiệu, hội nhập vào chuỗi phân phối và chuỗi giá trị toàn cầu, sớm
thoát ra và thay đổi từ gia công sang sản xuất - chế tác có giá trị gia tăng cao hơn trong chuỗi giá trị toàn
cầu, từng bước có thương hiệu và củng cố dần uy tín thương hiệu cả quốc gia lẫn ngành hàng sản
phẩm(6)./.
3. Chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế theo hướng nền kinh tế xanh ở Việt Nam.
Chuyển đổi phương thức phát triển, hướng tới phát triển “Nền kinh tế xanh” là hướng tiếp cận mới, tuy
nhiên xét về dài hạn đây là hướng tiếp cận phù hợp với xu thế phát triển chung của hệ thống kinh tế toàn cầu
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua các phương thức phát triển kinh tế khác nhau, từ chế
độ cộng sản nguyên thủy, sang chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, tư bản chủ nghĩa (kinh tế thị
trường), quá độ xã hội chủ nghĩa (kinh tế kế hoạch hóa tập trung) và hiện nay đang tìm một hướng đi

mới là sự tích hợp của những ưu điểm các phương thức phát triển đã có điển hình là Trung Quốc và
Việt Nam theo mô hình “Kinh tế thị trường định hướng XHCN”, trên cơ sở đó có sự đổi mới phát triển
kinh tế phù hợp với từng quốc gia và từng giai đoạn nhằm mang lại phúc lợi tốt nhất cho con người.
Với xu hướng Hội nhập và chia sẻ kinh nghiệm phát triển kinh tế trong thời gian vừa qua, nhất là từ năm
1945 đến nay, mặc dù kinh tế thế giới đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng các mô hình phát triển kinh tế
trong giai đoạn này theo kiểu nền kinh tế “nâu”, đó là một nền kinh tế khai thác và sử dụng quá nhiều năng
lượng từ nhiên liệu hóa thạch và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây ra những tổn hại to lớn cho môi
trường như ô nhiễm không khí, nguồn nước và đại dương, suy thoái đất, mất rừng và suy giảm đa dạng sinh
học. Người ta đang cho rằng với phương thức phát triển cũ đã phát thải quá nhiều khí gây hiệu ứng nhà kính
như CO2, SO2, CH4… là nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu diễn ra với quy mô toàn cầu đe dọa cuộc
sống con người và gây ra tổn thất cho hoạt động kinh tế. Nhằm thay đổi tình trạng này, Chương trình môi
trường Liên Hợp Quốc (UNEP) đã đưa ra một hướng tiếp cận mới cho phát triển kinh tế được nhiều quốc
gia đồng tình hưởng ứng, đó là phát triển “nền kinh tế xanh” (Green Economy).
Việt nam là quốc gia đang phát triển, kể từ khi “Đổi mới” và mở cửa với kinh tế thế giới (1986), nhất là
từ sau Đại hội VI, Đảng cộng sản Việt Nam đã chuyển sang phương thức phát triển mới “Xây dựng một
nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN, có sự quản lý của
Nhà nước”, kể từ đó đến nay đã đạt được nhiều thành tựu trong tăng trưởng kinh tế, đời sống người dân
không ngừng được nâng cao, hiện nay Kinh tế Việt nam đã đạt đến mức phát triển trung bình. Tuy
nhiên trong 25 phát triển đó, Việt Nam đã phải trả giá cho sự suy giảm tài nguyên và ô nhiễm môi
trường là không nhỏ. Để khắc phục tình trạng này và rút ngắn khoảng cách trong phát triển có tính dài
hạn nhằm phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới, mang lại phúc lợi tốt nhất cho người
dân, yêu cầu chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế là tất yếu nhằm “Đổi mới mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng đảm bảo phúc lợi và bảo vệ Tài nguyên mô
trường”, muốn vậy nên tiếp cận theo hướng “nền Kinh tế xanh”.
I. Nội hàm phát triển của nền Kinh tế xanh.
UNEP đã đưa ra khái niệm ban đầu cho rằng: “Nền kinh tế xanh là kết quả mang lại phúc lợi cho con
người và công bằng xã hội, nó có ý nghĩa giảm những rủi ro môi trường và khan hiếm sinh thái”. Từ
khái niệm đó cho thấy, phát triển một nền kinh tế xanh thực chất là vì con người, đảm bảo phúc lợi cao
nhất, đạt mục tiêu công bằng về mặt xã hội và hạn chế tối đa những rủi ro cho môi trường và hệ sinh
thái, tôn tạo và phát triển hệ sinh thái tự nhiên. Một nền kinh tế xanh đơn giản là một nền kinh tế có

mức phát thải thấp, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo tính công bằng về
mặt xã hội. Trong nền kinh tế xanh, sự tăng trưởng về thu nhập và việc làm thông qua việc đầu tư của
Nhà nước và tư nhân cho nền kinh tế làm giảm thiểu phát thải cacbon, giảm thiểu ô nhiễm môi trường,
sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên, ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học và dịch vụ của hệ
sinh thái. Như vậy khác với trước đây, trong “nền kinh tế nâu”, đầu tư công cần phải có sự điều chỉnh
cơ bản thông qua những chính sách mới được cải thiện của các quốc gia, ưu tiên cho duy trì và phát
triển nguồn vốn tự nhiên, nhất là những nguồn tài sản thuộc sở hữu chung mang lại lợi ích cho mọi
người. Sự đầu tư đó cũng cần chú ý tới nhóm người nghèo, bởi sinh kế và an sinh của họ phụ thuộc
nhiều vào tự nhiên và họ là những đối tượng dễ bị tổn thương do tác động của thiên tai cũng như sự
biến đổi khí hậu.
Xét về mặt học thuật, “Nền kinh tế xanh” là sự nâng cấp của “Kinh tế môi trường”, trong kinh tế môi trường
về bản chất đó là “Nghiên cứu mối quan hệ tương tác, phụ thuộc và quy định lẫn nhau giữa kinh tế và môi
trường (hệ thống hỗ trợ cuộc sống của trái đất) nhằm bảo đảm một sự phát triển ổn định, hiệu quả, liên tục
và bền vững trên cơ sở bảo vệ môi trường và lấy con người làm trung tâm”, kinh tế xanh nhấn mạnh hơn
đầu tư cho phát triển chú trọng tới giảm thiểu ô nhiễm, nhất là giảm phát thải cacbon và duy trì, phát triển
nguồn vốn của tự nhiên, mang lại quyền hưởng lợi của mọi người do đầu tư đó mang lại. Theo kết qủa
nghiên cứu của các tác giả trong tài liệu “Hướng tới nền kinh tế xanh” do chương trình môi trường Liên
Hợp Quốc (UNEP) công bố năm 2011, mô hình kịch bản đầu tư xanh với số vốn khoảng 2% GDP toàn cầu
(Khoảng 1300 tỷ USD), trong đó khoảng một phần tư của tổng số (0,5% GDP) tương đương với số tiền 350
tỷ USD được đầu tư cho các lĩnh vực sử dụng nhiều vốn tự nhiên như các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp,
nước sạch và thủy sản. Trong mô hình kinh tế vĩ mô, các tác giả cũng đã tính toán và chỉ ra rằng, xét trong
dài hạn, đầu tư vào nền kinh tế xanh sẽ cải thiện hiệu quả kinh tế và tăng tổng lượng của cải trên toàn cầu.
Mặt khác sự đầu tư đó sẽ đem lại hiệu quả trong việc phục hồi các nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo,
giảm thiểu những rủi ro môi trường và tái thiết sự thịnh vượng cho tương lai. Như vậy xây dựng một nền
kinh tế xanh cũng không thay thế và mâu thuẫn với “Phát triển bền vững”, vì phát triển bền vững thực chất
là "sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu
cầu của các thế hệ tương lai", phát triển bền vững nhằm đạt tới mục tiêu dài hạn (mục tiêu thiên niên kỷ),
còn xanh hóa nền kinh tế là phương tiện đưa chúng ta tới đích của phát triển bền vững.
2. Nền kinh tế xanh là mục tiêu hướng tới của kinh tế toàn cầu.
Mặc dù khái niệm Kinh tế xanh (Green Economy) mới được UNEP đề xuất, nhưng nội hàm của nó

