Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

220648

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (724.34 KB, 81 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước gió mùa nhiệt đới,có khí hậu nóng ẩm quanh
năm,có một vùng đất đỏ bazan thuận lợi cho việc trồng các loại cây công
nghiệp ngắn ngày,có khả năng xuất khẩu cao…Càphê là một trong những
loại cây trồng đó,hiện nay ở Việt Nam,cà phê là mặt hàng nông sản có giá trị
xuất khẩu lớn thứ hai sau gạo.Thực tế đã cho thấy,trong xu thế hội nhập toàn
cầu hóa nền kinh tế thế giới thì xuất khẩu càphê đóng một vai trò quan
trọng,không những là kênh huy động nhập khẩu máy móc phục vụ công
nghiệp hóa đất nước mà còn là cán cân thương mại quan trọng trong tất cả
các quan hệ thương mại trên thế giới. Với tầm quan trọng của mình, cà phê
được xếp vào danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và
được chọn là một trong những mặt hàng trọng điểm cần phát huy.
Tuy nhiên để xuất khẩu cà phê thật sự trở thành một trong những thế mạnh
của Việt Nam,điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố,yếu tố bên trong và yếu
tố bên ngoài…từ sự tác động của nhà nước,doanh nghiệp,hiệp hội…đến sự tác
động của thị trường thế giới…
Với mong muốn ngành xuất khẩu cà phê thật sự lớn mạnh, em xin được
nghiên cứu đề tài :
“Xuất khẩu cà phê của Việt Nam - hiện trạng và một số giải pháp
thúc đấy”
Nội dung công trình nghiên cứu gồm 3 chương sau :
Chương I. Khái quát về thị trường cà phê thế giới
Chương II. Tình hình sản xuất chế biến và xuất khẩu cà phề Việt Nam những
năm gần đây
Chương III. Phương hướng và những biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả xuất khẩu cà phê ở Việt Nam
2
Chương I
KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG CÀ PHÊ THẾ GIỚI
1. GIỚI THIỆU VÀI NÉT VỀ CÂY CÀ PHÊ:


1.
1.Lịch sử cây cà phê
Cách đây khoảng 1000 năm, một người du mục Ethiôpi đã ngẫu nhiên
phát hiện ra hương vị tuyệt vời của 1 cây lạ mọc ở làng Capfa gần thủ đô
Ethiôpi. Đàn gia súc của ông sau khi ăn xong bỗng “tươi tỉnh” và đã không
chịu để chủ lùa vào bãi trú đêm, thấy vậy, ông nếm thử và cảm thấy rất sảng
khoái, tỉnh táo và từ đó trái cây đó trở thành đồ uống cho con người.
Từ thế kỷ VI, cà phê không chỉ được người Ethiôpi dùng mà do tác
dụng kích thích mạnh mẽ mà thời đó được coi là hiện tượng thần kỳ, cây
cà phê được lan cả sang Yemen, các nước khác ở Trung Cận Đông và
nhanh
chóng

vượ
t biển đổ sang ARập (Arabica) do đó có loại cà phê tên là
Arabica.
Thế kỷ XVI các nhà buôn nước cộng hòa Vernize nhập khẩu cà phê
vào Châu Âu, như vết dầu loang, cà phê lan sang Châu Á, Châu Đại Dương.
Giống cà phê Arabica do người Hà Lan đưa vào Xrilanca, Côlômbia và
Java (Inđônêxia) năm 1670. Cuối thế kỷ XVII, cây cà phê đã tìm được chỗ
đứng vững chắc trên thế giới.
1.2.
Các loại cà phê
Vẫn còn nhiều tranh cãi về số lượng loại cà phê, người ta nói rằng có
từ 25 - 100 loại cà phê trên thế giới nhưng những loại quan trọng nhất là:
- Cà phê chè (Coffee Arrabica L): Loại này chiếm 65 % số lượng cà phê
sản xuất trên thế giới
- Cà phê vối (Coffee canephora pirre): Loại này chiếm 35% lượng cà phê
sản xuất trên thế giới
- Cà phê mít (Excelsa) phát hiện đầu tiên năm 1902 ở Ubangui Chari

3
nên thường được gọi là cà phê Chari.
Do


vị đậm nên người ta thường
trộn với cà phê chè để tạo ra vị thơm hơn.
1.3.
Ích lợi của cây cà phê
Cây cà phê được dùng trong y học, trong công nghiệp thực phẩm. Cà
phê còn tạo ra công ăn việc làm, góp phần bảo vệ môi trường. Đặc biệt cây
cà phê đem lại nguồn
thu nhập lớn. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu cà phê thế
giới khoảng 10 tỷ USD/năm.
2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ CÀ PHÊ THẾ GIỚI
2.1.
Diện tích
Diện tích trồng cà phê thế giới tăng trung bình là 0,1%/năm, đạt
14.593.940 ha năm 2008. Diện tích trồng cà phê ở các khu vực khác nhau trên
thế giới tăng giảm không đồng đều. Trong khi diện tích trồng cà
phê
của khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương tăng trung bình là 2,8%/năm thì diện tích
trồng cà phê ở những nước khác lại giảm 0,3%
2.2.
Năng suất
Trái với việc gia tăng về diện tích, năng suất trồng cà phê trên thế
giới lại có xu hướng giảm xuống, giảm 0,2%/năm. Tất nhiên năng suất trồng
cà phê trong thời gian qua không giảm ở tất cả các nước – chẳng hạn ở các
nước Châu Á- Thái Bình Dương năng suất cà phê không những không

giảm mà lại còn tăng lên trung bình 0,4%/năm.
2.3.
Sản lượng
Sản xuất cà phê thế giới đã tăng lên. Qua bảng tổng kết sản lượng cà
phê thế giới trong thời gian là 42 năm của các nhà phân tích kinh tế của Bộ
Nông nghiệp Mỹ, ta thấy rằng sản lượng cà phê vụ 2008/2009 là
123
triệu
bao, tăng 51 triệu bao tương đương với 79% so với năm 1960/1961. Trung
bình mỗi năm tăng 1,2 triệu bao hay nói cách khác là 1,83%/năm. Tuy nhiên
sản lượng tăng không đều ở các năm.
Sản xuất cà phê tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển: Chiếm
4
hơn 90% sản lượng của cà phê thế giới, các nước phát triển sản xuất với khối
lượng rất nhỏ và chủ yếu nhập khẩu để tiêu dùng. Châu Mỹ la tinh là khu
vực trồng cà phê lớn nhất thế giới, trong đó Braxin có sản lượng đứng đầu
thế giới. Trước chiến tranh thế giới lần thứ II, sản xuất cà phê của Braxin
chiếm 80% sản lượng của cả thế giới, những năm sau này do nhiều nước
Châu Á, Châu Phi đẩy mạnh sản xuất nên hiện nay sản lượng
cà phê của
Braxin chỉ chiếm khoảng 30% sản lượng thế giới.
Tóm lại, về sản xuất cà phê thế giới nhìn chung trong thời gian gần
đây có xu hướng tăng lên về sản lượng và diện tích, đặc biệt ở khu vực
Châu Á và Châu Phi. Nhiều nước trên thế giới đã đi vào sản xuất cà phê hòa
tan để xuất khẩu. Cà phê chè vẫn chiếm ưu thế trong tổng sản lượng cà phê
thế giới (chừng 70%).
2.4. Tình hình tiêu thụ cà phê
Cà phê là mặt hàng được giao dịch nhiều nhất thế giới trong năm qua.
Khủng hoảng kinh tế gần như không tác động tới nhu cầu tiêu thụ cà phê của
các hộ gia đình. Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế lại ảnh hưởng xấu tới sản

