Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế những khía cạnh cần được mô tả bằng số liệu thống kê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.29 KB, 21 trang )


1

TỔNG CỤC THỐNG KÊ
VỤ HỢP TÁC QUỐC TẾ - VIỆN KHOA HỌC THỐNG KÊ





Đề tài khoa học
Nghiên cứu lựa chọn và tính toán thử nghiệm một số chỉ số phản ánh mức độ
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam







CHUYÊN ĐỀ 2

BẢN CHẤT CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ:
NHỮNG KHÍA CẠNH CẦN ĐƯỢC MÔ TẢ BẰNG
SỐ LIỆU THỐNG KÊ


















HÀ NỘI, 5 - 2009




2

TỔNG CỤC THỐNG KÊ
VỤ HỢP TÁC QUỐC TẾ - VIỆN KHOA HỌC THỐNG KÊ


Đề tài khoa học
Nghiên cứu lựa chọn và tính toán thử nghiệm một số chỉ số phản ánh mức độ
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam




CHUYÊN ĐỀ 2


BẢN CHẤT CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ:
NHỮNG KHÍA CẠNH CẦN ĐƯỢC MÔ TẢ BẰNG
SỐ LIỆU THỐNG KÊ





Muốn xác định được các chỉ tiêu thống kê mô tả quá trình hội
nhập quốc tế của đất nước, cũng như xây dựng được các chỉ số tổng
hợp phản ánh mức độ hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc cần thiết là
phải hiểu và nắm chắc được bản chất của hội nhập quốc tế, đặc biệt
là hội nhập kinh tế quốc tế, những nội hàm và các khía cạnh, yếu tố
trong đó. Từ đó mới có thể tìm ra các chỉ tiê, chỉ số thống kê mô tả
các khía cạnh này.
Chuyên đề khoa học này điểm qua những nét cơ bản trong
nội hàm và bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế, để từ đó thấy sự
cần thiết, các bước đi, các giải pháp cần được tiến hành trên bước
đường hội nhập, và cần đến sự can thiệp của Thống kê trong việc
mô tả, đo lường, đánh giá, phân tích.








HÀ NỘI, 5 - 2008


3

MỤC LỤC

Mục
Trang


Đặt vấn đề
4


I. Phần một: Nội hàm chủ yếu và các khía cạnh trong hội nhập
kinh tế quốc tế ở nước ta
4


1.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
4


1.2. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
hội nhập kinh tế quốc tế
6


1.3. Các khía cạnh chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế
7



II. Phần hai: Vai trò của thống kê mô tả hội nhập kinh tế quốc
tế trước những thách thức hiện nay
14


2.1. Nhận thức về thách thức toàn cầu
14


2.2. Hành động quản trị toàn cầu
17


2.3. Quản trị toàn cầu nhìn từ góc độ Việt Nam
18


2.4. Những thách thức và biện pháp giải quyết riêng của Việt
Nam trước ngưỡng cửa hội nhập kinh tế quốc tế
19


Tài liệu tham khảo
21









4


ĐẶT VẤN ĐỀ

Muốn xác định được các chỉ tiêu thống kê mô tả quá trình hội nhập
quốc tế của đất nước, cũng như xây dựng được các chỉ số tổng hợp phản
ánh mức độ hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc cần thiết là phải hiểu và
nắm chắc được bản chất của hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập kinh tế
quốc tế, những nội hàm và các khía cạnh, yếu tố trong đó. Từ đó mới có
thể tìm ra các chỉ tiêu, chỉ số thống kê mô tả các khía cạnh này.

Chuyên đề khoa học này điểm qua những nét cơ bản trong nội hàm
và bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế, để từ đó thấy sự cần thiết, các
bước đi, các giải pháp cần được tiến hành trên bước đường hội nhập, và
cần đến sự can thiệp của Thống kê trong việc mô tả, đo lường, đánh giá,
phân tích chúng.

I- PHẦN MỘT:
NỘI HÀM CHỦ YẾU VÀ CÁC KHÍA CẠNH TRONG HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA

1.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế

Theo Từ điển tường giải kinh tế xã hội “Cẩm nang chính sách kinh
tế”, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, trang 251, Hà Nội 2005, do Rolf H.
Hass thuộc Viện Quốc tế Konrad-Adenauer biên soạn, Tiến sỹ khoa học

Lương Văn Kế biên dịch, thì:

(i) Hội nhập kinh tế được định nghĩa là sự mở cửa các nền kinh tế
quốc dâncho hợp tác xuyên biên giới với các nước khác, mà chủ yếu là
các nước láng giềng. sự thoả thuận của các Nhà nước thể hiệnở chỗ, đẩy
mạnh thương mại giữa các quốc gia (xây dựng thương mại) và điều chỉnh
việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ với các quốc gia thứ ba (những quốc gia
không tham gia hội nhập) để dành ưu tiên cho trao đổi giữa các quốc gia
cùng tham gia hội nhập (điều chỉnh thương mại);

(ii) Hội nhập của các nền kinh tế quốc dân cũng thể hiện rõ ở chỗ
mạng lưới quan hệ qua lại trong lưu thông vốn ngắn hạn và dài hạn trở
nên được sàng lọc ngặt nghèo;

(iii) Chừng nào các điều kiện thể chế và pháp luật còn tồn tại, thì
sự hội nhập còn được thể hiện bằng những khả năng chuyển động lâu dài

5
của các lực lượng lao động và bằng sự trao đổi tri thức được bảo vệ trong
thương mại và được vận dụng trong kinh tế.

Như vậy, Hội nhập quốc tế là một trong những vxu thế tất yếu của
toàn cầu hoá. Người ta tính rằng, có ba làn sóng về toàn cầu hoá kinh tế
diễn ra từ năm 1870 đến nay, đó là:

(i) Làn sóng thứ nhất (1870 - 1914) với đặc trưng là sự di chuyển
mạnh mẽ lao động từ châu Âu sang các miền đất chưa được khai phá ở
Mỹ La-tinh, châu Á;

(ii) Làn sóng thứ hai (1945 - 1980) với đặc trưng là sự phát triển

vận tải hàng không, cước vận tải biển hạ thấp và mạng điện thoại quốc tế
mở rộng, dòng vốn di chuyển nhanh hơn và rộng hơn đã tạo ra nhóm
công ty chuyên chế tạo cùng chủng loại sản phẩm và kết nối với nhau
theo chiều dọc trên thế giới;

(iii) Làn sóng thứ ba (từ 1980 đến nay) được đặc trưng bởi sự phát
triển vũ bão của công nghệ thông tin và liên lạc viễn thông. Dựa trên nền
tảng quan trọng này, các nền kinh tế đã kết nối tạo thành một thế giới liên
thông khổng lồ, theo đó, lợi ích cũng như rủi ro luôn song haqnhf.
(Nguồn: Tạp chí Cộng Sản, số 800, tháng 6-2009, trang 105: "Vai
trò quản trị toàn cầu trước những thách thức hiện nay").