như đã đề cập ở trên thực chất là sự nâng cấp của khái niệm truyền thống trước đây là Kinh tế môi
trường “Environmental Economy”, tuy nhiên “kinh tế xanh đã mở ra một hướng tiếp cận rộng hơn cho
cả những điều chỉnh từ chính sách kinh tế vĩ mô và điều hành thực hiện trong kinh tế vi mô, nhất là đối
với chính sách công trong đầu tư cho khôi phục tài nguyên và môi trường. Khái niệm mới ra đời nhưng
trong thực tế đã có nhiều quốc gia đã và đang thực hiện theo hướng xanh hóa nền kinh tế, thậm chí các
chỉ tiêu đo lường đã được một số quốc gia áp dụng như GDP xanh (Green GDP) cho chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô. Đối với hoạt đông của doanh nghiệp, những sản phẩm có chất lượng cao và có sức cạnh tranh trên
thế giới trong thời gian vừa qua cũng là những sản phẩm không chỉ đạt về mặt chất lượng mà còn đảm
bảo yêu cầu về môi trường, đó là những sản phẩm đã đăng ký và được cấp chứng chỉ ISO-14000,
những sản phẩm xanh được cấp nhãn sinh thái (Eco-label), những sản phẩm đó chính là sự lựa chọn của
người tiêu dùng. Tại Hội nghị của các quan chức cấp Bộ trưởng do UNEP tổ chức ở Nairobi, Kenya
tháng 02-2011 nhằm chuẩn bị nội dung và thảo luận những vấn đề cần đưa ra bàn thảo và thống nhất để
chuẩn bị cho Hội nghị thượng đỉnh về môi trường năm 2012 ở Rio Dejanerio, Brazin. Các quốc gia cơ
bản nhất trí mục tiêu hướng tới của các nền kinh tế toàn cầu là “Kinh tế xanh”, trong đó cần chú trọng
tới “Sản xuất và tiêu dùng bền vững” .
- Từ khởi xướng của UNEP về “Kinh tế xanh”, để thực hiện nền kinh tế xanh, đòi hỏi các quốc gia căn
cứ vào thực tiễn của mỗi nước tiến hành chuyển đổi mô hình và phương thức phát triển kinh tế cho phù
hợp với xu thế phát triển mới, phải có sự điều chỉnh kết cấu kinh tế. Trong thực tế đã có một số nước
mặc dù không nói rõ phát triển “nền kinh tế xanh”, nhưng họ đã có những điều chỉnh và chuyển đổi
phương thức phát triển không theo phương thức phát triển cũ nữa-“Kinh tế nâu”. Trung Quốc là một ví
dụ, sau một thời gian dài cải cách và mở cửa từ năm 1978, Kinh tế Trung Quốc liên tục tăng trưởng ở
mức cao, thu nhập của người dân không ngừng tăng lên. Cụ thể nếu tính theo giá không đổi, năm 1978
nếu chỉ số GDP của Trung Quốc là 100, thì năm 2010 là 2056,8; Nếu GDP bình quân đầu người vào
năm 1978 là 100, thì năm 2010 là 1470,7. Giai đoạn năm 1979-2010, GDP của Trung Quốc tăng trung
bình 9,9%/năm, GDP bình quân đầu người tăng 8,8%/năm. Cùng với những thành tựu đã đạt được
trong tăng trưởng kinh tế, Trung Quốc đã gặp phải nhiều vấn đề mâu thuẫn với tài nguyên và môi
trường, so với trước khi cải cách mở cửa (CCMC), tình trạng ô nhiễm môi trường và hệ sinh thái suy
giảm nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường có xu thế lan rộng, thiếu hụt tài nguyên và năng lượng cho
phát triển kinh tế theo xu hướng ngày càng trầm trọng; Các chất thải nguy hại tồn đọng ngày càng
nhiều, nhất là các chất thải hữu cơ khó phân hủy; Nguy cơ rủi ro môi trường gia tăng. Do nhu cầu sử

dụng tài nguyên liên tục tăng, kết cấu tài nguyên có sự thay đổi lớn. So với các nước phát triển, tiêu hao
năng lượng của Trung Quốc đáng báo động, cụ thể năm 2009, tiêu hao năng lượng của tổng giá trị sản
phẩm trong nước trên một đơn vị của Trung Quốc gấp 2,9 lần Mỹ, 4,9 lần của Nhật, 4,3 lần của EU và
2,3 lần của mức bình quân của thế giới. Lượng tiêu dùng quặng sắt, thép thô, ôxit nhôm và xi măng lần
lượt là 870 triệu tấn, 567 triệu tấn, 26 triệu tấn và 1,6 tỷ tấn, ước tính tổng lượng tiêu dùng thế giới
54%, 43%, 34% và 52%. Tỷ trọng nhập khẩu những tài nguyên như dầu mỏ và quặng sắt đã vượt quá
50%. Có thể thấy qua hơn 30 năm CCMC Trung Quốc đã phải trả giá cho công nghiệp hóa, đô thị hóa
bằng bằng môi trường và thiếu hụt năng lượng và tài nguyên. Chiến lược mới phát triển của Trung
Quốc là “Chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế và điều chỉnh kết cấu kinh tế” nhằm hướng tới duy
trì nền kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững, đề cao chất lượng tăng trưởng. Quan điểm phát triển
khoa học toàn diện, cân bằng và bền vững, nhấn mạnh bảo vệ môi trường và GDP xanh, khuyến khích
phát minh tự chủ và đổi mới kỹ thuật, ra sức ủng hộ và khuyến khích những ngành sản xuất mới, tạo ra
ưu thế cho các ngành nâng cấp qua phương thức “xanh” và phát triển bền vững. Cụ thể hóa trong các
nội dung chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế, liên quan đến tài nguyên và môi trường, chiến lược
phát triển mới của Trung Quốc được thể hiện như trong hộp 1.
Hộp 1: Chuyển từ phương thức phát triển kinh tế kiểu tiêu hao nhiều tài nguyên sang phương thức phát
triển kinh tế kiểu tiết kiệm tài nguyên
Để đẩy nhanh chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế, cần phải nâng cao chất lượng phát triển, nó
được thể hiện nổi bật ở chỗ giảm giá thành tài nguyên cho sự phát triển và xây dựng hệ thống nền kinh
tế quốc dân kiểu tiết kiệm tài nguyên.
- Một là, lấy việc ưu tiên tiết kiệm và hiệu quả làm gốc để làm nòng cốt cho việc xây dựng hệ thống
KTQD kiểu tiết kiệm tài nguyên toàn diện, nâng cao vị trí quan trọng của việc tiết kiệm tài nguyên
trong chiến lược phát triển Kinh tế-xã hội, nâng cao hiệu suất sử dụng tài nguyên, thêm một bước nữa
tăng cường hướng dẫn về chính sách cho việc tiết kiệm tài nguyên, ra sức điều chỉnh và tối ưu hóa kết
cấu ngành nghề, ra sức khai thác và phổ biến kỹ thuật tiết kiệm tài nguyên, loại bỏ công nghệ và thiết bị
lạc hậu, tăng cường quản lý các khâu về sản xuất, vận chuyển, tiêu dùng tài nguyên.
- Hai là, lấy việc ra sức phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế sản sinh lượng Carbon thấp làm con đường
cơ bản xây dựng hệ thống kinh tế quốc dân kiểu tiết kiệm tài nguyên.
- Ba là, lấy việc tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm nước, tiết kiệm nguyên liệu, tiết kiệm đất và sử dụng
tổng hợp nguồn tài nguyên làm trọng điểm cho việc xây dựng hệ thống kinh tế quốc dân kiểu tiết kiệm

tài nguyên, cố gắng tiết kiệm nguồn năng lượng, tiết kiệm nước, tiết kiệm nguyên vật liệu, tiết kiệm và
sử dụng hợp lý tài nguyên đất, thúc đẩy sử dụng tổng hợp tài nguyên
- Bốn là, lấy việc bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh làm nhu cầu cơ bản cho việc xây dựng hệ thống
kinh tế quốc dân kiểu tiết kiệm nguồn tài nguyên, một mặt phải điều chỉnh và cải thiện kết cấu tiêu
dùng nguồn tài nguyên, nhất là kết cấu tiêu dùng nguồn năng lượng, cố gắng giảm thiểu tác động xấu
của việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên đối với môi trường, nỗ lực thực hiện sự hòa hợp giữa
tài nguyên và môi trường; Mặt khác, phải đảm bảo an ninh tài nguyên, xây dựng và hoàn thiện dự trữ
chiến lược dầu mỏ thích ứng với sức mạnh của đất nước, tích cực quán triệt chiến lược “Bước ra
ngoài”, thực hiện mục tiêu đa dạng hóa con đường nhập khẩu nguồn năng lượng, khai thác kỹ thuật
thay thế và tiết kiệm dầu mỏ, đảm bảo sự cung cấp dầu khí, nắm lấy thời cơ để khai thác và sử dụng
nguồn năng lượng.
Nguồn: GS.Dương Thu Bảo (2011), bộ môn nghiên cứu Kinh tế học. Trường Đảng trung ương Trung
Quốc. “Chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế và điều chỉnh kết cấu kinh tế”.
Với 4 nội dung đã được nêu ra trong hộp 1 đã chứng tỏ trong chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế
trong những năm tới của Trung Quốc rất chú trọng tới tiết kiệm tài nguyên, phục hồi các nguồn tài
nguyên tái tạo, duy trì và phát triển hệ sinh thái và bảo vệ môi trường. Sử dụng năng lượng tái tạo và
giảm thiểu phát thải Cac bon. Những định hướng chính sách này đang được thể hiện trong thực tế, biểu
hiện rõ nhất là tại thành phố Thẩm Dương và thành phố Đại Liên thuộc tỉnh Liêu Ninh ở Đông Bắc
Trung Quốc. Tại thành phố Thẩm dương là thành phố công nghiệp nặng trước đây, đang có một quá
trình quy hoạch lại, các nhà máy sản xuất cũ gây ô nhiễm đang được thay thế dần, quy hoạch mới thể
hiện xanh hóa thành phố và thân thiện môi trường. Tại thành phố Đại liên bộ mặt thành phố đã được
thay đổi so với trước đây, các khu bãi rác nay đã biến thành quảng trường vui chơi giải trí, hệ thống
giao thông có giải phân cách xanh và trồng hoa, nước thải được thu gom xử lý. Các khu công nghiệp
mới đã được quy hoạch hợp lý, xen kẽ cây xanh vườn hoa, điều đáng chú ý là tại các khu công nghiệp
mới như khu Kim Châu có diện tích 1948 Km2, quy hoạch thu hút đầu tư nước ngoài có sự lựa chọn và
thay đổi kết cấu ngành nghề so với trước đây, trong đó phát triển 5 lĩnh vực chính là công nghệ môi
trường, chế tạo ô tô sử dụng năng lượng mới thân thiện môi trường, sản xuất cấp điện bằng năng lượng
gió và mặt trời, du lịch và công nghệ intel được ưu tiên mời gọi đầu tư. Từ chính sách chuyển đổi
phương thức phát triển kinh tế đến biểu hiện cụ thể tại các thành phố và khu công nghiệp cho thấy
Trung Quốc đang hướng tới nền kinh tế xanh, phát triển theo hướng cacbon thấp và tăng trưởng xanh.