lượng loại cây này, do người nông dân giảm chi phí sản xuất, làm giảm sản
lượng, nhất là ở những nước sản xuất Arabica chính.
Hiện tại, tiêu thụ cà phê thế giới tăng trưởng 2% mỗi năm, từ từ 104,6
triệu bao năm 2000 lên 130 triệu bao trong năm 2008, tiếp tục tăng lên 132
triệu bao năm 2009 và dự kiến sẽ đạt 134 triệu bao trong năm 2010. Nhu cầu
về các loại cà phê cũng thay đổi nhanh chóng. Loại Arabica và cà phê tự
nhiên của Braxin (Brazilian Naturals) đã tăng từ 54% năm 1990 lên 63% vào
năm 2008, trong khi nhu cầu cà phê arabica dịu sạch (Washed Arabicas) lại
giảm từ 46% xuống còn 37%. Với loại robusta, nhu cầu lại tăng đối với cà
phê xuất xứ từ Việt Nam, từ 2% năm 1990 lên 16% vào năm 2008, trong khi
cà phê xuất xứ từ châu Phi lại giảm từ 21% xuống còn 12% trong thời gian
này.
5
Bảng 1: Tiêu thụ cà phê ở các nước trên thế giới
Đơn vị: nghìn
bao
2004 2005 2006 2007 2008*
W O

RLD TO
TAL 119

262 119

936 123

554 127

977 130


004
Producing

Countries 30

307 31

846 33

500 35

367 36

703
Brazil 14

760 15

390 16

133 16

927 17

526
Indonesia 1

958 2

375 2


750 3

208 3

333
Mexico 1

500 1

556 1

794 2

050 2

200
Et

hiopia 1

833 1

833 1

833 1

833 1

833

Venezuela 1

355 1

412 1

472 1

534 1

599
India 1

188 1

272 1

357 1

438 1

518
Colombia 1

400 1

400 1

400 1


400 1

400
P hilippines 917 917 917 989 1

070
Viet

nam 629 722 829 938 1

021
Ot

hers 4

768 4

969 5

015 5

052 5

202
Importing

Countries 88

955 88


090 90

054 92

610 93

302
European

Union 41

193 39

277 40

951 40

543 39

850
Germany 10

445 8

665 9

151 8

627 9


535
It

aly 5

469 5

552 5

593 5

821 5

937
France 4

929 4

787 5

278 5

628 5

156
Spain 2

705 3

007 3


017 3

198 3

485
Unit

ed
Kingdom 2

458 2

680 3

059 2

824 3

067
Net

herlands 1

978 1

927 2

129 2


292 1

324
Sweden 1

234 1

170 1

315 1

244 1

272
P oland 2

281 2

267 1

953 1

531 1

190
Finland 1

034 1

102 1


047 1

057 1

115
Greece 871 870 857 1

015 978
Ot

hers 7

788 7

249 7

554 7

307 6

790
USA 20

973 20

998 20

667 21


033 21

652
Japan 7

117 7

128 7

268 7

282 7

065
Other

Importing

Countries 19

672 20

688 21

168 23

752 24

735
Russian


Federat

ion 3

086 3

212 3

263 4

055 3

716
Canada 2

747 2

794 3

098 3

245 3

214
Algeria 2

159 1

892 1


836 1

968 2

118
Ukraine 739 1

025 968 1

057 1

733
6
Korea,

Republic

of 1

401 1

394 1

437 1

425 1

665
Aust


ralia 864 1

039 992 1

031 1

145
Ot

hers 8

676 9

331 9

574 10

971 11

146
Nguồn: ICO, coffee market report
(12/2009)
2.4.1. Tiêu thụ cà phê ở các nước nhập khẩu
Trong các nước nhập khẩu thành viên ICO thì Mỹ là nước tiêu thụ cà
phê lớn nhất. Các nước EU cà phê là đồ uống thông dụng, chiếm khoảng
20% thị trường đồ uống, tiêu thụ cà phê hàng năm từ 36 - 40 triệu bao,
chiếm 30 - 35% thị trường thế giới. Nhật Bản là nước tiêu thụ cà phê lớn
nhất Châu Á, với mức tiêu thụ 7 triệu bao/năm. Các nước đang phát triển
lượng tiêu thụ tăng lên đáng kể là do điều kiện kinh tế được cải thiện.

2.4.2. Tiêu thụ cà phê ở các nước sản xuất.
Các nước sản xuất cà phê không chỉ để xuất khẩu mà xu hướng tiêu
dùng nội địa ngày càng tăng. Năm 1996 tiêu thụ khoảng 20,5 triệu bao, đến
năm 2008 mức tiêu thụ đã là 36 triệu bao. Hai nước Brazil và Indonexia và có
mức tiêu thụ nội địa cao, thường chiếm trên 30% sản lượng hàng năm. Năm
2008 Brazil có l
ượng tiêu thụ tới 17,5 triệu bao, Clombia 1,4 triệu bao,
Indonexia 3,3 triệu bao. Khối
lượng tiêu dùng ở các nước Châu Á cũng tăng
lên.
Người dân ở các nước Trung và Đông Âu rất thích uống cà phê, hàng
năm các nước này tiêu thụ khoảng 5-6 triệu bao. Các nước nhập khẩu cà phê
không phải là thành viên ICO hàng năm nhập khẩu khoảng 5 triệu bao như
Angirni, Triều Tiên, Achentina,...
Về chủng loại, thì cà phê Arabica vẫn được ưa chuộng hơn và ngày
càng có nhu cầu tiêu thụ nhiều hơn
bở
i
chấ
t lượng cũng như hương vị thơm
ngon của nó. Do vậy giá cà phê Arabica thường cao gấp 2-2.5 lần giá cà phê
Robusta.
3. MẬU DỊCH CÀ PHÊ THẾ GIỚI
3.1.
Tình hình xuất khẩu cà phê thế giới
7
3.1.1. Khái quát chung về xuất khẩu cà phê thế giới
Theo số liệu công bố ngày 10/2/09 của Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO),
xuất khẩu cà phê toàn cầu năm 2008 đạt 96,62 triệu bao, trong đó 63,4 triệu
bao loại arabica và 33,2 triệu bao loại robusta.