Những làn sống về toàn cầu hoá này, với những đặc trưng khác
nhau, đã mang đến cho nhân loại một thế giới tốt đẹp hơn, phồn vinh hơn,
nhưng bên cạnh đó cũng chứa đựng không ít rủi ro, phức tạp, đa dạng và
khó đoán định.

Hội nhập quốc tế là một góc độ của toàn cầu hoá, là hệ quả tất yếu
của toàn cầu hoá trong quá trình phát triển của thế giới và của mỗi quốc
gia trong giai đoạn phát triển hiện đại ngày nay.

Toàn cầu hoá là một môi trường của sự phát triển. Hội nhập quốc
tế chỉ là một biện pháp cần thiết, cũng có thể gọi là bắt buộc trong quá
trình phát triển của thế giới hiện đại. Song không có nghĩa là mức độ hội
nhập quốc tế cao là phát triển cao. Mức độ hội nhập quốc tế cao không
đồng nghĩa với phát triển cao. Nếu quá trình phát triển mà không biết tận
dụng lợi thế của toàn cầu hoá, tránh những rủi ro của toàn cầu hoá, thì
quá trình phát triển đó trở nên thiếu tính bền vững, khó đem lại hiệu quả
cao cho đất nước.



6
1.2. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
hội nhập kinh tế quốc tế

Đường lối và chính sách xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta về
vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế.

Từ hai thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX đến nay, các nền kinh tế
quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau và hình thành hàng loạt các thể
chế kinh tế khu vực và quốc tế. Xu hướng vận động này tạo nên quá trình
toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá là xu thế khách quan, là quá trình vận động
theo hướng mở rộng các hoạt động kinh tế trong phạm vi một quốc gia
sang phạm vi khu vực hoặc toàn thế giới. Toàn cầu hoá trước hết là về thị
trường, bắt nguồn từ toàn cầu hoá về thông tin và cuối cùng là các quá
trình kinh tế. Trong xu thế toàn cầu hoá, một quốc gia có chủ quyền
không còn là lực lượng duy nhất đưa ra chế độ, chính sách kinh tế ngay
tại nước mình mà là sự tồn tại đồng thời của bốn lực lượng là: quốc gia
dân tộc có chủ quyền; các khối kinh tế khu vực; các thể chế kinh tế quốc
tế và các công ty xuyên quốc gia.

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế
của một nước vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực hoặc toàn cầu;
trong đó, các thành viên quan hệ với nhau theo những quy định chung
như: Liên minh châu Âu, AFTA, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
Trước kia, khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu đơn thuần là
những hoạt động giảm thuế, mở cửa thị trường. Hội nhập kinh tế quốc tế
ngày nay được hiểu là việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở,
tham gia các định chế kinh tế, tài chính quốc tế, thực hiẹn tự do hoá và

thuận lợi hoá thương mại, đầu tư nhằm mục tiêu mở cửa thị trường cho
hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản đối với trao đổi thương mại.

Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội cho nước ta phát triển nhanh
và bền vững nhưng cũng đặt nước ta trước nhiều thách thức lớn.

Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đề ra: “Chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế”. Nghị quyết Đại hội X của Đảng có điểm đổi mới là đã bổ sung
từ “tích cực” thành: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
“Chủ động” là ta tự quyết định đường lối phát triển kinh tế – xã hội nói
chung, chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng; là nắm
vững các quy luật, tính tất yếu của sự vận động kinh tế toàn cầu, phát huy
đầy đủ năng lực nội sinh của đất nước, xác định lộ trình, nội dung, quy
mô, bước đi hội nhập kinh tế quốc tế; đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ kinh tế quốc tế, không chỉ tập trung vào một thị trường, một sản

7
phẩm; chủ động thực hiện các cam kết song phương, đa phương và chủ
động vận dụng các “luật chơi” của các thể chế kinh tế – thương mại quốc
tế trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của đất nước vừa hợp tác vửa đấu
tranh, không bị động và cũng không tự phát, nóng vội, chủ quan, duy ý
chí; có sáng kiến, biết phân tích, chủ động lựa chọn đối tác và phương
thức kinh doanh, dự báo được những thuận lợi và khó khăn khi hội nhập
kinh tế quốc tế.

“Tích cực” là hội nhập kinh tế quốc tế với tinh thần mạnh mẽ hơn,
khẩn trương hơn, toàn diện và sâu rộng hơn so với giai đoạn trước; không
chần chừ, do dự mà đẩy mạnh đổi mới bên trong, từ phương thức lãnh
đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn, từ Trung ương đến địa phương,
doanh nghiệp; khẩn trương xây dựng và thực hiện chiến lược, lộ trình, kế

hoạch hội nhập kinh tế quốc tế; tích cực tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước
ngoài đồng thời mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài; đẩy nhanh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế – xã hội, hoàn chỉnh hệ
thống luật pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và
nền kinh tế; mạnh dạn mở rộng, đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối
ngoại và tham gia các thể chế, định chế kinh tế quốc tế, thực hiện các cam
kết quốc tế. “Tích cực” còn là không duy trì quá lâu các chính sách bảo
hộ của Nhà nước, khắc phục nhanh trình trạng trì trê và tâm lý trông chờ,
ỷ lại ở sự bao cấp của Nhà nước. Tích cực nhưng vững chắc, có sự chuẩn
bị cần thiết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu quản lý, hệ thống luật
pháp, có thông tin cập nhật và dự báo tình hình tương đối chính xác, có
đội ngũ cán bộ hiểu biết về thị trường, đối tác, tinh thông nghiệp vụ kinh
doanh, hội nhập kinh tế.