Điều đó sẽ tạo ra sức cạnh tranh của các ngành sản xuất của Trung Quốc trên thị trường thế giới.
- Ở Mỹ, kể từ sau khủng hoảng tài chính năm 2008 đang có một sự xem xét lại chuyển đổi phương thức
phát triển kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm, áp dụng chiến lược “Tái công
nghiệp hóa”. Tháng 11 năm 2009 tổng thống Obama đưa ra mô hình tăng trưởng của Mỹ phải chuyển
sang mô hình tăng trưởng bền vững. Trong chiến lược “Tái công nghiệp hóa” cho giai đoạn 10 năm tới
nhằm phát triển công nghệ mới dự kiến đầu tư 15.000.000 USD hỗ trợ cho các nguồn năng lượng mới,
khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tiết kiệm năng lượng, nhất là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, Mỹ muốn trở thành nhà lãnh đạo sạch trong công nghệ. Hướng tiếp cận mới theo cách “Kinh tế
các bon thấp”, giảm thiểu phát thải khí nhà kính, để thực hiện điều đó một số luật đang được đưa ra bàn
thảo để đi đến quyết định ban hành như đạo luật AB 32 liên quan đến tiêu chuẩn môi trường giảm thiểu
khí thải gây ô nhiễm và phát thải gây hiệu ứng nhà kính. Cách tiếp cận ở Mỹ luôn lấy tiêu chí hiệu quả
Kinh tế để thực thi chính sách, động lực thị trường thúc đẩy đổi mới công nghệ. Thực thi bảo vệ môi
trường có khoa học và kế hoạch rõ ràng chia theo giai đoạn, trước hết người dân phải hiểu, thứ đến phải
có can thiệp khoa học và cuối cùng thực hiện theo chương trình kế hoạch đã có. Tuy nhiên tuỳ theo đặc
trưng từng vùng có kế hoạch khác nhau, ví dụ vùng cần bảo vệ nguồn nước có chương trình riêng của
lĩnh vực này, bảo vệ đất hay duy trì đa dạng sinh học có chương trình cụ thể thích hợp cho từng loại
đất. Trong nông nghiệp, sản xuất sản phẩm hữu cơ và kết hợp nhiều loại sản phẩm khác nhau trong một
trang trại sản xuất được chủ trang trại phát huy cao độ. Cây trồng vật nuôi được kết hợp và phù hợp với
đặc điểm sinh thái của nơi sản xuất, duy trì chất lượng đất. Tại trang trại sản xuất nông nghiệp, xu
hướng tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng mặt trời khá phổ biến. Chủ trang trại luôn tính toán
hiệu quả kinh tế của các phương án sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, gắn sản xuất với tiêu thụ thông qua
việc hoàn thiện sản phẩm từ khâu thu hoạch đến đóng gói, đưa trực tiếp sản phẩm tới các siêu thị để
đến người tiêu dùng nhanh nhất, hạn chế chi phí qua trung gian, tăng lợi nhuận. Việc sử dụng hầm
Biogas, trợ cấp cho năng lượng sạch được thực hiện ở các vùng sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi quy
mô lớn. Cơ quan dịch vụ sản xuất nông trại- FSA (Farm Service Agency) khuyến khích trang trại
không sử dụng hoá chất diệt côn trùng và các dịch vụ hỗ trợ khoa học kỹ thuật khác. Trong công
nghiệp, vấn đề được chú trọng nhất là tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng thay thế nhằm hạn
chế sử dụng nhiên liệu hoá thạch. Để quyết định lựa chọn theo hướng nào, bài toán kinh tế được tính
toán theo vận hành của cơ chế thị trường. Xu hướng sử dụng năng lượng mặt trời từ việc sản xuất ra
nhiều tấm pin đã và đang được triển khai, hiện nay có khoảng 22 thành phố đã sản xuất và sử dụng,

không chỉ giải quyết công ăn việc làm, mà còn tiết kiệm năng lượng, mang lại hiệu quả và tiếp cận theo
hướng cac bon thấp. Những nơi chịu nhiều rủi ro của thiên nhiên và con người như New Olean, sau
cơn bão Cachina, nhiều vùng không có người quay lại sinh sống ở các ngôi nhà cũ. Chính quyền địa
phương đã thiết lập lại quy hoạch khu dân cư mới với nguồn đóng góp vốn của cộng đồng và các nhà
tài trợ khác, quy hoạch mới tính tới ảnh hưởng của bão, lụt và phù hợp hơn với điều kiện sinh thái tự
nhiên của vùng. Từ hướng tiếp cận kinh tế cac bon thấp, đối với phát triển đô thị, những khu đô thị mới,
chẳng hạn khu vực sân bay cũ nay không còn sử dụng ỏ gần thành phố Austin thuộc bang Taxes, được
quy hoạch lại chuyển đổi sang phát triển khu dân cư sinh sống, một tổ chức phi lợi nhuận với sự tài trợ
của Chính phủ và tham gia của nhiều doanh nghiệp, tiến hành quy hoạch, thiết kế các ngôi nhà và toàn
bộ khu dân cư thân thiện môi trường, các ngôi nhà xanh được hình thành (Green houses). Những ngôi
nhà đó so với các kiểu nhà trước đây sẽ tiết kiệm năng lượng nhiều hơn, sử dụng năng lượng mặt trời,
mang lại lợi ích nhiều hơn cho chủ hộ sử dụng. Hệ thống hạ tầng đồng bộ từ đường sá, thu gom phân
loại và xử lý rác, các công nghệ mới được đưa vào ngôi nhà, không gian xanh phù hợp. Khái niệm
“Nhà không dây điện” đã xuất hiện. Xu hướng mới xây dựng nhà công sở cũng đã được thiết kế và xây
dựng ở thành phố Austin, thuộc bang Texa, một ngôi nhà công sở được thiết kế theo dạng ngôi nhà
xanh, tiết kiệm năng lượng, sử dụng được nước mưa, các vật dụng trang trí tận dụng chất thải và nhiều
sáng kiến khác được đưa vào là hướng tiếp cận mới đã được thực hiện ở Mỹ. Hệ thống giao thông, nhất
là đối với các đường cao tốc quy hoạch giải phân cách xanh là yêu cầu bắt buộc. Mặc dù cách giải
quyết ở Mỹ theo kiểu “Kinh tế các bon thấp”, nhưng với cách tiếp cận đó cũng là nội dung hướng tới
phát triển “Nền kinh tế xanh”.
- Các nước Tây Âu và Nhật bản xu hướng phát triển cũng hướng tới “Nền kinh tế sạch” và phát triển
“Nền kinh tế xanh”, các nước này đã trải qua một thời kỳ dài của quá trình công nghiệp hóa và cũng đã
phải trả giá cho suy giảm tài nguyên và chất lượng môi trường. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, xu hướng
phát triển đã có sự thay đổi, quan điểm thân thiện với môi trường và duy trì hệ sinh thái tự nhiên thông
qua chuyển đổi mô hình phát triển đầu tư vào khoa học công nghệ, xử lý ô nhiễm, giảm thiểu, tái chế và
tái sử dụng chất thải (3R). Hiện nay đang hướng tới lộ trình thực hiện và thúc đẩy các ngành sản xuất
sạch và phát triển các ngành cac bon thấp mới hình thành, nằm trong hệ thống kinh tế toàn cầu của
nhóm nước công nghiệp phát triển (OECD), Tây Âu ra sức thúc đẩy đưa các chỉ tiêu về cac bon thấp
vào hệ thống quy định quốc tế, với sự ra đời của tiêu chuẩn chứng nhận quốc tế về “Dấu chân cac bon”
đã mở màn cho quá trình này. Còn Nhật bản tích cực xu hướng giảm thiểu cac bon thông qua Nghị định

thư Kyoto, thực hiện triệt để 3R và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường. EU dự kiến trước năm
2013 sẽ đầu tư 105.000.000.000 € để phát triển “nền kinh tế sạch”. Còn Nhật bản từ cuối năm 2009
phát động chiến lược tăng trưởng mới, tập trung vào hai ngành công nghiệp mới là ngành môi trường
và năng lượng, ngành y tế, với việc đầu tư vào hai ngành này dự kiến đến năm 2020 tạo ra thị trường
mới tương đương 1 triệu tỷ Yên.
- Nhóm các nước mới nổi lên nhờ quá trình công nghiệp hóa như Hàn quốc, Singapore. Từ những năm
80 của thế kỷ XX họ không phải trả giá nhiều cho môi trường nhờ tiếp nhận công nghệ mới của các
nước công nghiệp phát triển và những bài học kinh nghiệm của các nước đó trước đây. Mô hình phát
triển của các nước này ngay từ đầu đã chú trọng tới môi trường và tiết kiệm tài nguyên, chính vì vậy họ
đã rút ngắn khoảng cách phát triển không chỉ đạt mục tiêu kinh tế mà chú trọng tới môi trường. Hiện
nay các nước này tiếp tục phát triển theo xu hướng “Tăng trưởng xanh”, “Kinh tế cac bon thấp” và
hướng tới nền kinh tế xanh.
- Các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo và trình độ phát triển trung bình ở châu Á, châu Phi
và châu mỹ La Tinh. Ở các nước này trình độ công nghệ thấp hơn các nước phát triển, sản xuất chủ yếu
dựa vào nông nghiệp, khai thác và xuất khẩu tài nguyên, lao động giá rẻ, sẽ bị lôi kéo vào xu thế phát
triển mới. Tuy nhiên theo nội hàm phát triển “Kinh tế xanh”, sẽ là cơ hội cho các nước này tham gia để
khôi phục nguồn tài nguyên tái tạo, duy trì và phát triển hệ sinh thái tự nhiên và bảo vệ môi trường,
tăng phúc lợi và giảm nghèo. Việc tiếp cận mô hình phát triển “kinh tế xanh” sẽ đặt ra nhiều thách thức,
nhất là nguồn vốn đầu tư, công nghệ và năng lực thực thi. Để vượt qua được những thách thức đó, các
nước đang phát triển không chỉ phải phát huy nội lực mà còn cần sự trợ giúp của các nước phát triển,
nhất là nguồn vốn, công nghệ và nâng cao năng lực thực thi.
3. Đề xuất hướng tiếp cận nền “Kinh tế xanh” ở Việt nam.
Với tính chất đặc thù của Việt nam, thể chế chính trị và mô hình phát triển kinh tế gần giống với Trung
Quốc, đó là chuyển đổi từ mô hình “Kinh tế kế hoạch hoạch hóa tập trung” sang mô hình “Kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa”. Kể từ năm 1986, Việt Nam tiến hành “Đổi mới và mở cửa”, còn
Trung Quốc “Cải cách mở cửa”; cả hai nước Kinh tế liên tục tăng trưởng dương, mặc dù có giai đoạn
chịu tác động của khủng hoảng tài chính-tiền tệ vào năm 2007-2008. Hiện nay Việt Nam đã thoát khỏi
nước nghèo và xếp vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Trải qua 24 năm đổi mới và mở cửa phát
triển Kinh tế, Việt Nam cũng đã phải trả giá cho suy giảm tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Nằm
trong xu thế phát triển chung của kinh tế thế giới với sự điều chỉnh về mô hình phát triển và thay đổi cơ