ICO cho biết, ngoại trừ Braxin, các nước xuất khẩu cà phê lớn khác như
Việt Nam, Colombia, Ấn Độ và Mexico đều sụt giảm trong năm qua.Xuất
khẩu cà phê của Braxin tăng 4% đạt 29,24 triệu bao, của Ấn Độ giảm 4,3%
xuống còn 3.118.939 bao, của Việt Nam đạt 16 triệu bao, giảm 10%.
Cũng theo ICO, giá cà phê năm những tháng đầu năm qua đã hồi phục
khỏi mức thấp nhất kể từ giai đoạn khủng hoảng trên thị trường cà phê những
năm 2000-04. Tuy nhiên kể từ tháng 9/08, giá lại giảm xuống mức thấp nhất
kể từ giữa năm 2007 do xu hướng giảm giá chung trên thị trường hàng hoá.
Theo số liệu mới đây của Tổ chức cà phê Thế giới, xuất khẩu cà phê thế
giới trong tháng 4/2009 ước tính đạt 8,31 triệu bao, giảm 5,9 % so với cùng
kỳ năm trước với 8,8 triệu bao. Tính chung 7 tháng đầu niên vụ 2008/09 (tính
từ tháng 10/2008 đến tháng 4/2009), xuất khẩu cà phê thế giới đạt 57,21 triệu
bao, tăng 3,1 % so với mức 55,47 % triệu bao cùng kỳ niên vụ trước.
* Các loại cà phê xuất khẩu:
Trước năm 1962, cà phê thường được phân loại khi xuất khẩu theo
chủng loại: là cà phê chè (Arabica) và cà
phê
vối (Robusta). Nhưng sau
này, Tổ chức Cà phê thế
giới (ICO) lại phân loại cà phê Arabica ra làm 3
loại: loại cà phê dịu Colombia
(Colombian Milds), loại cà phê dịu khác
(Other Milds) và cà phê chè không rửa (unwashed Arabica). Sau này loại
cà phê chè không rửa lại được gọi tên là cà phê Brazil (Brazilian Naturals)
và các loại cà phê chè khác.
Một cách phân loại khác theo chất lượng cà phê là:
+ “Cà phê hảo hạng” (gourmet coffee) đó là loại cà phê có chất lượng
cao được xuất khẩu từ nước xuất xứ, thường là từ một trang trại hoặc một
8
khu vực nào đó và giá thường cao.

+ Ngày nay do yêu cầu bảo vệ môi trường và sức khỏe, người sản xuất
và xuất khẩu lại đưa ra một tên gọi mới cho cà phê là “cà phê sạch”
(organic coffee) đó là loại cà phê được trồng mà không cần dùng đến phân
bón


thuốc trừ sâu.
+ Cà phê đã tách cafein (decaffemated coffee)
Tuy nhiên nhiều người còn nghi ngờ về phẩm chất thực của các loại
cà phê được phân loại theo kiểu trên.
Theo ICO thì hơn 90% khối lượng cà phê xuất khẩu của thế giới là
loại cà phê hạt còn sống. Trên thị trường cũng xuất hiện kinh doanh cà
phê dạng đã rang chín (Roasted coffee) và dạng đã qua chế biến kỹ có thể
hòa
ta
n
được ngay (instant coffee).
3.1.2. Một số nước xuất khẩu cà phê chủ yếu
* Braxin
Là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới, trung bình hàng năm nước này
bán ra thị trường thế giới 16 triệu bao (60 kg/bao), chiếm hơn 20% xuất
khẩu thế giới trong đó 75% là cà phê chè, 25% là cà phê vối.
* Côlômbia
Là nước đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu cà phê, trung bình
hàng năm nước này xuất khẩu 12 triệu bao. Điều đáng chú ý là nước này
dùng khoa học kỹ thuật để tăng năng suất cà phê đều tăng sản lượng mà
không phải dùng biện pháp tăng diện tích trồng trọt. Một điều thú vị là xuất
khẩu cà phê hạt của Colombia lại thường được đóng trong bao nặng 70 kg,
trong khi đó nhiều nước đóng 60 kg/bao. Sản lượng của Colombia niên vụ
này sẽ đạt koảng 9 – 10 triệu bao, tăng so với 8,5 triệu bao niên vụ trước, song

vẫn là con số rất thấp.
* Côxtarica
Đây là một nước nổi tiếng về sản xuất cà phê chè ướt có chất lượng
9
cao. Xuất khẩu trung bình là 2,3 tri
ệu

bao/năm.

* Cốt-đi-voa (Bờ biển Ngà)
Là một trong những nước sản xuất và xuất khẩu cà phê vối lớn nhất
thế giới. Đầu những năm 80, sản xuất của Cốt-đi-voa đứng thứ 3 thế giới, sau
Braxin và Côlômbia. Nhưng đến đầu năm 1990. do chính phủ không quan
tâm đến sản xuất cà phê nên nhiều người trồng cà phê lại chuyển sang
trồng ca cao, một loại hàng nông sản xuất
khẩu

số
một của Cốt-đi-voa. Sau
đó chính phủ Cốt-đi-voa đã nhìn nhận lại vấn đề và tăng giá thu mua cà
phê, tăng cường đầu tư cho ngành này. Ngoài
ra
với sự tự do hóa mậu dịch
và giá cả cà phê thế giới tăng lên làm cho người trồng cà phê lại trồng cà
phê và sản xuất bắt đầu tăng.
* Inđônêxia
Inđônêxia chiếm 7% sản xuất cà phê thế giới và đứng vào hàng thứ 3
sau Braxin và Côlômbia,
sản


xuấ
t cà phê vối lớn nhất, vượt Cốt-đi-voa. Xuất
khẩu trung bình là 5,5 triệu bao (cả hai loại cà phê vối và cà
phê

chè,
nhưng
chủ yếu là cà phê
vối). Inđônêxia xuất khẩu nhiều cà phê vối được chế biến
bằng phương pháp khô
sang Châu Âu, Nhật và Mỹ.
* Ấn Độ
Là một nước trồng cả 2 loại cà phê (cà phê chè và cà phê vối). Sản xuất
trung bình là 2,5 triệu bao, trong đó chừng 50% là cà phê chè. Ấn Độ đứng
sau Indonexia về xuất khẩu cà phê chè ở Châu Á.
* Goatêmala
Sản xuất của Guatemala gần đây đạt 8,84 triệu bao (vụ cà phê 2009/10
bắt đầu từ tháng 10), giảm 15,1% so với cùng kỳ vụ trước, chủ yếu là cà phê
chè. Trong những thập kỷ qua, do sự căng thẳng về chính trị và xã hội cũng
đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành cà phê.
* Ethiôpia
Là nước xuất khẩu cà phê thế giới lâu đời nhất, đây cũng là nước đầu
10
tiên trồng cà phê chè. Cà phê chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế
của đất nước, chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu. Hàng năm sản xuất chủ yếu
là cà phê chè và
50%