1.3. Các khía cạnh chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế

1.3.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếp, kể cả luồng đầu tư vào (sự tiếp nhận) và luồng đầu tư ra (chúng ta
đầu tư ra làm ăn, sản xuất ở nước ngoài) là một trong những góc độ quan
trọng của hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu luồng đầu tư đó nhiều, chứng tỏ
việc hội nhập sâu rộng, và chỉ có hội nhập sâu rộng thì mới có cơ hội cho
luồng đầu tư đó nhiều.

Vốn đầu tư là tiền, tài sản để thực hiện các hoạt động đầu tư theo
hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp.

Theo Luật Đầu tư, đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua
định chế trung gian tài chính hoặc mua các chứng khoán mà nhà đầu tư


8
không trực tiếp tham gia hoạt động đầu tư – kinh doanh. Trong những
năm qua, tỷ lệ đầu tư gián tiếp trong đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
thấp. Trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam
sẽ ngày càng tăng.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hoạt động đầu tư của các tổ
chức và cá nhân người nước ngoài vào các doanh nghiệp tại nước nhận
đầu tư. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định “đầu tư trực tiếp
nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng
tiền hoặc bất cứ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư”. Nhà đầu
tư nước ngoài trực tiếp sở hữu, quản lý và điều hành hoạt động của doanh
nghiệp
1
. FDI gắn liền với chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và
không trở thành nợ nước ngoài của Chính phủ nước nhận đầu tư.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục khẳng định vai trò trong sự
nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào tổng sản phẩm
trong nước (GDP) của nước ta và thực sự trở thành một bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế. Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
(không kể dầu thô) nộp ngân sách tăng qua mỗi năm, khu vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài thu hút nhiều lao động trực tiếp và gián tiếp, thực hiện
chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế, mở rộng thị trường và tác động lan toả
tích cực đến các khu vực khác của nền kinh tế.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng

điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương,
làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển
kinh tế – xã hội cả nước và các vùng phụ cận.

1.3.2. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)

Hỗ trợ phát triển chính thức là một trong những khía cạnh của hội
nhập kinh tế quốc tế. Nếu như không có mức hội nhập cao, thiếu các quan
hệ thân thiện với thế giới bên ngoài, thì không thể có nhiều nhà tài trợ,
cũng như không thể đạt được tính phong phú của vấn đề tài trợ, kéo theo
đó không thể có các khoản vốn hỗ trợ chính thức nhiều.



1
Khác với đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp là việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu, trái phiếu của
các doanh nghiệp nước nhận đầu tư nhung không tham gia quản lý. Hình thức này rất phát triển trong
thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, song một phần bị thay thế bởi vay thương mại. Đầu tư gián tiếp không
trở thành nợ nhưng rất nhạy cảm với những biến đổi của chính sách tài chính, tiền tệ ở nước sở tại.
Hành động rút vốn ồ ạt của các nhà đầu tư sẽ gây tác hại xấu đến nền kinh tế của nước nhận đầu tư.

9
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của nước ngoài cho Việt Nam
là hoạt động của các nhà tài trợ quốc tế cung cấp vốn phát triển cho nước
Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực quan tâm.

Nhà tài trợ được đề cập có thể là chính phủ nước ngoài hoặc các tổ
chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia. Ngoài ra, các Tổ chức phi chính
phủ (NGO) nước ngoài đôi khi cũng được coi là nhà tài trợ.


Hình thức cung cấp ODA gồm: ODA không hoàn lại là hình thức
cung cấp ODA không phải hoàn lại cho nhà tài trợ. ODA cho vay ưu đãi
(hay còn gọi là tính dụng ưu đãi); Chính phủ Việt Nam vay với lãi suất và
điều kiện ưu đãi sao cho “yếu tố không hoàn lại” (là “thành tố hỗ trợ”)
đạt không dưới 25% của tổng trị giá khoản vay. ODA hỗn hợp là các
khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung cấp
đồng thời với các khoản tín dụng thương mại nhưng tính chung lại, “yếu
tố không hoàn lại” đạt không dưới 25% tổng giá trị của các khoản đó.
Nhà tài trợ cung cấp ODA cho Việt Nam: Ở nước ta, thực hiện
chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá của Đảng và
Nhà nước, trong thời gian vừa qua, hoạt động hợp tác phát triển giữa Việt
Nam và cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế không ngừng được củng cố và
phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp
phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.

Kể từ Hội nghị các nhà tài trợ đầu tiên dành cho Việt Nam họp vào
tháng 11-1993 tại Pari (Pháp), đến nay Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài
trợ (gọi tắt là hội nghị CG) đã được tổ chức định kỳ hàng năm vào tháng
12. Đây là diễn đàn trao đổi ý kiến giữa Chính Phủ Việt Nam và các nhà
tài trợ về chính sách phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện ODA và các
nhà tài trợ cam kết tài trợ thường niên.

Đơn vị tính: Triệu USD
Năm
Số vốn cam kết
Vốn ký kết
Vốn giải ngân
1993
1.810
816

413
1994
1.910
2.597
725
1995
2.260
1.443
737
1996
2.430
1.601
900
1997
2.400
1.694
1.000
1998
2.300
1.901
1.242
1999
2.100
1.372
1.350
2000
2.400
1.796
1.650
2001

2.400
2.587
1.500
2002
2.500
1.944
1.528

10
2003
2.830
1.918
1.421
2004
3.440
2.530
1.650
2005
3.747
2.500
1.720
Tổng số
32.527
24.699
15.836

Ngoài Hội nghị CG, từ năm 1998 còn có các Hội nghị CG không
chính thức giữa kỳ được tổ chức vào tháng 6 hàng năm tại các địa
phương của Việt Nam. Trước thềm Hội nghị CG và các CG giữa kỳ còn
tổ chức Diễn đàn doanh nghiệp với sự tham gia của các cơ quan chính

phủ, các đại sứ, đại diện cho các nhà tài trợ và đại diện giới doanh nghiệp
trong và ngoài nước.