cấu ngành nghề. Việt nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), do vậy phát
triển kinh tế của Việt nam phải tuân theo những nguyên tắc chung của những cam kết với WTO trong
xu thế phát triển Hội nhập toàn cầu. Hơn nữa Việt nam được xếp vào danh sách một trong năm nước
chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, do vậy hướng tới nền “Kinh tế xanh” là lựa chọn hợp
lý. Tuy nhiên sự lựa chọn này cần phải nhìn nhận rõ những cơ hội và thách thức để định hướng cho
phát triển.
3.1. Về cơ hội.
- Hiện nay sự quan tâm lớn nhất của cộng đồng thế giới là “Biến đổi khí hậu”. Nhằm giảm thiểu và
thích ứng với biến đổi khí hậu, các quốc gia đang có nhiều nỗ lực, trong đó phát triển kinh tế cac bon
thấp, tăng trưởng xanh đang là những xu hướng mới trong lộ trình tiến tới “Nền kinh tế xanh”. Việt
nam sẽ đón nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia và các tổ chức quốc tế trên thế giới trong
nỗ lực chung giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu trên cơ sở hướng tới “Nền kinh tế xanh”.
- Việt nam đang có những thay đổi cơ bản sau 24 năm “Đổi mới và mở cửa”, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới một sự phát triển vì con người, những yếu tố đó được thực
hiện trong một môi trường chính trị ổn định là cơ hội tốt cho triển khai thực hiện “Nền kinh tế xanh”.
- Tiếp tục triển khai, thực hiện chiến lược phát triển Kinh tế-Xã hội giai đoạn 2011-2015 . Hội nghị lần thứ
3 BCHTW Đảng Cộng Sản Việt nam đã khẳng định: đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
theo hướng nâng cao chất lượng, đảm bảo phúc lợi và an sinh xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Như
vậy Việt nam sẽ đẩy mạnh “Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng” trong thời gian sắp tới.
Đây là cơ hội để Việt Nam hướng tới “Nền Kinh tế xanh” và “Tăng trưởng xanh”.
- Kinh tế Việt nam liên tục tăng trưởng trong những năm vừa qua tạo ra nội lực bên trong cho một xu
thế phát triển mới. Những vấn đề bức xúc về ô nhiễm môi trường và suy giảm tài nguyên trong thời
gian phát triển vừa qua đối với đất nước. Hướng tới một nền kinh tế xanh sẽ được sự đồng thuận cao
của xã hội. Sau một thời gian phát triển từ khi đổi mới và mở cửa, người dân đã nhận thức được sự trả
giá của mô hình phát triển của nền “kinh tế nâu”.
- Với lợi thế nằm trong khu vực nhiệt đới, gió mùa Đông Nam Á, có nguồn năng lượng mặt trời dồi
dào, năng lượng gió phong phú, sinh vật tăng trưởng nhanh là cơ hội cho Việt nam tham gia vào các
chương trình mục tiêu thiên niên kỷ để hướng tới “Nền kinh tế xanh”.
3.2. Thách thức.
Bên cạnh những cơ hội như đã nêu ở trên, thực hiện “Nền kinh tế xanh”, Việt Nam sẽ gặp phải những thách

thức đòi hỏi phải vượt qua như sau:
- Trước hết, về nhận thức, hiểu thế nào là một nền “kinh tế xanh” hiện nay ở Việt nam vẫn còn hết sức mới
mẻ, đòi hỏi phải có những nghiên cứu và phổ biến rộng rãi kiến thức trong tầng lớp lãnh đạo, các nhà hoạch
định chính sách, các doanh nghiệp và người dân. Nếu không nhận thức đầy đủ, tính đồng thuận trong xã hội
sẽ không đạt được, do vậy sẽ khó thực hiện.
- Thứ hai, về cách thức tiến hành, so với nền kinh tế truyền thống-“Nền kinh tế nâu”, xây dựng mô hình
mới-“Nền kinh tế xanh”, thay đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế có sự khác biệt như thế nào và
bắt đầu từ đâu trong bối cảnh phát triển kinh tế Việt nam hiện nay.
- Thứ ba, nền kinh tế xanh gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, cac bon thấp, tăng trưởng xanh, đầu tư khôi
phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kế gắn với phục hồi môi trường…. Thực tế công nghệ sản xuất ở Việt nam
hiện nay so với thế giới phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn, việc thay đổi công nghệ mới phù
hợp với nền kinh tế xanh là thách thức không nhỏ nếu không có trợ giúp của các nước có công nghệ cao trên
thế giới. Nhiều vùng nông thôn và khu vực miền núi, sinh kế người dân còn gặp nhiều khó khăn.
- Thứ tư, về huy động nguồn vốn cho thực hiện mục tiêu “Xây dựng nền kinh xanh”, mặc dù Việt nam
đã thoát khỏi ngưỡng của nước nghèo nhưng tích luỹ quốc gia so với các nước đã phát triển còn quá
thấp, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình triển khai hướng tơi “Nền kinh tế xanh”.
- Thứ năm, Cơ chế chính sách hướng tới thực hiện “Nền kinh tế xanh” ở Việt nam hiện nay gần như chưa
có, trong khi trên thế giới cũng mới đề xuất hướng tiếp cận. Việc rà soát lại cơ chế chính sách liên quan và
sửa đổi bổ sung cho phù hợp với mô hình phát triển mới theo hướng cơ cấu lại ngành kinh tế và hướng tới
nền “kinh tế xanh” là thách thức không nhỏ.
3.3. Định hướng thực hiện nền kinh tế xanh ở Việt nam.
Để thực hiện nền “Kinh tế xanh” ở Việt nam những định hướng cơ bản sau đây cần thực hiện.
- Về cơ chế chính sách, trên cơ sở cương lĩnh định hướng Chiến lược phát triển kinh tế-xã Việt nam giai
đoạn 2011-2015 và tầm nhìn 2020, Việt nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Cơ chế chính sách cần tập
trung vào tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới mô hình tăng trưởng, trọng tâm là cơ cấu lại ngành nghề, ưu
tiên phát triển các ngành có công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường; Sử dụng tiết kiệm năng lượng
và tài nguyên; Không gây ô nhiễm môi trường; Phục hồi tài nguyên và hệ sinh thái.
- Về nhận thức, tập trung tuyên truyền, giáo dục định hướng thay đổi nhận thức trước đây của xã hội từ nền
“Kinh tế nâu” sang nền “Kinh tế xanh” để tạo ra một sự đồng thuận cao trong xã hội từ lãnh đạo đến người
dân và doanh nghiệp, từ đó thay đổi quan niệm và nhận thức về một “Nền kinh tế xanh”. Trong hệ thống

giáo dục chuyên nghiệp, đổi mới giáo trình, bài giảng theo hướng tiếp cận phát triển “Nền kinh tế xanh”.
Nâng cấp nội dung “Kinh tế môi trường” và “Kinh tế tài nguyên thiên nhiên” truyền thống theo hướng
giảng dạy “Kinh tế xanh” .
- Đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ trong nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề
trong nội hàm của “Nền kinh tế xanh” như sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ sản xuất tiết kiệm tài
nguyên, tiêu hao ít năng lượng, công nghệ giảm thiểu phát thải khí nhà kính; hạn chế tối đa gây ô nhiễm môi
trường; Phục hồi hệ sinh thái tự nhiên.
- Đổi mới quy hoạch sử dụng đất cho phát triển đô thị, phát triển giao thông, khu công nghiệp, khu chế
xuất, các công trình phúc lợi xã hội theo hướng dành quỹ đất đủ cho phát triển cây xanh, hồ nước và
các công trình hạ tầng kỹ thuật môi trường theo quy định tiêu chuẩn quốc tế.
- Cải cách lại hệ thống thuế tài nguyên và xem xét lại thuế môi trường hướng tới phát triển nền kinh tế xanh
được điều chỉnh thông qua công cụ tài chính và thuế khóa nhằm khuyến khích tiết kiệm và sử dụng hiệu quả
tài nguyên, nhất là tài nguyên quý hiếm, bảo vệ môi trường.
- Đối với chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cần có sựu đổi mới, xem xét lại và hoàn thiện chỉ tiêu GDP xanh, cải tiến hệ
thống SNA phản ánh đủ các chỉ tiêu tính toán môi trường trong hạch toán cân đối tài khoản quốc gia.
- Rà soát, xem xét lại cơ chế chính sách đã có liên quan đến dịch vụ hệ sinh thái và đầu tư cho phát triển
rừng thời gian vừa qua, gắn phát triển rừng với xóa đói giảm nghèo trên cơ sở phát huy hiệu quả thể chế
“Kinh tế thị trường định hướng XHCN”, những ưu thế của công cụ kinh tế liên quan đến chi trả dịch vụ môi
trường rừng, bổ sung và hoàn thiện công cụ này triển khai trong cả nước.
- Dựa vào tiêu chí quốc tế như đã dự tính của UNEP, đầu tư công toàn cấu 2% GDP cho phát triển kinh tế
xanh, tổng kết thời gian vừa qua mức độ đầu tư cho môi trường ở Việt nam còn thiếu hụt bao nhiêu để tiếp
tục bổ sung và hoàn thiện phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
- Tích cực hợp tác quốc tế trong nỗ lực xây dựng “Nền kinh tế xanh” ở Việt nam, huy động các nguồn lực
hỗ trợ của quốc tế, nhất là nguồn vốn đầu tư 2% GDP toàn cầu cho phát triển Kinh tế xanh. Các cơ chế tài
chính khác cho phát triển rừng như REDD+; CDM. Kinh nghiệm trước đây cho thấy Việt Nam thường bỏ lỡ
nhiều cơ hội đầu tư quốc tế cũng như các thể chế tài chính khác mà Việt nam có ưu thế như CDM. Điều này
cần học tập kinh nghiệm của Trung Quốc.
Kết luận.
Chuyển đổi phương thức phát triển, hướng tới phát triển “Nền kinh tế xanh” là hướng tiếp cận mới, tuy
nhiên xét về dài hạn đây là hướng tiếp cận phù hợp với xu thế phát triển chung của hệ thống kinh tế toàn

cầu. Hơn nữa Việt nam là quốc gia phát triển sau, do vậy để rút ngắn khoảng cách phát triển và tiếp cận với
một nền kinh tế hiện đại, văn minh và phát triển bền vững cần hướng tới một “Nền kinh tế xanh”. Tuy nhiên
mô hình phát triển và cơ cấu ngành nghề thế nào phù hợp với “Nền kinh tế xanh” trong điều kiện phát triển
của Việt nam cần phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện, học tập cách thức tiến hành của các quốc gia đã
thực hiện trước để từ đó có lộ trình và bước đi phù hợp.
Phát triển nhanh và bền vững là quan điểm xuyên suốt
trong chiến lược phát triển KT-XH của đất nước ta
Thứ hai, 30 Tháng 8 2010 03:46 Quản trị viên
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vừa có bài viết với tiêu đề "Phát triển nhanh và bền
vững là quan điểm xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta". Cổng TTĐT Chính phủ
trân trọng giới thiệu với độc giả bài viết quan trọng của Thủ tướng.




Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Hội nghị cấp cao ASEAN 16 (tháng 4/2010), Hội nghị đã thông qua 2 Tuyên bố quan trọng là Tuyên bố về Phục hồi và Phát triển bền vững và Tuyên bố về Hợp tác đối phó với biến đổi khí hậu - Ảnh Chinhphu.vn
Quan niệm phát triển bền vững xuất hiện từ những năm đầu thập kỷ 80 thế kỷ 20, được phổ biến rộng rãi vào năm
1987, với hàm ý tổng quát là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho
việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau[1]. Đây là quá trình phải bảo đảm có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài
hòa giữa ba mặt của sự phát triển: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Trong hai thập kỷ qua, trên bình diện quốc tế, vấn đề phát triển bền vững ngày càng được đặc biệt quan tâm, trở
thành yêu cầu phát triển của toàn cầu. Đã có không ít hội nghị thượng đỉnh thảo luận về chủ đề này và đưa ra nhiều
văn kiện, quyết sách quan trọng.
Ở nước ta, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức rất sớm và thể hiện trong nhiều chủ trương,
nghị quyết của Đảng. Ngay từ Đại hội III năm 1960 và Đại hội IV năm 1976, Đảng ta đã đặt mục tiêu “tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Đại hội VII thông qua Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 1991 –
2000, nhấn mạnh “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi
trường”. Đại hội VIII nêu bài học “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát
huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 thông qua tại
Đại hội IX khẳng định “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ,

công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Đại hội X nêu bài học về phát triển nhanh và bền vững, trong đó ngoài các
nội dung phát triển kinh tế, xã hội, môi trường còn bổ sung yêu cầu phát triển toàn diện con người, thực hiện dân
chủ và xác định mục tiêu tổng quát của Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 là “Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ
nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con người”.
Như vậy, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã sớm được Đảng và Nhà nước ta đặt ra với nội dung ngày càng
hoàn thiện và đã trở thành một chủ trương nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát triển của đất
nước trong nhiều thập kỷ qua. Nhà nước ta cũng đã có những cam kết mạnh mẽ về phát triển bền vững[2].
II
Trong mười năm qua, thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn và rất quan trọng.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7,3%/năm[3], thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu
vực. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1.200 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập
thấp. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn
định, các cân đối lớn của nền kinh tế được giữ vững, thâm hụt ngân sách và nợ quốc gia được kiểm soát trong giới
hạn an toàn. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện tốt hơn. Thu nhập thực tế bình quân đầu
người 10 năm qua tăng khoảng 2,3 lần. Công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt nhiều thành tựu nổi bật, được quốc tế
đánh giá cao. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2 lần năm 2008.
Trẻ em được quan tâm bảo vệ, chăm sóc; tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 33,8% xuống còn dưới 18%.
Tuổi thọ bình quân tăng từ 67 lên 72 tuổi. Cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Chỉ số phát triển
con người (HDI) không ngừng tăng lên, năm 2008 là 0,733, thuộc nhóm nước trung bình cao trên thế giới. Mức
hưởng thụ văn hoá, điều kiện tiếp cận thông tin của người dân được nâng lên rõ rệt. Hệ thống phúc lợi và an sinh xã
hội được coi trọng và từng bước mở rộng. Cùng với những kết quả to lớn trong việc xã hội hoá phát triển các lĩnh
vực xã hội, ngân sách nhà nước chi cho các lĩnh vực này không ngừng tăng lên; bảo hiểm y tế được mở rộng từ
13,4% dân số năm 2000 lên khoảng 62% năm 2010. Bình đẳng giới có nhiều tiến bộ, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội
và giữ các trọng trách trong hệ thống chính trị ngày càng cao. Năm 2008, nước ta đã hoàn thành hầu hết các Mục tiêu
Thiên niên kỷ đặt ra cho năm 2015.

Phát biểu tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của phát triển bền vững - Ảnh Chinhphu.vn
Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm và có mặt được cải thiện. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng, xã
hội cởi mở và đồng thuận hơn. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Chính trị - xã hội ổn định. Diện mạo của đất

nước có nhiều thay đổi; thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được
nâng cao; tạo ra những tiền đề quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, trong sự phát triển cũng còn nhiều yếu kém, bất cập. Những thành tựu đạt được
chưa tương xứng với tiềm năng. Chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Tăng
trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu.
Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn hạn chế; lãng phí, thất thoát còn nhiều; hiệu quả đầu tư thấp. Tiêu
hao nguyên liệu, năng lượng còn rất lớn. Việc khai thác và sử dụng tài nguyên chưa thật hợp lý và tiết kiệm. Các cân
đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc, bội chi ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại còn lớn, lạm phát còn cao.
Môi trường sinh thái nhiều nơi bị ô nhiễm nặng.
Các lĩnh vực văn hoá, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt vẫn còn bức xúc; tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng;
ùn tắc và tai nạn giao thông còn nghiêm trọng; tham nhũng chưa bị đẩy lùi; chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là
đào tạo đại học và dạy nghề còn yếu kém và chậm được cải thiện; các bệnh viện bị quá tải, chất lượng dịch vụ y tế
còn thấp.
Những hạn chế, yếu kém trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu,
nổi lên là: Quan điểm phát triển bền vững chưa được nhận thức sâu sắc và thể hiện một cách cụ thể, nhất quán trong
hệ thống chính sách, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết. Trong quản lý, điều hành còn thiên về tốc độ tăng
trưởng mà chưa coi trọng đúng mức đến chất lượng tăng trưởng và tính bền vững của sự phát triển; chưa tạo được
chuyển biến mạnh trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc. Quá trình lập quy hoạch, kế hoạch, dự án phát
triển kinh tế - xã hội và xây dựng, thực hiện chính sách bảo vệ môi trường chưa có sự kết hợp chặt chẽ, lồng ghép
hợp lý. Cơ chế quản lý và giám sát sự phát triển bền vững chưa được thiết lập rõ ràng và có hiệu quả. Quyền làm chủ
của nhân dân, nhất là dân chủ trực tiếp chưa được phát huy đầy đủ.
III
Từ thực tiễn nêu trên, dự thảo Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nêu bài học “Đặc biệt coi trọng
chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển… giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng
tăng trưởng” và xác định “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên
suốt trong Chiến lược”, với các nội dung chủ yếu là“Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ
mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng,
năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri
thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao không ngừng

chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường.
Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết; phát triển bền
vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và
bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Phải đặc
biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.”
Để hiện thực hoá quan điểm phát triển nhanh và bền vững, phải thực hiện đồng bộ các định hướng phát triển đã nêu
trong dự thảo Chiến lược, trong đó cần tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp sau:


Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là nội dung rất quan trọng của phát triển bền vững. Đây còn là tiêu chí thể hiện bản chất của chế độ ta.
Một là, bằng các giải pháp và sức mạnh tổng hợp, kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường hoà
bình và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đất nước. Đây là điều kiện tiên quyết nhất cho sự phát triển nhanh và
bền vững và cũng là một lợi thế của đất nước ta.
Hai là, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế; giữ vững an ninh lương thực, an ninh
năng lượng và sự hoạt động an toàn, hiệu quả của các định chế tài chính.
Thế hệ chúng ta đã từng chứng kiến những cuộc khủng hoảng lương thực, khủng hoảng năng lượng, mới đây là cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu xẩy ra trong các năm 2007 - 2009 và cuộc khủng hoảng nợ công
ở một số nước hiện nay. Những cuộc khủng hoảng này là hậu quả của sự phát triển không bền vững, gây mất ổn định
toàn cầu và tác động đến tăng trưởng của hầu hết các quốc gia, kinh tế thế giới suy giảm, thất nghiệp gia tăng, xung
đột xã hội lan rộng
Ở nước ta, cùng với những bất cập, yếu kém trong quản lý vĩ mô, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu đã tác động tiêu cực đến sự phát triển của đất nước, lạm phát tăng cao, tốc độ tăng trưởng suy giảm, đời
sống nhân dân gặp khó khăn. Kinh nghiệm quốc tế cũng như của nước ta những năm qua cho thấy giữ vững an ninh
lương thực, an ninh năng lượng, an ninh tài chính, kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân
đối lớn vừa là tiền đề để tăng trưởng nhanh vừa là nội dung của tăng trưởng bền vững, trở thành nhiệm vụ quan trọng
nhất trong quản lý kinh tế của bất cứ quốc gia nào.
Ba là, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để bảo đảm đạt tốc độ tăng trưởng cao đồng thời nâng cao
chất lượng tăng trưởng.

Bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, ổn định và không ngừng nâng cao chất lượng tăng trưởng là yếu tố quyết định nhất
để phát triển nhanh và bền vững. Có đạt được tốc độ tăng trưởng cao, đất nước mới phát triển nhanh, rút ngắn
khoảng cách với các nước, mới tạo được nguồn lực để phát triển các lĩnh vực xã hội, phát triển con người, đầu tư
phát triển những khu vực khó khăn, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng trong nước, mở rộng hệ thống
phúc lợi và an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Với ưu thế về nguồn lực con người, chính trị xã hội
ổn định, vị trí địa - kinh tế thuận lợi, lại là nước đi sau, chúng ta có điều kiện để phát triển nhanh. Mặt khác, có nâng
cao chất lượng tăng trưởng mới tăng được hiệu suất sử dụng vốn và sức cạnh tranh của nền kinh tế, mới mở rộng
được thị trường tiêu thụ trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trên cơ sở đó, tạo ra giá trị gia tăng lớn cho
đất nước, tăng khả năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, bảo đảm nguồn lực cho tăng trưởng cao và ổn định trong dài
hạn.
Để tăng trưởng cao, đạt tốc độ bình quân 7 - 8%/năm, phải tháo gỡ mọi cản trở về thể chế và thủ tục hành chính, giải
phóng và phát triển mạnh lực lượng sản xuất gắn với nâng cao trình độ khoa học, công nghệ. Phải tạo mọi điều kiện
phát triển kinh tế tư nhân - thành phần có tốc độ tăng trưởng cao nhất và tạo nhiều việc làm nhất. Mặt khác, phải đổi
mới, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, để doanh nghiệp nhà nước trở thành công cụ quan
trọng trong việc thực hiện chính sách cơ cấu và định hướng tổ chức thị trường. Phải thực hiện đa sở hữu, công khai
minh bạch, nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp và quan trọng hơn là đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi
trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong cơ chế thị trường. Chỉ có như vậy mới nâng cao
được hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước và sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước mới không chèn lấn các
nguồn lực để phát triển khu vực tư nhân - một động lực chủ yếu của tăng trưởng.
Nâng cao hiệu quả đầu tư công là một yếu tố quan trọng bảo đảm chất lượng tăng trưởng. Trong mười năm tới, cần
tập trung hơn nữa đầu tư phát triến hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, từng bước hiện đại, tạo điều
kiện cho kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững. Hoàn thiện cơ chế giám sát và tăng cường công tác giám sát đầu tư.
Kiên quyết và có biện pháp mạnh mẽ chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí trong đầu tư.

Phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng sang kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với tăng trưởng theo chiều sâu
Yêu cầu cấp bách trong thời kỳ chiến lược tới là thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế trên cả ba nội dung chính: (1) tái
cấu trúc các ngành sản xuất, dịch vụ gắn với các vùng kinh tế, phát triển công nghiệp hỗ trợ. Phải chuyển đổi mô
hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào sự gia tăng vốn đầu tư và nguồn nhân lực chất lượng thấp hiện
nay sang kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ sở áp dụng các tiến
bộ về khoa học, công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý hiện đại. Trong mười năm tới, nhất là

trong những năm đầu của thời kỳ chiến lược, chúng ta chưa thể từ bỏ hoàn toàn mô hình tăng trưởng theo chiều rộng.
Vì, để tăng trưởng theo chiều sâu phải sử dụng công nghệ hiện đại và phải có nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là
quá trình tích luỹ vốn và phát triển nguồn nhân lực trong từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Hơn nữa, phát triển
bền vững phải gắn với yêu cầu giải quyết việc làm và toàn dụng lao động trong khi nguồn lao động thiếu việc làm
còn nhiều, nhất là ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, phải hành động khẩn trương, kiên quyết tạo lập đồng bộ các tiền
đề để chuyển mạnh sang tăng trưởng theo chiều sâu ngay trong những năm đầu của thời kỳ chiến lược, trước hết là ở
những lĩnh vực khoa học, công nghệ phát triển nhanh và nước ta có điều kiện. Đây là con đường cơ bản nhằm nâng
cao chất lượng tăng trưởng; (2) tái cấu trúc các doanh nghiệp, xây dựng lực lượng doanh nghiệp trong nước với
nhiều thương hiệu mạnh, hiệu quả và có sức cạnh tranh cao; (3) điều chỉnh chiến lược thị trường, coi trọng hơn thị
trường trong nước đi đôi với việc tiếp tục đa dạng hoá, mở rộng thị trường nước ngoài. Thực hiện tốt các nội dung
trên đây, chẳng những nâng cao được chất lượng tăng trưởng, khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, hạn chế được
các tác động tiêu cực trước những biến động từ bên ngoài, bảo đảm cho đất nước phát triển bền vững mà còn tham
gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, một xu thế phát triển trong nền kinh tế toàn cầu hoá và
hội nhập quốc tế.
Cùng với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải cách hành chính, cần phát huy có hiệu quả chức năng kiến
tạo phát triển của nhà nước, nhất là trong thời kỳ đầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, thể hiện trong việc đề ra chính sách
cơ cấu và định hướng phát triển vùng đúng đắn.
Bốn là, phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, yếu tố làm nên giá trị ổn định, lâu bền của một quốc gia, hình thành bản sắc
riêng có của một dân tộc. Văn hoá làm nên nguồn lực xã hội to lớn, thấm sâu vào quá trình phát triển. Sự phát triển
của một thời đại ở bất kỳ quốc gia nào đều có dấu ấn khai sáng của văn hoá. Trên nền tảng văn hoá, con người không
chỉ giải quyết mối quan hệ với đồng loại, ứng xử với môi trường thiên nhiên trong đời sống hiện tại mà còn giải
quyết mối quan hệ với các thế hệ tương lai trong quá trình phát triển. Với ý nghĩa này, văn hoá không chỉ là kết quả
của phát triển nhanh, bền vững mà còn là yếu tố tạo nên sự phát triển nhanh, bền vững. Phải đặt yêu cầu phát triển
văn hóa ngang tầm và hài hòa với phát triển kinh tế. Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa
lành mạnh. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa
tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát
triển.
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là nội dung rất quan trọng của phát triển bền vững. Đây còn là tiêu chí thể

hiện bản chất của chế độ ta. Sự bất bình đẳng và phân hoá giàu nghèo ở mức cao tạo nên xung đột xã hội ở không ít
các quốc gia trên thế giới, làm suy giảm tăng trưởng. Vì vậy, Đảng ta chủ trương phải thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.Chúng ta sẽ tập trung hơn cho công cuộc xóa đói
giảm nghèo, đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để thực hiện giảm nghèo bền vững. Khuyến khích làm giàu
theo pháp luật, đồng thời hạn chế phân hoá giàu nghèo, chủ yếu thông qua chính sách điều tiết thu nhập, phát triển hệ
thống phúc lợi xã hội và an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân
phối trong các doanh nghiệp, chính sách tiền lương, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội.
Tập trung sức phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là đào tạo đại học và dạy nghề để có nguồn nhân lực chất lượng
cao, cơ cấu hợp lý nhằm đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Phát triển
mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Tập trung chỉ đạo kiên quyết, đồng bộ và huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị để bảo đảm đạt được những
chuyển biến rõ rệt, vững chắc trong công tác phòng chống tham nhũng, tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông.


Phát triển kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường; chủ động đối phó với hiểm họa nước biển dâng; sử dụng công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, phát triển kinh tế xanh là nội dung có tác động mạnh nhất đến phát triển bền vững
Năm là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trực tiếp, xây dựng xã
hội đồng thuận, cởi mở.
Thực hiện dân chủ là một thành tố của phát triển bền vững, được Đảng ta nêu rõ tại Đại hội Đảng lần thứ X, nhằm
hoàn thiện, làm phong phú thêm nội dung phát triển bền vững. Điều này xuất phát từ luận điểm rất quan trọng: con
người vừa là mục tiêu vừa là chủ thể của phát triển. Nguồn lực con người là lợi thế cạnh tranh dài hạn, là yếu tố
quyết định sự phát triển của một quốc gia. Thực hành dân chủ rộng rãi sẽ phát huy khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân, đóng góp vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Dân chủ càng cao thì đồng thuận xã hội càng sâu,
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng được củng cố vững chắc.
Để phát huy dân chủ, làm cho dân chủ trở thành nguồn lực phát triển, phải bảo đảm hai điều kiện: (1) tạo cơ hội cho
mọi người được học tập, xây dựng xã hội học tập nhằm nâng cao dân trí; (2) thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
thông qua các thiết chế bảo đảm dân chủ trong mọi mặt của đời sống xã hội, mở rộng dân chủ trực tiếp. Dân chủ phải
gắn với kỷ luật, kỷ cương.
Có thể nói nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường đi liền với bảo đảm phúc lợi - an sinh xã hội và dân chủ xã hội
chủ nghĩa là 3 trụ cột chính trong tiến trình phát triển của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, dân chủ