dùng
cho xuất khẩu. Đây là một nước tiêu thụ cà phê

lớn nhất ở Châu Phi.
* Uganđa
Là một trong những nước sản xuất cà phê Robusta chính của thế giới,
Uganda chỉ sản xuất 10% cà phê Arabica.
Loại cà phê này ngắn và chịu được sâu bệnh. Mấy năm qua tình hình
sâu bệnh cà phê ở Uganda khá cao. Chính phủ đã hỗ trợ 200.000 USD để
chống bệnh héo lá và 250.000 USD để cung cấp giống mới cho người
trồng cà phê vì theo ước tính của Chính phủ nếu không kiểm soát được
sâu bệnh cà phê thì 5 năm tới sâu bệnh sẽ làm ảnh hưởng lớn đến sản lượng
cà phê và tổn thất sẽ chừng 2%/vụ, tương đương 3,5 triệu USD.
* Kênya
Là một trong những nước sản xuất cà phê Arabica loại dịu lớn nhất
thế giới. xuất khẩu chủ yếu sang Đức, Anh, Hà Lan, Mỹ, Bỉ và Nhật.
3.2.
Tình hình nhập khẩu cà phê thế giới
3.2.1. Khái quát chung về nhập khẩu cà phê thế giới
Nếu như sản xuất cà phê tập trung chủ yếu ở các nước đang phát
triển Nam Mỹ, Châu Á, Châu Phi thì nhập khẩu lại tập trung chính ở các
nước có nền kinh tế phát triển (chiếm 90% nhập khẩu thế giới)
Mỹ là nước tiêu thụ cà phê lớn nhất thế giới. Sau đó đến Đức, Nhật
Bản, Italia. Do dân số tăng nhanh và một phần do thu nhập đời sống khá hơn,
tốc độ tiêu thụ và nhập khẩu cà phê ở các nước đang phát triển cũng tăng lên
từ 3,5%/năm trong những năm
90 lên 4,1% trong những năm gần đây.
Việc phát triển công nghiệp chế biến cà phê trong đó có cà phê hòa
tan ở
nhiều
nước làm nhu cầu cà phê thế giới tăng đáng kể vì loại cà phê
này rất tiện lợi cho người tiêu dùng.
11

3.2.2. Những nước nhập khẩu cà phê chủ yếu
* Mỹ
Mỹ là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới. Tiêu dùng cà phê năm
2007 là 21 triệu bao, năm 2008 tăng lên mức 21,7 triệu bao. Mỹ cũng như
những nước nhập khẩu khác đều có tái xuất. Ví dụ năm 2007, Mỹ nhập
tổng số là 21,7 tri
ệu

bao
và tái xuất 2,6 triệu bao (chiếm 12%). Đặc biệt,
Mỹ xuất khẩu cà phê rang và cà phê hòa tan rất lớn. Năm 2006, Mỹ nhập
21,449 triệu bao cà phê hạt và Mỹ lại xuất khẩu 2,485 triệu bao trong đó cà
phê rang và cà phê hòa tan chiếm 50%.
* Vương quốc Anh
Đây là nơi cà phê hòa tan được tiêu dùng lớn nhất, theo báo cáo của
Data Monitor, nhóm nghiên cứu thị trường, cà phê đã và đang thay thế chè,
trung bình mỗi năm mỗi người dân Anh sử dụng 15 bảng cho cà phê. Cũng
theo báo cáo này, tốc độ tăng của
cà phê là 11%/năm kể từ năm 1997, và hiện
nay cà phê chiếm phần lớn nhất trong các
loại đồ uống ở Anh. Hàng năm
Anh quốc nhập khẩu chừng hơn 3 triệu bao.
* Châu Âu
Ở Pháp, Áo và Hy Lạp, nhiều người chuyển sang dùng cà phê chè.
Nhiều người chuyển sang uống cà phê chè vì lượng cà phê vối đã chế biến
xuất sang Trung và Đông Âu giảm đi. Ngược lại ở Đức, nhiều người lại
chuyển
sang
dùng loại cà phê vối thay vì dùng loại cà phê chè có vị dịu.
Mức tiêu thụ cà phê chè gần đây đã giảm ở một

số

nướ
c Châu Âu chủ yếu
do giá bán lẻ cà phê tăng nhanh, những nước đó là: Bỉ, Luxembourg, Đan
Mạch, Pháp,
Đứ
c
,

H
à Lan.
* Trung và Đông Âu
Đây là thị trường có tiềm năng tiêu thụ cà phê lớn, mặc dầu gần đây
sức mua có giảm đi. Vì khu vực này nhập khẩu nhiều cà phê từ Tây Âu, nên
khó có thể xác định được số lượng cà phê chè và vối trên thị trường này.
12
Vì lượng cung cấp cà phê còn ít và giá cả cao so với thu nhập, nên cà
phê thường được coi như một loại hàng hóa có giá trị ở Đông
Âu.
Người
ta thường tặng nhau những gói cà phê nhỏ để thể hiện lòng biết ơn đã giúp
đỡ, sự mến khách chứ
không
tặng hoa hay kẹo sôcôla như những nơi khác
thường làm.
* Những khu vực khác
Mặc dầu những thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới nằm ở
Bắc Mỹ và Châu Âu, nhưng vẫn còn những khu vực khác, ví dụ như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Algeria. Nhìn chung việc nhập khẩu cà phê của Nhật Bản có

biến động trong phạm vi chừng 6 triệu bao từ 1994-1998 và 7 triệu bao từ
năm 1999-2006. Hàn Quốc nhập khẩu trong những năm qua trung bình 1
triệu bao. Có nhiều tiềm năng tiêu thụ cà phê ở những nước này, đặc biệt là
ở Nhật Bản và những nước Châu Á khác.. Cà phê tan cũng nhanh chóng
giành được vị trí trên thị trường Nhật Bản. Một điều thú vị là thói quen tiêu
dùng cà phê của Nhật Bản cũng lan sang cả những nước Châu Á khác như
Hongkong và Singapore. Kết quả là Châu Á sẽ trở thành không những là
người khách hàng lớn về cà phê thông thường và cà phê tan mà còn là
khách hàng của các loại cà phê hảo hạng.
Cuối cùng là thị trường Trung Quốc đầy tiềm năng đang mở ra do
tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, dân số đông và lượng khách du lịch lớn.
Sản xuất cà phê trong nước cũng đang có nhiều hứa hẹn.
3.3.
Dự trữ cà phê thế giới
Theo Tổ chức cà phê thế giới (ICO), khối lượng cà phê dự trữ của toàn
cầu có thể giảm xuống mức thấp kỷ lục 35 triệu bao 60 kg sau khi sản lượng
giảm thấp trong vụ mùa 2005/06. Tồn kho cà phê thế giới đã giảm mạnh từ
gần 43-45 triệu bao trong 12 tháng qua do các nước sản xuất và các nước tiêu
dùng phải dùng tới lượng dự trữ để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu thụ.
Trong 18 tháng qua, giá cà phê biến động liên tục và cà phê robusta gần
13
đây đã đạt mức cao nhất trong 7,5 năm qua sau khi vụ thu hoạch 2005/06 của
Việt Nam thiệt hại nặng vì hạn hán khiến cho thị trường trở nên khan hiếm
cung.
Tầm quan trọng của việc sử dụng thu nhập tăng thêm đầu tư cho vụ
mùa thay vì mở rộng diện tích trồng mới, tránh tạo nên một chu kỳ tăng giảm
như đã từng diễn ra hồi cuối năm 1999, khiến giá cà phê thế giới giảm xuống
mức thấp kỷ lục.
3.4.
Giá cả

