Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Hệ thống huyết mạch của nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.25 KB, 94 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập, cùng với những thuận lợi, cơ hội phát triển mới
là những khó khăn, thách thức. Đất nước chúng ta – một đất nước còn đang
trên đà phát triển thì "cạnh tranh" sẽ là một trong những áp lực lớn nhất trong
con đường hội nhập thế giới. Và các ngân hàng thương mại "Hệ thống huyết
mạch của nền kinh tế" cũng không nằm ngoài quy luật chung đó, để tồn tại và
phát triển buộc các ngân hàng phải trải qua cuộc "đấu tranh sinh tồn".
Như ta đã biết, cạnh tranh ngày càng khốc liệt cũng đồng nghĩa với nó
là rủi ro ngày càng tăng. Hơn thế nữa, trong kinh doanh tín dụng nói chung và
bảo đảm tiền vay nói riêng, rủi ro là yếu tố khách quan, chỉ có thể đề phòng
hạn chế, chứ không thể loại trừ. Rủi ro đến với ngân hàng có thể từ nhiều phía
và diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây nên những tổn thất cho các
ngân hàng thương mại. Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế còn khá nhiều
bất ổn như hiện nay, khi mọi dự đoán và tính toán chỉ mang tính lý thuyết, dễ
biến động và không chính xác, thì "bảo đảm tiền vay" là một đòi hỏi mang
tính trước mắt, tất yếu, khách quan.
Xuất phát từ chính nhu cầu thực tiễn bức xúc đó, đồng thời được sự
hướng dẫn tận tình của thầy giáo – TS. Hoàng Xuân Quế; sự giúp đỡ, chỉ bảo
nhiệt tình của cán bộ nhân viên phòng Tín dụng&bảo lãnh nói riêng, toàn thể
cán bộ, nhân viên SCB – chi nhánh Hà Nội nói chung, em đã mạnh dạn đi sâu
nghiên cứu đề tài "Giải pháp hoàn thiện bảo đảm tiền vay tại ngân hàng
TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội" để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu, em muốn tìm hiểu sâu về các hình thức
bảo đảm tiền vay, rủi ro tiền vay, tác dụng của việc bảo đảm tiền vay tới các
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
chủ thể có liên quan. Trên cơ sở những lý luận chung đó, em cũng muốn đi


sâu nghiên cứu về thực trạng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn
– chi nhánh Hà Nội để từ đó thấy được mặt được, chưa được trong công tác
bảo đảm tiền vay cũng như những nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó. Cuối
cùng là đề xuất về giải pháp, kiến nghị để thực hiện bảo đảm tiền vay tại chi
nhánh.
3.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông thường như
phương pháp thực tiễn, so sánh…kết hợp với cac phương pháp trừu tượng hóa
khoa học, phương pháp duy vật biện chứng…
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được bố cục làm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về bảo đảm tiền vay tại ngân hàng thương
mại.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng TMCP Sài Gòn
– chi nhánh Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động bảo đảm tiền vay tại ngân
hàng TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội.
Dù đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu, song do còn nhiều hạn chế về thời
gian, kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế nên đề tài chắc chắn không
tránh khỏi những sai sót. Chính vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp,
chỉ bảo của các thầy cô giáo cũng như các bạn sinh viên quan tâm.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể cán bộ, nhân viên phòng
Tín dụng và bảo lãnh nói riêng, cán bộ nhân viên ngân hàng TMCP Sài Gòn –
chi nhánh Hà Nội nói chung đã giúp đỡ và chỉ bảo tận tình cho em trong thời
gian thực tập.
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới toàn thể các thầy cô giáo trong
trường đặc biệt là thầy giáo – TS. Hoàng Xuân Quế đã truyền dạy kiến thức
cũng như hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành xong đề tài này.