Chính phủ Việt Nam đã ký kết với các nhà tài trợ các Điều ước
quốc tế về ODA (hiệp định, nghị định thư, chương trình, dự án ) để sử
dụng nguồn vốn ODA đã cam kết. Công tác quản lý nhà nước về ODA đã
được tăng cường. Từ năm 1993 đến nay, Chính phủ đã ban hành ba Nghị
định về quản lý và sử dụng ODA, tạo ra khung pháp lý chặt chẽ và khá
đồng bộ đối với công tác quản lý nhà nước về ODA. Ngay cơ quan Tổng
cục Thống kê cũng đã có Quy chế sử dụng vốn ODA.

1.3.3. Tự do hoá thương mại

Xuất nhập khẩu là một trong những góc độ không thể thiếu được
của hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu xuất nhập khẩu nhiều, chứng tỏ việc
hội nhập sâu rộng, và chỉ có hội nhập sâu rộng thì mới có cơ hội cho xuất
nhập khẩu nhiều.

Thương mại tự do là nền thương mại được hình thành và phát triển
theo cung cầu và các quy luật kinh tế thị trường, không có sự cản trở bởi
biện pháp hành chính của Nhà nước. Trong thương mại quốc tế, thương
mại tự do được hiểu là một nền thương mại mà về nguyên tắc, áp dụng
chính sách cho hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động được tự do di chuyển
qua biên giới. Trong thực tế, các quốc gia đều áp dụng các chính sách
nhằm chế ngự ít hoặc nhiều đối với sự di chuyển đó.

Để thực hiện thương mại tự do, một số nước có thể lập ra Khu vực
thương mại tự do, đây là mô hình một nhóm gồm hai hay nhiều nước thoả
thuận cùng xoá bỏ thuế quan, phần lớn hoặc tất cả các biện pháp phi thuế
quan cản trở thương mại nội nhóm. Các nước trong nhóm vẫn độc lập

thực hiện chính sách thuế quan với các nước nằm ngoài nhóm. Việt Nam
đã tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA). Các nước
ASEAN lập AFTA trên cơ sở thực hiện Hiệp định về Chương trình ưu đãi
thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) có hiệu lực từ 1-1-1993 nhằm giảm

11
thuế quan đến mức từ 0-5% đối với thương mại hàng hoá giữa các nước
thành viên vào năm 2003, và đến 2013, toàn khối sẽ đạt mức thuế 0%.
Riêng ASEAN – 6, lộ trình cắt giảm thuế được đẩy nhanh lên vài năm.
Việt Nam gia nhập ASEAN ngày 28-7-1995, bắt đầu thực hiện CEPT từ
1-1-1996 đến 1-1-2006 là hoàn thành việc giảm thuế. Đến nay, Việt Nam
đã đưa nhiều dòng thuế về mức thuế từ 0-5%. Giai đoạn tiếp theo là thành
lập Liên minh thuế quan, các thành viên thoả thuận lập ra biểu thuế quan
chung và loại bỏ các hàng rào thương mại giữa các nước trong khối.
Dạng phát triển cao hơn là thiếp lập Thị trường chung, ngoài việc chu
chuyển hàng hoá, dịch vụ tự do giữa các thành viên, lao động và vốn
cũng được di chuyển không có hạn chế.

Về thương mại dịch vụ đòi hỏi có sự hiện diện thương mại và sự di
chuyển tự do của người tiêu dùng và người sản xuất dịch vụ nên cần một
sự liên kết cao hơn thương mại hàng hoá.

Trong thương mại quốc tế, người ta dùng khái niệm thương mại có
quản lý để chỉ thoả thuận chung của một nhóm nước trong đó quy định
một số ngành hoặc sản phẩm không được buôn bán theo nhu cầu của thị
trường mà được quản lý thông qua các hiệp định hạn chế tự nguyện, thoả
thuận thị trường có trật tự, hạn chế định lượng và các biện pháp phi thuế
quan khác nhằm bảo hộ công nghiệp nội địa. Ngày nay, người ta còn
dùng biện pháp này không chỉ nhằm hạn chế sự thâm nhập của hàng hoá
nhập khẩu mà còn nhằm gia tăng xuất khẩu cho các nước trong nhóm, có

thể gây thiệt hại cho nước thứ ba (việc buôn bán giữa các công ty con
trong cùng một công ty đa quốc gia cũng bị liệt vào dạng này).

Tự do hoá thương mại là quá trình tiến hành những hoạt động như
ban hành chính sách, thực hiện các biện pháp loại bỏ các rào cản hiện
hành đối với thương mại hàng hoá và dịch vụ. Thuật ngữ này cũng có thể
bao gồm cả những biện pháp dỡ bỏ các hạn chế về đầu tư để tiếp cận thị
trường trong nước và thị trường quốc tế.

Trong thương mại quốc tế còn dùng khái niệm mở cửa thị trường.
WTO coi đây là một thuật ngữ pháp lý nói lên các điều kiện do Chính
phủ áp đặt để một sản phẩm có thể thâm nhập một nước trong điều kiện
không phân biệt đối xử. Mở cửa thị trường thể hiện bằng các biện pháp
của khẩu, đó là thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá. Đối với dịch
vụ, còn có cả các quy định ngay trong thị trường. Mở cửa thị trường
thông qua chính sách thương mại đa biên phương hoặc các hiệp định liên
Chính phủ. Ngày nay, do quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế, người ta còn
quan tâm đến mở cửa thị trường ngay trong biên giới, mở rộng các quy
tắc thương mại tự do tới lĩnh vực nội địa. Vì vậy, mở cửa thị trường được

12
miêu tả là mức độ mà hàng hoá và dịch vụ có thể cạnh tranh với sản
phẩm chế tạo tại chỗ ở một thị trường khác. Mở cửa thị trường nhằm
nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của sản phẩm trên các thị trường trong
và ngoài nước.

1.3.4. Hàng rào bảo hộ

Trái với tự do hoá thượng mại là Hàng rào bảo hộ.


Bảo hộ là việc các chính phủ thông qua các chính sách và biện
pháp để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước và sản phẩm của họ khỏi sự
cạnh tranh hàng hoá nước ngoài. Để thực hiện bảo hộ, các chính phủ sử
dụng những hàng rào chủ yếu sau:

- Hàng rào thuế quan đánh vào hàng hoá nhập khẩu;

- Các biện pháp trợ cấp hay ưu đãi dành cho sản xuất trong nước;

- Hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch, giấy phép, thủ tục hải quan,
biện pháp hành chính

- Biện pháp vùng xám (biện pháp còn bị ngờ vực về tính hợp chuẩn
theo quy định quốc tế) như thoả thuận hạn chế xuất khẩu tự nguyện, thoả
thuận thị trường có trật tự, thoả thuận phân chia thị trường ;

- Hàng rào kỹ thuật như hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật các loại, vệ
sinh dịch tễ, thoả thuận công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn và hợp chuẩn;

- Hàng rào môi trường, văn hoá, đạo đức ;

- Các hàng rào khác do chính phủ quy định.