Từ những năm 1980 trở lại đây, do tác động của nhiều yếu tố mà chủ
yếu là quan hệ cung cầu trên thị trường, giá cà phê biến động thất thường: cứ
4 đến 5 năm giá liên tục tăng lên thì sau đó lại có từ 4 đến 5 năm giá liên
tục giảm xuống. Giá của các loại cà phê khác nhau thì khác nhau. Do
những đặc điểm về sản xuất và tính hơn hẳn về mặt chất lượng, giá cà phê chè
thường cao hơn giá cà phê vối.
3.5.
Tập quán kinh doanh cà phê thế giới
Cà phê cũng được mua bán theo tập quán kinh doanh loại cây công
nghiệp dài ngày như bông và cao su.
Ngườ
i ta thường mua bán thực hoặc mua
bán kỳ hạn cà phê trên các cơ sở giao dịch hàng hóa của thế giới như
London và New York. Hiện nay nhiều nước đã ký kết theo mẫu hợp đồng
Châu Âu 1997.
3.6.
Xúc tiến mậu dịch cà phê
Hiện nay tổng số tiền dùng cho quảng cáo của các loại đồ uống khác đã
vượt rất xa số tiền dùng cho quảng cáo cà phê. Để tăng lượng tiêu dùng cà
phê chủ yếu ở những nước nhập khẩu và để cạnh tranh với các loại đồ uống
khác, gần đây ICO đã quyết định dành 2 triệu USD cho chiến dịch xúc
tiến bán cà phê ở Trung Quốc và Nga. Côlômbia cũng tiến hành một chiến
dịch quảng cáo và xúc tiến mậu dịch cà phê trên toàn thế giới cho đất nước
này.
14
Cũng theo ICO, các nhà chế biến cà phê trên thế giới đã đầu tư hàng
chục triệu đô la Mỹ để xúc tiến bán hàng của họ. Người ta cho rằng tiền chi
cho quảng cáo và xúc tiến mậu dịch chiếm từ 3-6% tổng số tiền bán hàng.
Xúc tiến mậu dịch có thể ở dưới dạng bán hàng, quảng cáo, phát tờ
rơi, triển lãm hội chợ và thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.

3.7.
Tổ chức cà phê thế giới (ICO) và hiệp định cà phê thế giới (ICA)
3.7.1. Tổ chức cà phê thế giới ( International Coffee Organization – ICO)
Do sự biến động thất thường của giá cả thị trường đã ảnh hưởng lớn
đến những nước sản xuất và tiêu thụ cà phê nên những nước này đứng đầu
là Braxin đã họp lại lần đầu tiên năm 1962 dưới sự bảo trợ của Liên Hợp
Quốc tại New York để thành lập ICO và đã ký được hiệp định thứ nhất cà phê
thế giới.
Hiện nay ICO đã có 77 nước thành viên trong đó có 45 nước xuất khẩu
và 32 nước nhập khẩu. Mục đích chủ yếu của ICO là nhằm tạo nên một thị
trường cà phê ổn định về mặt giá cả bằng cách phân phối cota giữa các nước
thành

viên.
3.7.2. Hiệp định cà phê thế giới ( International Coffee Agreement –ICA)
Hiện nay hiệp định ICA mới nhất được kí kết bởi 77 thành viên Chính
phủ của Hội đồng Cà phê quốc tế (International Coffee Council) tại Luân
Đôn vào tháng 9 năm 2000 sau khi hiệp định ICA 1994 hết hạn hiệu lực vào
ngày 30/9/1999. Hiệp định kéo dài 6 năm này sẽ đẩy mạnh hơn nữa quan hệ
hợp tác giữa các nước sản xuất và nước tiêu dùng cà phê trên thế giới và đã
có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2001 (vì vậy hiệp định này được gọi tắt là ICA
2001).
4. TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG CÀ PHÊ THẾ GIỚI
4.1.
Những yếu tố tác động đến thị trường cà phê thế giới
4.1.1. Những yếu tố chính tác động đến CUNG
a. Thời tiết khí hậu
15
Cà phê là cây công nghiệp nhiệt đới có những yêu cầu sinh thái rất
khắt khe. Khi thời tiết thuận hòa, sản xuất đạt kết quả tốt dẫn đến cung tăng

lên. Nhưng nếu thời tiết xấu như sương muối ở Braxin năm 1975 phá hoại
60% diện tích cà phê ở đây.
Theo nghiên cứu của ICO về ảnh hưởng của khí hậu đối với thị trường
và sản xuất cà phê đã làm cho nhiều người phải ngạc nhiên vì theo bảng báo
cáo này thì sản xuất và thị trường cà phê rất nhạy cảm khi có sương muối và
hạn hán nhưng khi có hiện tượng ElNino thì không có ảnh hưởng rõ rệt.
b. Giá cả
Vì cà phê cũng giống như những cây nông sản dài ngày khác cần có
sự đầu tư lớn về sản xuất và phải mất 3-5 năm cây cà phê mới cho năng
suất cao nên người trồng cà phê không thể từ bỏ sản xuất cà phê ngay khi giá
cà phê xuống quá thấp và ngược lại khi giá cả tăng vọt, người ta cũng không
thể có ngay cà phê để bán. Những năm qua
sản
xuất cà phê nhìn chung
không giảm khi giá thay đổi. Nhưng về lâu dài giá cả cà phê cũng vẫn ảnh
hưởng đến cung.
c. Công nghệ và khoa học kỹ thuật
Công tác khuyến nông, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới: ví dụ
như Uganda vừa đưa một loại cà phê giống mới (tên là Clonal coffee) đưa
năng suất cà phê từ 600 kg/ha lên 1300 kg/ha cà phê giống mới làm cho
năng suất cà phê tăng dẫn tới tăng cung.
d. Các chi phí đầu vào
Giảm giá các khoản đầu vào (như tiền công, chi phí cho phân bón,
giống, tiền máy móc thấp hơn v.v...) sẽ làm cho các nhà sản xuất đầu tư vào
sản xuất nhiều hơn và sẽ tăng cung.
e. Sự điều tiết của chính phủ
Một yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến cung cà phê là sự can thiệp của
chính phủ như những quy định nghiêm ngặt của chính phủ về bảo vệ môi
16
trường v.v...ví dụ như Chính phủ Bờ Biển Ngà vừa quyết định sẽ phá hủy tất

cả cây cà phê và ca cao trồng trái phép trong khu vực rừng quốc gia. Hay để
hỗ trợ giá, Chính phủ Colombia đã cho xây
nhiều