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẢM BẢO TIỀN VAY TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN – CHI NHÁNH HÀ NỘI
1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.1.Khái niệm
Cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của ngân hàng thương
mại và là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của ngân
hàng. Đây là một mặt của hoạt động tín dụng ngân hàng, thông qua hoạt động
cho vay ngân hàng thực hiện điều hòa vốn trong nền kinh tế dưới hình thức
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
phân phối nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi huy động được từ trong xã hội để
phục vụ nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống.
Có nhiều cách khái niệm về cho vay khác nhau. Theo khoản 1 điều 3
QĐ 1627/2001/QĐ – NHNN về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng với
khách hàng thì: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín
dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời
gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
Như vậy bản chất của cho vay là một giao dịch bằng tiền hoặc tài sản
trên cơ sở có hoàn trả mà thực chất là sự vay mượn dựa trên cơ sở tin tưởng,
tín nhiệm lẫn nhau. Trong đó sự hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất của
cho vay, là nguyên tắc để phân biệt phạm trù cho vay với cấp phát của NSNN.
1.1.2.Các loại hình cho vay
Trong xu thế hội nhập, các ngân hàng đang đứng trước một cuộc cạnh
tranh khốc liệt không những với các ngân hàng trong nước mà còn cả với các
ngân hàng nước ngoài. Do đó để tồn tại và phát triển, buộc các ngân hàng
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ cũng như không ngừng
đa dạng hóa sản phẩm. Điều đó được thể hiện rất rõ trong sự đa dạng và
phong phú của hoạt động cho vay. Tùy thuộc vào đặc điểm và nhu cầu riêng
của từng khách hàng mà ngân hàng sẽ áp dụng hình thức vay phù. Có nhiều
tiêu thức để phân loại hoạt động cho vay, tuy nhiên trên thực tế người ta

thường phân loại theo một số tiêu thức sau:
• Căn cứ vào thời hạn cho vay gồm:
- Cho vay ngắn hạn: thời hạn cho vay dưới 12 tháng và được sử dụng
để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi
tiêu ngắn hạn của cá nhân
- Cho vay trung hạn: Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 đến 3 năm, còn đối với các nước trên
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
thế giới loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 7 năm. Cho vay trung hạn chủ
yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm TSCĐ, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị,
công nghệ….
- Cho vay dài hạn: thời hạn vay trên 3 năm (Việt Nam), trên 7 năm (đối
với các nước trên thế giới). Cho vay dài hạn được cung cấp để đáp ứng các
nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy
mô lớn, các xí nghiệp mới…
• Căn cứ phương thức cho vay, hoạt động cho vay bao gồm:
- Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định, trong một khoảng thời gian xác định và giới hạn đó được gọi là hạn
mức thấu chi.
- Cho vay theo món: là hình thức cho vay được áp dụng đối với khách
hàng có quan hệ không thường xuyên, có nguồn thu không ổn định, không có
điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Đây là hình thức áp dụng đối với cho vay
vốn lưu động của khách hàng, cho vay bù đắp thiếu hụt tài chính tạm thời,
cho vay bắc cầu, cho vay hỗ trợ triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học,
công nghệ; cho vay tiêu dùng trong dân cư…với thời gian cho vay dưới 12
tháng.
- Cho vay theo hạn mức: Đây là hình thức cho vay theo đó ngân hàng
thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể

tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Đây là hình
thức áp dụng đối với các doanh nghiệp có sản xuất kinh doanh ổn định, có
hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và trong sử dụng vốn; có quan hệ tín dụng
thường xuyên với ngân hàng.
- Cho vay luân chuyển: là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hóa.
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
- Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Đây
là hình thức được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho
tài sản cố định hoặc lâu bền.
• Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay bao gồm:
- Cho vay bất động sản: là hình thức cho vay liên quan đến việc mua
sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực
công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là hình thức cho vay ngắn hạn
để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là hình thức cho vay để trang trải các chi phí
sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng…
- Cho vay cá nhân: là hình thức cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu
dùng
• Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng bao gồm:
- Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín
của bản thân khách hàng.
- Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải
có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
• Căn cứ vào xuất xứ tín dụng bao gồm:

- Cho vay trực tiếp: là hình thức cho vay theo đó ngân hàng cấp vốn
trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ
vay cho ngân hàng.
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
- Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn
thanh toán.
• Căn cứ theo rủi ro thì cho vay bao gồm 5 loại sau:
- Vốn vay lành mạnh: là khoản cho vay có khả năng thu hồi cao
- Vốn vay có vấn đề: Các khoản cho vay có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách
hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời
hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị
lớn…
- Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản
thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là khoản nợ không có khả
năng hoàn trả cho ngân hàng, không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp,
cầm cố không đủ thu hồi vốn và lãi cho ngân hàng.
Với cách phân loại này sẽ giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại
tính an toàn của các khoản cho vay, từ đó sẽ có biện pháp thu hồi và trích lập
dự phòng thích hợp.
Như vậy phân loại cho vay giúp các ngân hàng thương mại quản lý và
sử dụng vốn tín dụng hiệu quả. Song bên cạnh đó vẫn có rủi ro xảy ra vì rui ro
là tiềm ẩn, là tất yếu, chỉ có thể hạn chế chứ không thể loại trừ.
1.2. Hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay
Hoạt động cho vay luôn luôn tiềm ẩn rủi ro, để đảm bảo an toàn hiệu