Để đo lường mức độ bảo hộ, người ta thường dùng các chỉ số sau:

- Tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa (NRP) là tỷ lệ phần trăm giá nội địa vượt
quá giá tại biên giới của một sản phẩm.

- Nêm giá là mức độ chênh lệch giá của hàng hoá trong thị trường
được bảo hộ so với giá trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo.


- Tỷ lệ bảo hộ thực tế (ERP) hay còn gọi là tỷ lệ trợ giúp thực tế là tỷ
lệ làm rõ sự khác nhau giữa trường hợp giả định không có sự trợ giúp với
trường hợp thực tế có trợ giúp.

13

Trong thương mại quốc tế, WTO cho phép thực hiện bảo hộ đột
xuất là những biện pháp bảo hộ mang tính phòng vệ thương mại được áp
dụng tạm thời để đáp lại các hành động bán phá giá, trợ cấp hay hàng
nhập khẩu tăng đột biến gây thiệt hại cho sản xuất nội địa. Bảo hộ đột
ngột gồm ba biện pháp: chống bán phá giá, thuế đối kháng và biện pháp
tự vệ. Quy tắc quốc tế cho phép các nước đang phát triển, trong những
điều kiện nhất định, được áp dụng các biện pháp bảo hộ như thuế quan,
trợ cấp, các quy định hàm lượng nội địa cho những ngành công nghiệp
non trẻ có lợi thế so sánh tiềm tàng nhằm thúc đẩy sự phát triển.

Trong những hàng rào bảo hộ có hàng rào phi thuế quan. Hàng rào
phi thuế quan là những rào cản (không phải thuế quan) đối với việc tiếp
cận thị trường hay hạn chế tự do trao đổi thương mại giữa các quốc gia.
Hàng rào phi thuế quan là hệ thống các biện pháp do Nhà nước quy định
để can thiệp vào hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nhằm bảo hộ sản xuất
trong nước và an ninh quốc gia mà không phải bằng chính sách thuế.
Hàng rào phi thuế quan có thể được thực hiện dưới các hình thức: kiểm
soát giá, hạn chế số lượng, biện pháp tài chính, biện pháp độc quyền hay
những quy định về kỹ thuật.

Biện pháp kiểm soát giá được thực hiện thông qua việc ấn định giá
trần/giá sàn hàng nhập khẩu như quy định giá nhập khẩu tối thiểu, nhằm
duy trì mức giá trong nước khi giá nhập khẩu thấp hơn giá trong nước,

hạn chế ảnh hưởng của tình trạng biến động về giá tại thị trường trong
nước hoặc trên thị trường thế giới.

Biện pháp tài chính được sử dụng nhằm điều tiết khả năng tiếp cận
cũng như chi phí về ngoại hối cho việc nhập khẩu. Áp dụng các biện pháp
tài chính có thể làm tăng chi phí của hàng nhập khẩu. Biện pháp tài chính
thường bao gồm: quy định về thanh toán trước, quy định về ký quỹ, quy
định về thuế quan trả trước, quy định về điều khoản thanh toán đối với
hàng nhập khẩu.

Biện pháp kỹ thuật là việc hạn chế nhập khẩu thông qua những quy
định về đặc tính của hàng hoá như chất lượng, nhãn hiệu, quy cách đóng
gói, độ an toàn của sản phẩm, quy định về kiểm dịch.

Biện pháp độc quyền là hạn chế nhập khẩu thông qua việc quy định
độc quyền nhập khẩu một hoặc một số hàng hoá nhất định cho một hoặc
một số chủ thể kinh tế dựa trên những lý do về tài khoá, kinh tế, xã hội.



14

II- PHẦN HAI:
VAI TRÒ CỦA THỐNG KÊ MÔ TẢ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ TRƯỚC NHỮNG THÁCH THỨC HIỆN NAY

Các chỉ tiêu, chỉ số thống kê mô tả hội nhập quốc tế phải giúp
chúng ta phát hiện ra những nguy cơ, thách thưc trong quá trình phát triển
của đất nước.


Những nguy cơ đe doạ sự phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi
toàn cầu đang được nhận thức như thách thức toàn cầu. Một khi đã hội
nhập quốc tế sâu rộng, thì thách thức toàn cầu cũng chính là thách thức
của quốc gia. Để vượt qua những thách thức này, tất cả các quốc gia bất
kể giàu nghèo, cần định vị quản trị quốc gia trong tư duy quản trị toàn
cầu, tức là trong tư duy mà ở đó phải đưa ra được các nỗ lực tổng thể
nhằm xác định, hiểu rõ và giải quyết những vấn đề, những rủi ro bao trùm
thế giới mà một quốc gia riêng lẻ dù hung mạnh đến đâu cũng không thể
giải quyết một cách hiệu quả.

2.1. Nhận thức về thách thức toàn cầu

Các nhà kinh tế thế giới đã đưa ra nhận định: thị trường toàn cầu đã
được tái định dạng bởi dòng vốn, người tiêu dùng, các công ty xuyên
quốc gia và mạng liên lạc viễn thông. Các yếu tố này kết hợp với nhau đã
tạo ra tính hiệu quả của nền sản xuất hàng hoá và dịch vụ toàn cầu. Tuy
nhiên, nó cũng đêm lại những thách thức mà thế giới đang phải đối mặt.