vừa là mục tiêu vừa là động lực. Cả 3 trụ cột này phải mạnh và có sự phát triển tương thích, đồng bộ. Một trụ cột yếu
sẽ cản trở sự vận động của các trụ cột khác và ảnh hưởng đến sự phát triển chung.
Sáu là, tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường.
Bảo vệ và cải thiện môi trường là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững. Môi trường bị ô nhiễm, tài
nguyên bị cạn kiệt, rừng bị tàn phá, đất bị xói mòn và tình trạng sa mạc hoá, biến đổi khí hậu, nguy cơ nước biển
dâng… làm thu hẹp không gian sinh tồn của con người chẳng những tác động tiêu cực đến cuộc sống hiện tại mà còn
đe doạ sự phát triển của các thế hệ tương lai.
Đối với nước ta, tình trạng ô nhiễm môi trường và những nguy cơ do biến đổi khí hậu và nước biển dâng là những
thách thức to lớn. Vì vậy, phát triển kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường; chủ động đối phó với
hiểm họa nước biển dâng; sử dụng công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, phát triển kinh tế xanh là nội dung
có tác động mạnh nhất đến phát triển bền vững, phải được thể hiện trong toàn bộ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước cũng như trong từng lĩnh vực, ở từng địa phương, đơn vị.
Thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững đòi hỏi phải tạo được sự chuyển biến có tính
cách mạng, thấu suốt về nhận thức, đổi mới mạnh mẽ về tư duy, quán triệt trong mọi chính sách, quy hoạch, kế
hoạch, dự án và chương trình hành động; tổ chức thực hiện quyết liệt ở tất cả các ngành, các cấp với sự đồng thuận
tham gia của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp và mọi người dân trong cả nước.
Chúng ta tin tưởng vững chắc rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc với sự điều hành có hiệu quả của Nhà nước, sự phấn đấu nỗ lực của toàn dân, toàn quân, nhất định đất
nước ta sẽ bước vào một thời kỳ mới phát triển nhanh và bền vững.
Nhận diện và vượt qua thách thức
Để xây dựng mô hình phát triển kinh tế xanh, bền vững, bên cạnh việc phát huy lợi thế, Việt Nam hiện cần nhận diện
những tồn tại, khó khăn nhằm đối mặt và tìm cách vượt qua.
Quá trình xây dựng, phát triển kinh tế những năm qua đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập. Mức thu nhập trung bình đầu
người/năm ở Việt Nam chỉ hơn 1.000 USD, còn cách xa mức thu nhập trung bình trên thế giới (10.000 USD). Nền
kinh tế đang dựa vào khai thác tài nguyên là chính, trong khi phân bổ và sử dụng “nguồn vốn tự nhiên” ấy kém hiệu
quả. Chất thải gây ô nhiễm môi trường không quản và xử lý tốt, tốc độ gia tăng phát thải khí nhà kính ở vào hàng cao
nhất trên thế giới. Ngoài ra, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, chậm đổi mới nên tiêu tốn nhiều năng lượng, kéo theo
năng suất chất lượng thấp.
Không chỉ vậy, ngành sản xuất năng lượng sạch như năng lượng hạt nhân, năng lượng gió, mặt trời, sinh khối, địa
nhiệt…chưa phát triển. Các ngành hỗ trợ, giải quyết vấn đề môi trường, dịch vụ môi trường, công nghiệp tái chế…

còn yếu kém. Hơn nữa, một số ngành thân thiện với môi trường thì còn non nớt, luôn gặp khó khăn về nguồn vốn,
đầu ra sản phẩm không ổn định, lợi nhuận thấp…
Nghiêm trọng hơn, đa dạng sinh học ở Việt Nam đang suy giảm mạnh, diện tích các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp,
tài nguyên không tái tạo dần cạn kiệt, nguồn lợi thủy sản giảm dần…
Trước thực trạng đó, phát triển Kinh tế xanh tại Việt Nam cần được xem như là một chiến lược để đạt tới phát triển
bền vững, một công cụ, mô hình để giải quyết những thách thức mang tính toàn cầu, trong đó có biến đổi khí hậu.
Nhưng làm sao để thực hiện Kinh tế xanh trong bối cảnh kinh tế thế giới khủng hoảng, nợ công tương đối cao, nguồn
lực (vốn, công nghệ, nhân lực ) còn quá hạn chế ?
Trước câu hỏi đó, theo tiến sĩ Nguyễn Văn Tài, nên chăng Nhà nước nên gỡ bỏ các rào cản chính sách, xóa bỏ cơ chế
bao cấp có hại cho môi trường, xây dựng môi trường pháp lý thúc đẩy hàng hóa, dịch vụ thân thiện với môi trường.
Đồng thời, hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế xanh mũi nhọn thông qua trực tiếp đầu tư để phát triển “năng lực
cung” hoặc thực hiện kích cầu cho hàng hóa và dịch vụ thân thiện với môi trường.
Hội nhập cùng thế giới
Ý tưởng phát triển kinh tế xanh được đưa ra từ những năm 70 của thế kỷ 20, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng năng
lượng giai đoạn 1972-1973 gây ra những tác động nghiêm trọng tới nền kinh tế thế giới. Chỉ sau hơn 40 năm, trong
bối cảnh biến đổi khí hậu đang là vấn đề nghiêm trọng, Kinh tế xanh đã trở thành mục tiêu cho mọi quốc gia từ phát
triển, đang phát triển và chậm phát triển hướng tới.
Tiêu biểu cho các quốc gia phát triển, Hoa Kỳ dẫn đầu phong trào khi dành 95 tỷ USD trong gói kích thích kinh tế
hơn 700 tỷ USD để phát triển các ngành năng lượng tái tạo và sản xuất tiết kiệm năng lượng với mục tiêu đến năm
2025, các loại năng lượng tái tạo sẽ chiếm 25% lượng phát điện. Đại diện cho châu Á, Hàn Quốc cũng được coi là
một trong những nước đi đầu trong Kinh tế xanh. Ngay từ 2008, nước này đã đề ra chính sách “Tăng trưởng xanh, ít
carbon” với nội dung tái cơ cấu kinh tế theo hướng chuyển sang mô hình phát triển dựa vào năng lượng tái tạo.
Trong khu vực ASEAN và Đông Á, một số quốc gia đã đưa Kinh tế xanh vào kế hoạch và chương trình phát triển
quốc gia trung và dài hạn. Trung Quốc cũng dành khoảng 40% gói kích thích kinh tế vào các ngành liên quan đến
Kinh tế xanh, trong đó tập trung vào sử dụng năng lượng hiệu quả và năng lượng tái tạo, cam kết sử dụng năng lượng
tái tạo lên 16% vào năm 2020.
Trước làn sóng đó, bà Nguyễn Lệ Thủy - Vụ phó Vụ Khoa học,Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường - Bộ Kế hoạch
và Đầu tư nhận định: xu hướng cộng đồng quốc tế ngày càng quan tâm đến phát triển Kinh tế xanh là cơ hội cho Việt
Nam hợp tác quốc tế và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế để tái cấu trúc nền kinh tế, nâng cao năng lực ứng
phó với biến đổi khí hậu. Hơn nữa, chủ động tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác để đưa ra những

định hướng, chính sách phù hợp là những việc tối cần thiết mà Việt Nam phải làm trong quá trình phát triển Kinh tế
xanh, bà Thủy nhấn mạnh.
Khi Việt Nam vượt qua được thách thức của chính mình, tự tin hội nhập cùng thế giới thì khi ấy xanh hóa nền kinh
tế hướng tới phát triển bền vững sẽ không còn là tham vọng.
Nhiều năm qua, để thúc đẩy phát triển kinh tế, Việt Nam đã phải trả giá không nhỏ cho sự
suy giảm tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế đang mở ra
cơ hội cho Việt Nam xây dựng mô hình phát triển kinh tế xanh, bền vững
Tuy nhiên, làm sao để thực hiện kinh tế xanh trong bối cảnh kinh tế thế giới khủng hoảng,
kinh tế trong nước gặp khó, nguồn lực (vốn, công nghệ, nhân lực ) còn hạn chế đang trở
thành bài toán khó đối với Việt Nam.
Trong nhiều năm qua, nền kinh tế Việt Nam phát triển dựa vào khai thác tài nguyên là
chính, trong khi việc phân bổ và sử dụng “nguồn vốn tự nhiên” lại kém hiệu quả và lãng phí.
Chất thải gây ô nhiễm môi trường không được quản lý và xử lý tốt, tốc độ gia tăng phát thải
khí nhà kính ở vào hàng cao nhất trên thế giới.
Ngoài ra, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, chậm đổi mới nên tiêu tốn nhiều năng lượng, kéo
theo năng suất chất lượng thấp. Nghiêm trọng hơn, đa dạng sinh học ở Việt Nam đang suy
giảm mạnh, diện tích các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp, tài nguyên không tái tạo dần cạn
kiệt, nguồn lợi thủy sản giảm dần… Hơn nữa, do bị xếp vào danh sách một trong những nước
chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, nên hướng tới nền kinh tế xanh là lựa chọn
hợp lý hiện nay đối với Việt Nam.
Nhiều thuận lợi
Việt Nam hiện nay có những điều kiện thuận lợi nhất định để hướng nền một nền kinh tế
xanh, cụ thể:
Thứ nhất, Hội nghị Trung ương 3 đã khẳng định: Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, đảm bảo phúc lợi và an sinh xã hội, bảo vệ tài
nguyên và môi trường. Đây chính là cơ hội để Việt Nam hướng tới nền kinh tế xanh và tăng
trưởng xanh. Mới đây, các nhà tài trợ và tổ chức quốc tế cũng đánh giá rất cao Dự thảo
Khung Chiến lược Tăng trưởng xanh 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050 của Việt Nam với
mục tiêu tổng quát là nhằm thay đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam thành một mô hình
dựa trên việc phát thải các-bon thấp, sản xuất và tiêu dùng xanh cùng với tái cơ cấu nền

kinh tế để tăng trưởng kinh tế gắn kết hiệu quả hơn với tiến bộ và công bằng xã hội và bảo
vệ môi trường, nhằm đảm bảo thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Dự kiến, Chiến lược Tăng trưởng xanh của Việt Nam sẽ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
vào tháng 6 năm 2012. Nhiều chuyên gia kinh tế kỳ vọng, Chiến lược này sẽ tạo động lực
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, nâng cao đời sống của người dân, cải thiện công
bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu những rủi ro môi trường và thiếu hụt về sinh thái.
Thứ hai, kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng trong những năm vừa qua tạo ra nội lực bên
trong cho một xu thế phát triển mới. Hơn nữa, những vấn đề bức xúc về ô nhiễm môi trường
và suy giảm tài nguyên trong thời gian phát triển vừa qua đối với đất nước sẽ giúp người dân
nhân thức được tầm quan trọng của lựa chọn kinh tế xanh. Quả thật, sau một thời gian dài
phát triển, người dân đã nhận thức được những hậu quả và sự trả giá cho mô hình phát triển
của nền kinh tế nâu - nền kinh tế khai thác và sử dụng quá nhiều năng lượng từ nhiên liệu
hóa thạch và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây ra những tổn hại to lớn cho môi trường
như ô nhiễm không khí, nguồn nước và đại dương, suy thoái đất, mất rừng và suy giảm đa
dạng sinh học…
Thứ ba, Việt Nam đang hội tụ những điều kiện thuận lợi từ điều kiện tự nhiên, xã hội đến
chủ trương, chính sách để tiến hành xanh hóa nền kinh tế. Với lợi thế nằm trong khu vực
nhiệt đới, gió mùa Đông Nam Á, có nguồn năng lượng mặt trời dồi dào, năng lượng gió
phong phú, sinh vật tăng trưởng nhanh là cơ hội cho Việt Nam tham gia vào các chương
trình mục tiêu thiên niên kỷ để hướng tới Nền kinh tế xanh. Theo TS. Nguyễn Văn Tài, Viện
trưởng Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường),
Việt Nam có những lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, dân số, xã hội có thể
làm tiền đề tốt cho kinh tế xanh, trong đó phải kể đến tiềm năng phát triển năng lượng tái
tạo; phát triển năng lượng sinh học, sinh khối từ gỗ, phụ phẩm công nghiệp…
Không ít thách thức
Chuyển đổi phương thức phát triển, hướng tới phát triển nền kinh tế xanh là hướng tiếp cận
mới, phù hợp với xu thế phát triển chung của hệ thống kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, hiện Việt
Nam vẫn đối mặt với không ít thách thức:
Thứ nhất, nhận thức về một nền kinh tế xanh hiện nay ở Việt Nam vẫn còn hạn chế, đòi hỏi
phải có những nghiên cứu và phổ biến rộng rãi kiến thức trong tầng lớp lãnh đạo, các nhà