kho
lớn để cất giữ cà phê
dư thừa, vượt quá sức tiêu thụ trong nước và thế giới.
f. Do yêu cầu của hiệp hội
Ngày nay, để tồn tại người ta thường liên doanh, liên kết lại với nhau
mang tính chất toàn cầu hay khu vực. Cà phê cũng không thể ở ngoài quy
luật đó. Ví dụ tháng
5/1997 ACPC ( tổ chức của những nước trồng cà phê
thế giới) đã thỏa thuận sẽ tiếp
tục giảm hạn ngạch xuất khẩu cà phê xuống
còn 52,75 triệu bao trong vòng 12 tháng( bắt đầu từ 1/7/1999) so với 53
triệu bao hạn ngạch cũ. Tuy nhiên đôi khi việc này cũng không có nhiều tác
dụng lắm.
4.1.2. Những yếu tố chính tác động đến CẦU
Tại sao người ta lại uống cà phê và họ uống bao nhiêu cà phê? Theo
các tác giả của cuốn “Hướng dẫn cho các nhà xuất khẩu cà phê năm 1992” thì
câu trả lời cho câu hỏi đó khá phức tạp do đó chúng ta chỉ xét đến những yếu
tố chính tác động đến cầu như sau:
a. Giá cả
Đối với một người tiêu dùng bình thường, giá bán lẻ cà phê có ảnh
hưởng lớn đến tiêu dùng cà phê hay không? Bản báo cáo của Ngân hàng thế
giới đã trình bày độ co giãn của cầu đối với giá cà phê của 45 nước nhập
khẩu (Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ái Nhĩ Lan, Ý, Hà Lan, Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Anh, Mỹ, Australia, Canada, Phần Lan, Nhật Bản, Na
Uy, Thụy Điển, Thụy Sỹ và New Zealand).
Kết quả của khảo sát cho thấy cầu rất ít co giãn ở 45 nước nói trên khi

thay đổi 1% giá. Do vậy, giá có ảnh hưởng đến cầu của những nước này
nhưng không ảnh hưởng đến mức như người ta thường nói. Tuy nhiên giá
trị co giãn khảo sát trên chỉ liên quan đến thay đổi nhỏ của giá 1%.
17
Trước đây cả nhà chế biến và tiêu dùng cuối cùng rất quan tâm đến
chất lượng cà phê nhưng ngày nay họ lại quan tâm nhiều đến giá cả.
Tuy
nhiên mức
độ phản ứng đối với giá cả ở các nước tiêu thụ khác nhau. Ở các
nước Scandinavia thể hiện sự thay đổi ít nhất. Một loại co giãn theo giá khác
là co giãn chéo, loại này đề cập đến sự thay đổi của nhu cầu về cà phê khi giá
cả của các loại đồ uống khác thay đổi.
b. Thu nhập
Cũng theo sự khảo sát trên của Ngân hàng thế giới, các tác giả cũng đã
khảo sát độ co giãn của cầu khi thu nhập thay đổi (cụ thể là độ co giãn của
cầu đối với 1% thay đổi của thu nhập).
Kết quả là cầu nhạy cảm với thay đổi của thu nhập hơn đối với giá
trong nhiều trường hợp. Một vài
nướ
c
như
Ái Nhĩ Lan có độ co giãn theo
thu nhập cao vì mức độ uống cà phê thấp. Nhưng thu nhập đến một mức nào
đó, nhu cầu đối với cà phê sẽ ổn định. Ví dụ như các nước ở Bắc Âu, tăng thu
nhập ít ảnh hưởng đến cầu.
c. Sở thích của người tiêu dùng
Cà phê vốn thường được uống trong các bữa ăn của gia đình. Tuy
nhiên với nhịp độ công nghiệp hóa ngày nay đòi hỏi cà phê phải được điều
chỉnh để thích ứng với lối sống mới nếu không cà phê sẽ phải nhường thị
phần của mì

nh
cho các loại đồ uống khác. Ở một số nước đồ uống “lạnh”
(ví dụ như Cocacola) đang ngày càng phổ biến. Vì cà phê thường phải uống
nóng nên cà phê khó cạnh tranh với đồ uống lạnh nêu trên. Uống cà phê đá
đang ngày càng được nhiều người ưa chuộng ở một số nước, đặc biệt ở Nhật
Bản.
Loạ
i
thứ
c ăn người ta dùng cũng ảnh hưởng đến số lượng cà phê người
ta uống. Có thể do thói quen và khẩu vị, cà phê thường được uống cùng với
một số loại thức ăn này hơn là loại thức ăn khác. Điều đó lý giải tại sao
người ta ít
uống
cà phê ở những cửa hàng ăn bán các món ăn phương
Đông
hơn là ở những nơi bán các món ăn của Mỹ và Châu Âu.
18
Đã từ lâu người ta cho rằng cà phê “tốt hơn” sẽ tạo ra cầu cà phê
nhiều hơn. Điều này đã được xác nhận qua kiểm nghiệm ở Mỹ. Với những cải
tiến về pha trộn gần đây, lượng cầu hình như đã tăng lên đáng kể đối với các
loại cà phê này.
Với một số phát hiện gần đây về mối liên quan giữa cà phê và sức khỏe
đã làm ảnh hưởng đến việc xúc tiến mậu dịch cà phê. Mặc dầu, người ta còn
nghi ngờ về độ chính xác của kết quả nghiên cứu đó vì lượng dùng cà phê
hay cafein ở đây quá cao nhưng những công bố đó cũng gây nên lo lắng và
tác động xấu đến cầu cà phê.
d. Thuế
Trong “Hiệp định cà phê quốc tế 2001” các nước thành viên của ICO
đã nêu rõ “các nước thành viên sẽ cố gắng xin giảm thuế đánh vào cà phê

hoặc tiến hành các hoạt động khác loại bỏ trở ngại đối với việc tăng tiêu thụ
cà phê”.
Hiện còn nhiều nước như Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Đan Mạch đánh
mức thuế 4% đối với cà phê nguyên liệu từ những nước không phải là thành
viên của những nước sản xuất cà phê thế giới (ACPC) hoặc từ những nước
không được hưởng quyền tối huệ quốc. Hầu hết các nước đánh thuế vào
những sản phẩm cà phê, ví dụ Nhật Bản là 20% đối với cà phê đã tách cafein,
Đức và Hà Lan là 18% đối với cà phê hòa tan.
1.3. Những yếu tố chính tác động đến GIÁ CẢ
Người ta thường nói cung cầu điều tiết giá cả, điều này vẫn đúng đối
với cà phê. Nhưng giá cả lại biến động
rấ
t
thấ
t thường khi tình hình sản
xuất và cầu thực sự của cà phê trên thế giới hầu như tương đối cân bằng
trong suốt 30 năm qua.
Theo
các nhà nghiên cứu cà phê ngoài những yếu tố
khách quan như khí hậu, thời tiết, còn có những yếu tố chủ quan như:
a. Sự chi phối của các nước xuất khẩu cà phê chính
Sự điều chỉnh cân bằng hạn ngạch của ACPC cũng tác động đến giá.
19
Khi giá cao, ACPC tăng mức hạn ngạch xuất khẩu lên và khi giá thấp
ACPC lại cắt giảm hạn ngạch đi để tạo nên sự cân bằng cung cầu, duy trì ổn
định giá. Tuy nhiên đôi khi việc này cũng không có tác dụng lớn.
b. Sự can thiệp của Chính phủ
Chính phủ một số nước còn can thiệp vào ngành cà phê bằng cách quy
định giá sàn (giá tối thiểu). Nhiều nước trong đó có Việt Nam đã từng thực
hiện “Quỹ bình ổn giá cho nông nghiệp”. Quỹ này được tạo nên nhờ việc