Thứ nhất, rủi ro hệ thống tài chính: Phải khẳng định rằng hệ
thống kinh tế và tài chính có sự rang buộc chặt chẽ. Các ngân hàang trên
toàn thế giới vay mượn lẫn nhau, mua và bán các công cụ tài chính phức
tạp. Đây là lý do cắt nghĩa vì sao khi có sự quản lý tồi tệ ở một quốc gia
dẫn tới các khoản nợ xấu lại có khả năng lây nhiễm rộng rãi ra hệ thống
toàn cầu. Đầu tư tài chính đã như thỏi nam châm hút mạnh dòng vốn chảy
vào, khiến cho ngành tài chính trở thành quả bong bóng lớn. Bên cạnh đó
là sự tăng trưởng thiếu bền vững do lỗi điều hành và cả những hệ luỵ từ
chủ nghĩa kinh tế tự do thái quá (như điều hành cầm cố và thế chấp bất
động sản yếu kém, thiếu độ minh bạch; tính phức tạp của các sản phẩm
dịch vụ tài chính; sự bất cẩn của các dịch vụ đánh giá tín nhiệm; các định
chế tài chính trong nước còn yếu kém trong quản lý rủi ro; sự mạo hiểm

của thị trường cho vay thứ cấp… (Kết quả là quả bong bong xì hơi, gây
tâm lý hoảng loạn, dẫn tới sự sụp đổ hệ thống).


15
Sự di chuyển nhanh và với khối lượng lớn của dòng vốn quốc tế,
cũng như việc xuất khẩu vốn và sử dụng vốn theo cách hiệu quả nhất
nhưng khi không được quản lý chặt chẽ, mặc nhiên người ta xuất khẩu cả
những món nợ, những khoản nợ xấu từ nước này sang nước khác. Đó
thực sự đang là thách thức toàn cầu. Tình trạng rủi ro này được thể hiệ
qua các cuộc khủng hoảng tài chính có tính dây chuyền, kéo theo sự suy
giảm mạnh mẽ của giá trị tài sản và các hoạt động kinh tế kiên qua, như
đang diễn ra trên thế giới hiện nay. Những biểu hiện cụ thể của khủng
hoảng là phương tiện thanh toán bị hao hụt, chu chuyển thị trường bị đứt
quãng, những lây lan xuyên thị trường gia tăng mạnh mẽ, các tổ chức tài
chính chao đảo dữ dội, thị trường bất ổn về hệ thống… Rủi ro hệ thống là
nhân tố thường trực của hệ thống tài chính toàn cầu, và khi lâm nạn, nó sẽ
kéo nền kinh tế vào suy thoái mà hậuquả không thể lường hết. Hiện nay
thế giới đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất
trong vòng 100 năm qua.

Thứ hai, an ninh lương thực: Theo các nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học quốc tế, chỉ trong vòng ba năm 2006-2008, giá lương thực thế
giới tăng lên 83%. Điều đó cho thấy dấu hiệu của thời kỳ giá lương thực
giảm và thấp đang dần sắp kết thúc. Bên cạnh đó, cung lương thực không
đủ, giá lại tăng cao, khiến cho việc tiếp cận nguồn lương thực của nhiều
quốc gia gặp nhiều khó khăn, trở ngại.

An ninh lương thực được coi là ngưỡng mà ở đó tất cả mọi người
đều có thể tiếp cận được lương thực đủ dinh dưỡng và an toàn trên

phương diện kinh tế cũng như trong đời sống hằng ngày. Theo ngưỡng
này, cuộc khủng hoảng lương thực lan sang nhiều quốc gia đang phát
triển khiến cho hang trăm triệu người tại 78 quốc gia phụ thuộc vào
Chương trình cứu trợ của FAO, 36 nước đang đối mặt với khủng hoảng
lương thực do thu nhập thấp hơn so với giá nông sản, do thiên tai, chính
sách nông nghiệp yếu kém…

Có 5 yếu tố chủ yếu khiến cho cung - cầu lương thực không cân
bằng, an ninh lương thực toàn cầu bị đe doạ, đó là:

(1) Tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu;

(2) Số lượng cũng như chất lượng nguồn nước bị suy giảm;

(3) Dân số gia tăng và nhu cầu sử dụng lương thực theo cách lạm dụng
tăng mạnh (chế biến ethanol, chăn nuôi gia súc lấy thịt…);


16
(4) Chiến tranh xuyên biên giới, nội chiến và những biến động chính
trị bất lợi cho sản xuất lương thực; diện tích trồng trọt bị thu hẹp,
năng suất thu hoạch lương thực không được chú trọng đầy đủ.

Có một điểm đặc biệt là an ninh lương thực không chỉ là vấn đề
của các nước nghèo như muôn thuở mà đã xuất hiện ngay ở cả các quốc
gia giàu có khi lương thực đã trở thành nguyên liệu chế biến nhiên liệu
sinh học thay thế cho nhiên liệu hoá thạch và là nguyên liệu đầu vào cho
một số ngành, như ngành chăn nuôi, sản xuất đồ uống…

Thứ ba, vấn đề an ninh năng lượng: Năng lượng là yếu tố đầu

vào then chốt của nền kinh tế toàn cầu. An ninh năng lượng được tiếp cận
theo nghĩa bảo đảm đầy đủ cung ứng năng lượng cho quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và đạt được giá cả hợp lý khi gặp biến động
của khủng hoảng kinh tế. Theo cách tiếp cận này, an ninh năng lượng
hiện nay đang tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường. trong khi chưa có bất cứ
loại nhiên liệu nào có thể thay thế được cho dầu lửa thì sự nổi lên của các
nền kinh tế khổng lồ như Trung Quốc hay Ấn Độ đang đặt áp lực rất lớn
lên nguồn cung năng lượng toàn cầu, kéo theo giá cả nhiên liệu khó có
thể giảm mà chỉ có thể tăng lên trong tương lai. Theo dự đoán của cơ
quan năng lượng quốc tế (IEA), trong vòng vài ba thập kỷ tới, nhu cầu
năng lượng dưới tất cả các dạng (dầu lửa, than đá, khí đốt, năng lượng hạt
nhân, năng lượng tái tạo, thuỷ điện, …) sẽ tăng lên rất nhiều, trong khi
nguồn cung không thể đáp ứng.

Thứ tư, biến đổi khí hậu toàn cầu và an ninh môi trường: Tình
trạng nóng lên của trái đất và mực nước biển dâng - biểu hiện chính của
tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu - khiến thiên tai xảy ra với tần suất
nhiều hơn, diễn biến phức tạp và mức độ tàn phá nặng nề hơn. Biến đổi
khí hậu toàn cầu có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của mọi người dân
trên thế giới, cũng như ảnh hưởng gián tiếp đến nhiều ngành kinh tế. Đây
là hậu quả của quá trình công nghiệp hoá, sự thiếu nhận thức về tăng
trưởng bền vững, ý thức thiếu đầy đủ về việc bảo vệ môi trường sinh thái.