hoạch định chính sách, doanh nghiệp và người dân. Nếu không nhận thức đầy đủ, tính đồng
thuận trong xã hội sẽ không đạt được, do vậy sẽ khó thực hiện. Quả thật, những băn khoăn
như thay đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh có sự
khác biệt như thế nào so với trước đây và bắt đầu từ đâu trong bối cảnh phát triển kinh tế
Việt Nam hiện nay không phải dễ trả lời.
Thứ hai, nền kinh tế xanh gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, các-bon thấp, đầu tư khôi
phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kế gắn với phục hồi môi trường…. Thực tế công nghệ sản
xuất ở Việt Nam hiện nay so với thế giới phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn,
việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với nền kinh tế xanh là thách thức không nhỏ nếu
không có trợ giúp của các nước có công nghệ cao trên thế giới.
Thứ ba, huy động nguồn vốn cho thực hiện mục tiêu Xây dựng nền kinh xanh cũng là một
trở ngại lớn. Dù Việt Nam đã thoát khỏi ngưỡng của nước nghèo nhưng tích luỹ quốc gia so
với các nước phát triển còn quá thấp, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình triển khai
hướng tới nền kinh tế xanh. Hơn nữa, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện
nay, việc huy động nguồn vốn không chỉ trong nước mà cả bên ngoài cũng khó khăn hơn rất
nhiều.
Thứ tư, các cơ chế chính sách hướng tới thực hiện nền kinh tế xanh ở Việt Nam hiện nay
gần như chưa có, trong khi trên thế giới cũng mới đề xuất hướng tiếp cận. Việc rà soát lại cơ
chế chính sách liên quan và sửa đổi bổ sung cho phù hợp với mô hình phát triển mới theo
hướng cơ cấu lại ngành kinh tế và hướng tới nền kinh tế xanh cũng không hề đơn giản khi
chúng ta chưa có kinh nghiệm.
Thứ năm, ngành sản xuất năng lượng sạch như năng lượng hạt nhân, năng lượng gió, mặt
trời, sinh khối, địa nhiệt… chưa phát triển. Các ngành hỗ trợ, giải quyết vấn đề môi trường,
dịch vụ môi trường, công nghiệp tái chế… còn yếu kém. Hơn nữa, một số ngành sản xuất
thân thiện với môi trường còn ít, luôn gặp khó khăn về nguồn vốn, đầu ra sản phẩm không
ổn định, lợi nhuận thấp…
Tái cấu trúc cần hướng đến nền kinh tế xanh
Mới đây, Liên hợp quốc đã kêu gọi các doanh nghiệp tham gia tích cực hơn vào các chiến
lược giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính để giúp thế giới tăng tốc quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế xanh. Động lực thúc đẩy từ các doanh nghiệp sẽ khiến Chính phủ các nước “tạm

dừng việc bàn cãi” để nhanh chóng chuyển từ nền kinh tế gây ra quá nhiều hậu quả cho môi
trường sang chu kỳ mới của tăng trưởng bền vững và lành mạnh (tăng trưởng xanh hoặc
kinh tế xanh), góp phần tạo nhiều việc làm, xóa đói giảm nghèo và ổn định khí hậu toàn
cầu.
Trên thực tế, ý tưởng phát triển kinh tế xanh được đưa ra từ những năm 70 của thế kỷ
trước, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng năng lượng giai đoạn 1972-1973 gây ra những tác
động nghiêm trọng tới nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, đến nay, khi bối cảnh biến đổi khí hậu
đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng, khi khủng hoảng tài chính đang lan rộng toàn
cầu, khi người ta đã nhận thấy những hạn chế và rủi ro trong cấu trúc mô hình kinh tế và sự
phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch thì kinh tế xanh mới thực sự trở thành mục tiêu cho
mọi quốc gia hướng tới. Đáng chú ý là nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản,
Đức, Anh, Pháp, Hà Lan đã đi tiên phong trong việc thúc đẩy tăng trưởng xanh. Thậm chí,
những nước kém phát triển ở Đông Nam Á như Lào, Campuchia… cũng đang trong quá trình
xây dựng một lộ trình tăng trưởng xanh quốc gia.
Thực tiễn tại các nước cũng cho thấy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh tạo ra tiềm
năng to lớn để đạt được phát triển bền vững và giảm đói nghèo với tốc độ chưa từng thấy
đối với tất cả các quốc gia. Riêng đối các quốc gia đang phát triển, tăng trưởng xanh còn tạo
đà cho một bước “nhảy vọt” để phát triển kinh tế mà không cần theo con đường phát triển
kinh tế “ô nhiễm trước, xử lý sau”. Trong mô hình kinh tế vĩ mô, nhiều chuyên gia kinh tế
cũng đã chỉ ra rằng, xét trong dài hạn, đầu tư vào nền kinh tế xanh sẽ cải thiện hiệu quả
kinh tế và tăng tổng lượng của cải trên toàn cầu. Mặt khác sự đầu tư đó sẽ đem lại hiệu quả
trong việc phục hồi các nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo, giảm thiểu những rủi ro môi
trường và tái thiết sự thịnh vượng cho tương lai.
Đối với Việt Nam, còn rất nhiều việc phải làm để hướng đến một nền kinh tế xanh. Mô hình
phát triển và cơ cấu ngành nghề thế nào để phù hợp với kinh tế xanh trong điều kiện phát
triển hiện nay cần phải được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện, học hỏi kinh nghiệm quốc tế
để từ đó có lộ trình và bước đi phù hợp. Theo TS.Nguyễn Văn Tài, tới đây Nhà nước nên gỡ
bỏ các rào cản chính sách, xóa bỏ cơ chế bao cấp có hại cho môi trường, xây dựng môi
trường pháp lý thúc đẩy hàng hóa, dịch vụ thân thiện với môi trường.
Đồng thời, hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế xanh mũi nhọn thông qua trực tiếp đầu tư để

phát triển “năng lực cung” hoặc thực hiện kích cầu cho hàng hóa và dịch vụ thân thiện với
môi trường. Theo dự tính của UNEP, đầu tư công cho phát triển kinh tế xanh cần khoảng 2%
GDP toàn cầu (khoảng 1.300 tỷ USD). Hiện nay, tổng mức đầu tư cho môi trường ở Việt
Nam còn rất thiếu hụt. Thời gian tới đây, Việt Nam cần tìm cách huy động các nguồn lực hỗ
trợ từ bên ngoài để phục vụ cho phát triển kinh tế xanh.
Bên cạnh đó, PGS.,TS. Nguyễn Thế Chinh, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài
nguyên và môi trường cho rằng, các cơ chế chính sách cần tập trung vào tạo điều kiện thuận
lợi cho đổi mới mô hình tăng trưởng, trọng tâm là cơ cấu lại ngành nghề, ưu tiên phát triển
các ngành có công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường; Sử dụng tiết kiệm năng
lượng và tài nguyên; Không gây ô nhiễm môi trường; Phục hồi tài nguyên và hệ sinh thái.
Chuyên gia này cũng nhấn mạnh, cần tập trung tuyên truyền, giáo dục định hướng thay đổi
nhận thức trước đây của xã hội từ nền kinh tế nâu sang nền kinh tế xanh để tạo ra một sự
đồng thuận cao trong xã hội từ lãnh đạo đến người dân và doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cần đầu tư nhiều hơn cho hợp tác nghiên cứu và phát triển khoa học công
nghệ trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao ít
năng lượng, công nghệ giảm thiểu phát thải khí nhà kính Đồng thời, việc cải cách lại hệ
thống thuế tài nguyên và xem xét lại thuế môi trường được điều chỉnh thông qua công cụ tài
chính và thuế khóa cũng cần được triển khai sớm nhằm khuyến khích tiết kiệm và sử dụng
hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên quý hiếm, bảo vệ môi trường.
Nhiều chuyên gia môi trường cũng nhấn mạnh rằng, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần
tích cực hợp tác quốc tế nhằm học hỏi những kinh nghiệm hay trong nỗ lực xây dựng nền
kinh tế xanh. Chia sẻ quan điểm này, bà Nguyễn Lệ Thủy, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo
dục, Tài nguyên và Môi trường (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nhận định: “Xu hướng cộng đồng
quốc tế ngày càng quan tâm đến phát triển kinh tế xanh là cơ hội cho Việt Nam hợp tác
quốc tế và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế để tái cấu trúc nền kinh tế, nâng cao
năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu. Việc chủ động tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm từ các
quốc gia khác để đưa ra những định hướng, chính sách phù hợp là những việc cần thiết mà
Việt Nam phải làm trong quá trình phát triển kinh tế xanh”.
Phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi
trường ( 19/9/2012)

1. Tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 trong tổng thể quá trình
25 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định
những thành tựu quan trọng đạt được, chỉ ra những khó khăn, hạn chế cần khắc phục và đúc kết bốn bài

×