thu phí xuất khẩu. Khi giá cả xuống quá thấp, nhà nước dùng quỹ này để hỗ
trợ cho nhà sản xuất và nhà xuất khẩu.
4.2.
Dự báo về triển vọng thị trường cà phê thế giới
Dự báo giá cà phê thế giới sẽ tăng từ quý II/2009 do sản lượng cà phê
thế giới không bắt kịp nhu cầu, song trước mắt các nhà kinh doanh phải kiên
nhẫn vì Braxin bội thu trong vụ này sẽ hạn chế giá tăng trong tương lai gần.
Là nước sản xuất cà phê lớn nhất thế giới, sản lượng của Braxin có tính
chất quyết định tới sản lượng toàn cầu. Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) tính
toán rằng theo chu kỳ của cây, niên vụ 2009/10 sẽ cho Braxin năng suất rất
cao, do vậy sản lượng cà phê thế giới sẽ tăng khoảng 8,5% so với năm trước,
lên 128 triệu bao loại 60 kg, trong khi tiêu thụ cà phê thế giới năm 2008 dự
kiến sẽ chỉ khoảng 125 triệu bao, tức là dư 3 triệu bao.
Trong hai năm tới, lượng cung cà phê thế giới sẽ suy giảm đáng kể. Do
vậy, bất kỳ tác động nào về thời tiết cũng sẽ có ảnh hưởng rất lớn bởi thị
trường sẵn đang trong tình trạng “mất thăng bằng”.
Mặc dù giá cà phê kỳ hạn tăng mạnh từ đầu năm tới nay song thu nhập
của người trồng cà phê chẳng được cải thiện bao nhiêu do đồng Đôla Mỹ tăng
giá so với đồng nội tệ ở hầu hết các nước sản xuất cà phê, làm cho giá cà phê
tính theo nội tệ trở nên rẻ hơn. Việc thiếu lao động thu hoạch cà phê đang trở
thành vấn đề lớn ở cả Braxin và Việt nam. Sản lượng cà phê của Việt Nam -
20
nước sản xuất lớn thứ 2 thế giới - dự kiến sẽ chỉ quanh quẩn ở mức 18 – 20
triệu bao cũng bởi tình trạng thiếu lao động.
Tại sở giao dịch hàng hoá New York (Mỹ), giá cà phê arabica kỳ hạn
gần hiện là 1,358 USD/lb. So với một tuần trước đây, giá cà phê Arabica đã
giảm 3,1%, bởi Braxin đang vào mùa thu hoạch cao điểm. Song mức giá hiện
nay vẫn cao hơn 14,6% so với một năm trước đây. Tại London, giá cà phê
Robusta (cà phê vối) hiện là 2.325 USD/tấn, cũng giảm 4,3% so với một tuần
trước, song cao hơn 27% so với thời điểm này năm ngoái.

Trong khoảng 6 tháng tới, dư cung cà phê sẽ gây áp lực tới giá. Song
sau đó, thị trường này sẽ hồi phục dần và lấy lại đà tăng giá bắt đầu từ giữa
năm 2009. Nhiều nhà phân tích có chung dự cảm rằng giá cà phê Arabica tại
New York sẽ vượt qua mức 2,5 USD/lb vào mùa hè năm tới.
Tuy đứng sau Braxin về tổng sản lượng cà phê nhưng Việt Nam lại có
có lợi thế là nước sản xuất cà phê Robusta lớn nhất và giá thành sản xuất thấp
nhất thế giới. Trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế giới ngày càng
tăng cao, ngành cà phê nước ta đang đặt nhiều hy vọng sẽ tăng mạnh nguồn
thu ngoại tệ cho nước nhà và hướng tới chi phối thị trường cà phê thế giới
trong những năm tới.
21
Chương II
TÌNH HÌNH SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU
CÀ PHÊ VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
1. LỢI THẾ, KHÓ KHĂN CỦA VIỆT NAM TRONG SẢN XUẤT, XUẤT KHẨU CÀ
PHÊ
1.1. Tiềm năng sản xuất cà phê của Việt Nam.
1.1.1. Về khí hậu.
Nước ta năm trong vành đai nhiệt đới bắc bán cầu, trải dài theo
phương kinh tuyến từ 8
0
30’ đến 23
0
30’


độ bắc. Điều kiện địa lý và khí
hậu rất thích hợp với việc phát triển cây cà phê và đem lại cho cà phê Việt
Nam


mộ
t hương vị rất riêng.
Hai loại cà phê chủ yếu đang được trồng phổ biến ở nước ta là cây cà
phê vối và cà phê chè có những yêu cầu sinh thái khác nhau. Cây cà phê vối
ưa thời tiết nóng ẩm và lượng ánh sáng dồi dào nên thích hợp trồng ở các
t
ỉnh

phí
a Nam. Cà phê chè ưa thời tiết mát, có cường độ ánh sáng mặt trời
thấp và chịu được nhiệt độ thấp (thấp hơn cà phê vối 5-7
0
C) nên thích hợp
trồng ở các tỉnh phía Bắc.
1.1.2. Về thổ nhưỡng.
Cây cà phê phát triển tốt trên đất bazan và các loại đất biến chất khác.
Loại hình đất tốt đối với cây cà phê là: đất tơi xốp, có tầng dày trên 1 mét.
Nước ta có vùng đất bazan ở Tây Nguyên, Tây Quảng Trị, Tây Nghệ An và
nhiều loại đất khác ở trung du đều thích hợp với cây cà phê.
1.1.3. Về lao động.
Nước ta có nguồn lao động dồi dào, đặc biệt là ở nông thôn và các
tỉnh trung du. Giá nhân công rẻ khiến giá thành sản phẩm thấp, tăng sức cạnh
tranh cho mặt hàng cà phê Việt Nam.
22
1.1.4. Về kỹ thuật và công nghệ.
So với một số loại cây trồng khác, kỹ thuật trồng cũng như chăm sóc
cây cà phê và chế biến sản phẩm khá đơn giản, hoàn toàn có khả năng giải
quyết được. Các hộ gia đình trực tiếp trồng, chăm sóc, thu hoạch và sơ chế
sản


phẩm.
Các đơn vị dịch vụ kỹ thuật và xuất nhập khẩu đóng vai trò cung
ứng vật tư kỹ thuật cho người sản xuất và người thu mua, tái chế sản phẩm
thành mặt hàng xuất khẩu.
1.5. Về nguồn vốn.
Chính phủ đã có chủ trương, chính sách phát triển cây cà phê chè, chủ
yếu là khu vực kinh tế hộ gia đình với quy mô vừa và nhỏ. Nguồn vốn chủ
yếu là vốn tự có và vật tư, sức lao động của các hộ sản xuất, Nhà nước chỉ hỗ
trợ phần nào dưới dạng vốn cho vay tín dụng dài hạn, lãi suất ưu tiên cho
đồng bào miền núi và vùng kinh tế mới.
Hiện nay Nhà nước ta đã thực hiện chính sách mở cửa, các nước có
điều kiện đầu tư vào nước ta, vì vậy
ngành
cà phê có điều kiện mở rộng hợp
tác, tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài, vay vốn của các tổ chức, ngân hàng thế
giới.
1.2. Các giống cà phê chủ yếu ở Việt Nam hiện nay.
Các loại cà phê đều thuộc giống Coffea, gồm gần 70 loại khác nhau,
chỉ có khoảng 10 loại đáng chú ý về giá trị trồng trọt. Ở Việt Nam hiện nay
trồng 2 loại cà phê chính:
- Giống Arabica (cà phê chè)
- Giống Robusta (cà phê vối)
1.2.1. Cà phê Arabica (cà phê chè)
Đây là giống cà phê được trồng nhiều nhất trên thế giới (chiếm
khoảng 70% sản lượng cà phê thế giới) t
ập

trung
chủ yếu ở Nam Mỹ, châu
Phi nhưng lại chiếm một tỷ lệ rất nhỏ ở Việt Nam (chỉ khoảng 5% diện tích).