Thứ năm, tính dễ tổn thương của chuỗi giá trị cung ứng toàn
cầu: Toàn cầu hoá kinh tế đã làm chuyển đổi hoạt động kinh doanh cũng
như quản trị công. Thuê nguồn lực bên ngoài đang trở thành tâm điểm
động lực của sự thịnh vượng kinh tế toàn cầu và được thực hiện thông
qua phân bổ nguồn lực vốn khan hiếm sang các địa dư và hoạt động kinh
doanh mang lại hiệu quả cao nhất. Chuỗi cung ứng toàn cầu được hiểu
như những móc xích trong cả dây chuyền sản xuất hàng hoá và dịch vụ,

và những chuỗi cung ứng tốt cần hội tụ đủ ba (3) yếu tố bắt đầu bằng chữ
A: Nhanh nhẹn, phản ứng nhanh với thay đổi cung - cầu (Agile); Thích

17
nghi theo thời gian và thay đổi chiến lược (Adapt); Phù hợp với lợi ích
công ty trong mạng lưới cung ứng nhằm tối ưu hoá hoạt động và tối ưu
hoá lợi nhuận (Align).

Tuy nhiên, hiện nay quản trị chuỗi cung ứng toàn cầu đang phải đối
mặt với những thách thức nghiêm trọng. Khi hầu hết các công ty và các
chính phủ phụ thuộc vào chuỗi cung ứng thì chỉ cần một hay một vài
điểm bị xáo trộn, gây tắc nghẽn, tất yếu cả chuỗi giá trị đều bị tổn thương.
Những xáo trộn trong vòng mấy năm vừa qua từ khi khủng hoảng tài
chính toàn cầu đang diễn ra là một bài học đắt giá không phải chỉ riêng
đối với các nhà quản trị chuỗi giá trị cung ứng, mà còn với nhiều chính
phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô.

2.2. Hành động quản trị toàn cầu

(i) Đối phó với rủi ro tài chính: Đã có nhiều cuộc thảo luận nhằm xây
dựng các thiết chế tài chính mở, theo đó quyền quyết định những vấn đề
tài chính toàn cầu không tập trung vào một vài quốc gia đầu tàu, mà được
chia sẻ với nhiều quốc gia khác. Thời đại quyền lực mở có thể bắt đầu từ
sau cuộc khủng hoảng này. Các quốc gia đóng vai trò quan trọng trên bàn
cờ kinh tế thế giới đã đi đến nhất trí tập trung mọi biện pháp nhằm khôi
phục lại đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu; hoàn thiện vai trò điều tiết của
các thể chế tài chính quốc tế, trước hết là WB và IMF; phối hợp chính
sách tài chính tiền tệ trên cấp độ quốc tế; khuyến khích tự do hoá thương
mại, chống lại chế độ bảo hộ cục bộ đồng thời củng cố quản trị công, đề
cao chức năng giám sát rủi ro hệ thống trong quản trị toàn cầu, ngăn chặn

và phát hiện sớm những khuyết tật của thị trường tài chính mở.

Có thể nói, định hướng đảm bảo công bằng cho các thành viên
trong các tổ chức tài chính quốc tế là một yếu tố then chốt. Thế giới cần
xây dựng một hệ thống ngăn ngừa rủi ro bột phát, đặc biệt những rủi ro
chu kỳ của nền kinh tế thị trường toàn cầu. Hệ thống này dựa trên cơ sở
dữ liệu đã được giám sát nghiêm ngặt, tránh hoạt động đầu cơ hoặc thổi
bong bong vào hoạt động tài chính không có thực, phối hợp chính sách tài
chính lien chính phủ nhằm đảm bảo an ninh kinh tế.

(ii) Đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu và an ninh lương thực:
Nghị định thư Ki-ô-tô là biểu hiện tập trung của nỗ lực đối phó với biến
đổi khí hậu toàn cầu. Tuy nhiên, vì lợi ích quốc gia cũng như khó khăn
trong cấu trúc lại nền kinh tế, nhiều nước chưa sẵn sang tham gia cam kết
giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Quản trị toàn cầu với thể chế mới
cần phải tính đến vấn đề này một cách toàn diện và ráo riết hơn. Hiện
nay, Mỹ và nhiều quốc gia khác đang đẩy mạnh chuyển đổi cấu trúc nền

18
kinh tế theo hướng xanh, tiết kiệm nguyên nhiên liệu và tăng cường tái
chế. Bảo vệ diện tích rừng thông qua giảm khai thác gỗ là một chủ đề
trong quản trị quốc gia theo hướng tăng cường bền vững.

(iii) Đối phó với ự bất ổn về năng lượng và rủi ro chuỗi cung ứng toàn
cầu: Trong điều kiện cung cầu năng lượng còn bất cập, thậm chí tình
trang thiếu năng lượng còn kéo dài, việc toàn thế giới phải đối phó với
vấn đề này là chủ đề nong trong quản trị toàn cầu. Bên cạnh tìm kiếm các
nguồn cung dầu lửa mới, việc tìm giải pháp phát triển năng lượng mới và
tái tạo, năng lượng thay thế, năng lượng sạch, bảo tồn năng lượng truyền
thống cần đạt tới ý thức sử dụng tiết kiệm năng lượng trong cộng đồng

dân cư… Quản trị toàn cầu khó có thể đạt mức huy động khối lượng tiền
lớn để đầu tư mới các cơ sở cung ứng về năng lượng. Bởi vậy, đề cao vai
trò của tiết kiệm triệt để năng lượng, đồng thời bảo tồn các nguồn năng
lượng hiện có là một trong những đòi hỏi cấp bách Nhu cầu về quản trị
toàn cầu đối với an ninh năng lượng toàn cầu đặt ra ngày càng nhiều vấn
đề phối hợp hành động (thông qua việc ký kết các công ước, hiệp ước,
hiệp định quốc tế) không chỉ liên chính phủ mà còn là trách nhiệm xã hội
của các doanh nghiệp và các tổ chức dân sự xã hội toàn cầu.

Đối phó với chuỗi rủi ro cung ứng toàn cầu đang đặt ra nhiều yêu
cầu bức thiết đối với quản trị toàn cầu. Các công ty xuyên quốc gia, công
ty địa phương, các chính phủ, công đoàn, hiệp hội sản xuất cần nhìn nhận
vấn đề này theo góc độ của mình để bảo đảm cho hoạt động cung ứng
thông suốt vì lợi ích chung của chuỗi toàn cầu.

2.3. Quản trị toàn cầu nhìn từ góc độ Việt Nam

Từ góc độ quốc gia, đang trên từng bước trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam cũng phải đối phó với
nhiều thách thức, đặc biệt là các vấn đề:

(a) Về biến đổi khí hậu toàn cầu và ô nhiễm môi trường sống: Những
trận bão lớn, lũ lụt bất thường, nước biển dâng cao, triều cường, mặn hoá
đất nông nghiệp, tình trạng ô nhiễm nước, đất đai cạn kiệt… đã gây nhiều
hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với sản xuất cũng như sức khoẻ cộng
đồng. Chúng ta đang rơi vào vòng luẩn quẩn giữa tăng trưởng và đảm bảo
môi trường sống bền vững. Căn nguyên của tình trạng ô nhiễm và biến
đổi khí hậu toàn cầu xuất phát từ cả yếu tố khách quan và chủ quan.

Hiện nay chúng ta chưa nhận thức đầy đủ mức độ nghiêm trọng

của biến đổi khí hậu, chưa có chương trình thống nhất hành động và việc

19
kiểm soát ô nhiễm môi trường còn yếu kém. Quá trình hội nhập quốc tế
có thể giúp chúng ta cơ hội để giải quyết vấn đề nghiêm trọng này.

(b) Về bảo đảm an ninh năng lượng: Đây hiện là một thách thức lớn
đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Hiện tại chúng ta
chưa hoàn tất Chiến lược an ninh năng lượng tổng thể và dài hạn, và càng
chậm khắc phục thì càng khó tháo gỡ, khó tránh được bất cập cung cầu
năng lượng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Chúng ta không chỉ suy nghĩ đến chiến lược cung ứng năng lượng
cho nền kinh tế nội địa, mà còn cần tính đến góp phần an ninh năng lượng
trong khu vực khi nhu cầu hội nhập kinh tế Đông Á đang hình thành
nhanh chóng. Vấn đề này cần có sự quan tâm tích cực hơn nữa của Chính
phủ và có chính sách khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh
tế ngoài quốc doanh vào sản xuất năng lượng; khuyến khích các nguồn
năng lượng tái tạo và thân thiện môi trường, đặc biệt ở nông thôn.

2.4. Những thách thức và biện pháp giải quyết riêng của Việt
Nam trước ngưỡng cửa hội nhập kinh tế quốc tế

- Việc nâng cao chất lượng và thay đổi căn bản cơ cấu lực lượng
lao động không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới việc mở rộng, tiếp cận cơ hội
việc làm và thu nhập, mà còn ảnh hưởng tới hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế và sự thành bại của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó,
một giải pháp cấp bách hiện nay là phải nâng cao cvhất lượng lao động và
thay đổi cơ cấu lao động bằng cách thay đổi cơ cấu đào tạo,


- Vấn đề chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong điều
kiện của một nền kinh tế chuyển đổi, còn nhiều kẽ hở trong thể chế thị
trường cũng phải được giải quyết. Nhiều vấn đề về chính sách còn chưa
được giải quyết một cách toàn diện, nhận thức về sự cần thiết và quyết
tâm chủ độgn hội nhập còn khác nhau, năng lực xây dựng, triển khai
chiến lược hội nhập còn chưa xững tầm với đòi hỏi của thực tiễn cuộc
sống. Đó cũng là những vấn đề phải khắc phục ngay, không thể một sớm
một chiều.

- Những thách thức gay gắt để đạt tới thành công của vấn đề chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế là: hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế còn yếu kém; đổi mới khu vực doanh nghiệp Nhà nước và ngân hàng là
một nhiệm vụ nan giải nhưng không thể né tránh; môi trường kinh doanh
chưa được thông thoáng, còn những bất hợp lý; hình thành hệ thống
chính sách đủ năng lực hỗ trợ cho người nghèo, người dễ bị tổn thương
trong quá trình chuyển đổi và hội nhập kinh tế quốc tế.

20

- Trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự thay đổi nhanh chóng về công
nghệ, các công cụ truyền thống mà nhiều quốc gia đã từng áp dụng để
thúc đẩy, hỗ trợ các ngành công nghiệp sẽ càng ngày bị hạn chế.

- Thách thức của việc giải quyết nhiệm vụ nâng cao dân trí, yêu
cầu phải thay đổi mau chóng và căn bản chất lượng của hệ thống cung
cấp và sử dụng tri thức.

21

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Tạp san “Thông tin khoa học Thống kê”, Viện nghiên cứu khoa
học thống kê, Tổng cục Thống kê, số 4 – 2006;

2. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X;

3. Luật Thống kê số 04-2003-QH11 được Quốc hội thông qua
ngày 17/6/2003;

4. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 305/2005/QĐ-TTg
ngày 24/11/2005 về việc ban hành Hệ thống chỉ tiêu thống kê
quốc gia;

5. Ngô Văn Dụ - Hồng Hà - Trần Xuân Giá (Đồng chủ biên), Tìm
hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006;

6. ASEAN Baseline Report, Measurements to Monitor Progress
Towards the ASEAN Community, Volume 1: Main Report, Part
2: System of Indicators (ABR Team Members: Mario B.
Lamberte; Heidi R. Arboleda; Celia M. Reyes), Jakarta:
ASEAN Secretariat, 7/2006.

7. ASEAN Baseline Report, Measurements to Monitor Progress
Towards the ASEAN Community, Volume 1: Main Report, Part
1: Analysis (ABR Team Members: Mario B. Lamberte; Heidi
R. Arboleda; Celia M. Reyes), Jakarta: ASEAN Secretariat,
7/2006.

8. ASEAN Baseline Report, Measurements to Monitor Progress

Towards the ASEAN Community, Volume 2: Data and
Metadata (ABR Team Members: Mario B. Lamberte; Heidi R.
Arboleda; Celia M. Reyes), Jakarta: ASEAN Secretariat,
7/2006.

×