Cà phê Arabica ưa nơi mát và hơi lạnh. Nhiệt độ thích hợp từ 18-25
0
C,
23
thích hợp nhất từ 20 - 25
0
C. Do yêu cầu về nhiệt độ như vậy nên cà phê
Arabica thường được trồng ở miền núi có độ cao từ 600 - 2500m (nguyên
quán của cà phê chè ở cao nguyên Ethiopia, vùng nhiệt đới Đông Phi, nơi
có độ cao trên dưới 2000m).
Sở dĩ chúng ta gọi là cà phê chè vì loài này có lá gần giống lá chè.
Thân cà phê chè có vỏ sần sùi, có giống phân cành cao, để trống đoạn thân
tới khoảng 80cm như Typica, Bourbon; có giống phân cành thấp, cặp cành
thứ nhất cách mặt đất 12-15cm, khoảng cách giữa các cặp cành ở trên thân
cây là 3-7cm như Catimor, Caturra, Catuay... Đây là đặc điểm hình thái rất
quan trọng của các giống cà phê chè trong canh tác, mà trước hết là phòng
chống sâu hại như sâu đục thân. Bộ rễ cà phê chè khá phát triển. Gặp đất tơi
xốp và có độ sâu lớn thì rễ cọc mọc thẳng và sâu tới trên 1m. Số lượng quả
từ 800-1200 quả/kg. Thời gian quả mang trên cây từ lúc bắt đầu hình thành
quả non đến khi quả chín từ 7 -8 tháng. Trong điều kiện khí hậu miền Bắc
nước ta, cà phê Arabica chín rộ vào tháng 12 và tháng 1. Ở Tây Nguyên, cà
phê chín sớm hơn 2-3 tháng so với miền Bắc. Cà phê Arabica thơm, ngon,
dịu, hàm lượng cafein có trong nhân khoảng 1-3%.
1.2.2. Cà phê Robusta (cà phê vối).
Robusta là loại cà phê có diện tích trồng đứng hàng thứ hai sau cà phê
chè (xấp xỉ 30% sản lượng cà phê thế giới), được trồng tập trung ở châu Á,
châu Phi. Khoảng 20 năm gần đây, diện tích cà phê phát triển nhanh, chủ yếu
là cà phê vối ở khu vực châu Á và châu Phi do công nghiệp phát triển, đặc
biệt là cà phê vối chiếm khoảng 60% trong thành phần cà phê tan. Đây là
loại cà phê chủ yếu ở Việt Nam (chiếm tới 95% diện tích trồng).

Cà phê Robusta thích hợp ở nơi nóng ẩm. Nhiệt độ thích hợp 22 -
26
0
C, thích hợp nhất 24-26
0
C. Lượng mưa cần thiết đối với cây cà phê vối từ
1300 - 2500mm.
24
Trên thế giới, người tiêu dùng ưa chuộng cà phê Arabica hơn cà phê
Robusta. Ngoài ra trong sản xuất cà phê, thế giới hiện nay có giống
Arabusta do lai tạo
giữa giống Arabica và Robusta nhằm đạt được năng suất
cao, chống chịu khá của
giống Robusta và có phẩm chất tốt của cà phê
Arabica. Tuy nhiên chất lượng của nó không cao bằng cà
phê

Arabica.

1.3. Diện tích, năng suất, sản lượng
1.3.1.
Diện tích
Cây cà phê đã xuất hiện ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XVI, nhưng đến
cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20 cây cà phê mới thực sự được phát triển và diện
tích cà phê cũng bắt đầu tăng nhanh.
Năm 1975, khi vấn đề phát triển cây cà phê được đặt ra, cả nước ta
mới chỉ có không đầy 20 ngàn ha, chủ yếu được trồng ở hai tỉnh ĐăkLăk
và GiaLai. Đến năm 1980, toàn ngành cũng mới chỉ đạt 180 ngàn ha.
Đến năm 2008, diện tích cà phê trên cả nước đã đạt tới con số đáng
kinh ngạc là

525.100 ha, điều này vượt ngoài dự kiến của ngành. Cà phê
được trồng rộng khắp trên toàn quốc và chủ yếu tập trung ở một số tỉnh
như Tây Nguyên, ĐăkLăk, Lâm Đồng, Gia Lai, KonTum
Bảng 2: Diện tích cà phê qua các năm vừa qua
Năm Diện tích (ha)
Chỉ số phát triển (năm trước = 100) (%)
1990 119,300 96.9
1991 115,100 96.5
1992 103,700 90.
1993 101,300 97.
1994 123,900 122.3
1995 186,400 150.4
1996 254,200 136.4
1997 340,300 133.9
1998 370,600 108.9
1999 477,700 128.9
2000 561,900 117.6
2001 565,300 100.6
25
2002 522,200 92.4
2003 510,200 97.7
2004 496,800 97.4
2005 497,400 100.1
2006 497,000 99.9
2007 506,400 101.9
2008 525,100 103.7
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Có thế thấy trong những năm qua, diện tích cà phê tăng với tốc độ
nhanh chóng, tuy nhiên tăng không đều.
Nhìn chung, diện tích cà phê tăng qua các năm. Nguyên nhân chủ yếu

là do:
* Thứ nhất, điều kiện đất đai ở Việt Nam rất thuận lợi cho việc trồng và
phát triển cây cà phê. Việt Nam có khoảng 10,5 triệu ha đất nông nghiệp
(chiếm 1/3 diện tích cả nước). Trong đó, có những loại thổ nhưỡng có giá
trị kinh t
ế

cao
như đất đỏ bazan trải dài từ cao nguyên Trung bộ đến Đông
Nam Bộ.
* Cà phê là một trong những loại cây công nghiệp mang lại lợi nhuận
cao hơn so với cây lương thực. Hơn nữa, cây cà phê là một loại cây công
nghiệp dài ngày, việc đầu tư ban đầu chỉ cần một lần, sau đó là đầu tư bổ
sung. Cụ thể Viện nghiên cứu đã đưa ra hiệu quả và mức vốn đầu tư cho một
ha cây cà phê trồng ở Tây Nguyên, một vùng đất rất thích hợp với loại cây
này, thì thứ tự mức lợi nhuận như sau (so với một số loại cây công nghiệp
khác)
Bảng 3: Mức lợi nhuận đối với mỗi loại đất trồng
Đơn vị : 1000đ/ha/năm
Cây công nghiệp Cà phê Tiêu Cao su Chè Điều
Đất rất thích hợp (S1) 7508 4740 4200 3720 3094
Đất thích hợp (S2) 4035 2440 3050 3110 2800
Đất ít thích hợp (S3) 2057
_
2610 2200 2144

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×