quả trong hoạt động cho vay, tránh rủi ro đổ vỡ đối với từng ngân hàng và hệ
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
thống các tổ chức tín dụng, pháp luật cho vay các nước đều có những quy
định nhằm đảm bảo an toàn trong cho vay. Tại Việt Nam, theo nghị định của
Chính phủ số 178/1999/NĐ – CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của
các tổ chức tín dụng thì" Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng
các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi
được các khoản nợ đã cho khách hàng vay"
Đứng trên góc độ của người vay, bảo đảm tiền vay có những đặc trưng
cơ bản sau:
- Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm: bảo đảm
tiền vay không chỉ là nguồn thu nợ của ngân hàng mà còn có ý nghĩa thúc dục
người đi vay phải trả nợ, nếu không họ sẽ mất tài sản. Nhưng nếu giá trị của
tài sản nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm thì người vay dễ có động cơ không trả
nợ.
- Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ: mức độ thanh khoản của tài
sản có quan hệ đến lợi ích của người cho vay. Mức độ thanh khoản thấp hay
nói cách khác là tài sản khó bán thường khó được ngân hàng chấp nhận. Mức
độ thanh khoản trung bình có thể chấp nhận được nhưng phải tính đến chi phí
do kéo dài thời gian xử lý.
- Tài sản phải có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu
tiên về xử lý tài sản. Đặc trưng này thể hiện được các mặt sau: tài sản thuộc
sở hữu hợp pháp của người đi vay hoặc người bảo lãnh và được pháp luật cho
phép giao dịch, đồng thời phải có đủ cơ sở pháp lý để ngân hàng – chủ thể
cho vay được quyền ưu tiên xử lý tài sản nhằm thu nợ khi người đi vay không
thanh toán đúng hạn.
1.2.2. Sự cần thiết của hoạt động bảo đảm tiền vay đối với ngân hàng
NHTM là doanh nghiệp đặc biệt – kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ
“vay để cho vay”. Do đó, nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thoát (không

Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
thu hồi được) thì trước tiên làm cho tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng không
có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Nếu mức độ lớn có thể dẫn đến sự
sụp đổ của ngân hàng. Bởi vậy, bảo đảm tiền vay chính là biện pháp hữu hiệu
để giảm thiểu những rủi ro trong hoạt động tín dụng. Bảo đảm tiền vay giúp
ngân hàng có đủ cơ sở pháp lý để có nguồn thu nợ thứ hai ngoài nguồn thu nợ
thứ nhất. Như ta đã biết, khi cho vay, ngân hàng đã xác định nguồn thu nợ thứ
nhất của mình là doanh thu thực tế đối với cho vay ngắn hạn, từ khấu hao và
lợi nhuận đối với cho vay trung và dài hạn; là thu nhập cá nhân như tiền
lương, các khoản thu nhập tài chính (lãi tiền gửi, cổ tức, trái tức…) và các
khoản thu nhập khác trong cho vay tiêu dùng. Các nguồn thu nợ thứ nhất này
thể hiện dưới hình thức lưu chuyển tiền tệ. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh
doanh có hàng ngàn lý do dẫn đến nguồn thu nợ thứ nhất không thực hiện
được, nếu không có một nguồn bổ sung tất yếu ngân hàng sẽ gặp rủi ro. Do
đó, bảo đảm tiền vay là một yêu cầu tất yếu, khách quan để bảo vệ lợi ích của
mình.
Mặt khác, đảm bảo tiền vay sẽ hướng cho khách hàng phải sử dụng vốn
vay có hiệu quả để có khả năng trả nợ cho ngân hàng và nhận lại tài sản.
Khách hàng chỉ có thể nhận lại tài sản bảo đảm và các giấy tờ có liên quan khi
đã trả hết nợ gốc và lãi cho khách hàng. Như vậy với việc áp dụng bảo đảm
tiền vay, khách hàng sẽ có trách nhiệm hơn trong quản lý và sử dụng vốn vay,
điều đó cũng có nghĩa là hiệu quả của vốn vay cũng được bảo đảm, khả năng
hoàn trả của khách hàng cao hơn, cùng với đó vốn vay sẽ thực sự đem lại lợi
ích cho chủ thể vay vốn.
Hơn nữa, hoạt động của hệ thống NHTM trong nền kinh tế mang tầm
quan trọng ví như hệ thống huyết mạch của cơ thể. Do đó, một nền kinh tế
phát triển khi và chỉ khi có một thị trường tài chính nói chung và một hệ
thống NHTM hoạt động vững mạnh. Song một thực tế hiển nhiên là rủi ro
Lê Thị Quý Tài chính 46B

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
luôn luôn tồn tại song hành và thường trực trong hoạt động kinh doanh của
NHTM. Ta biết rằng, nếu có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng nào đó, dù
chỉ ở một ngân hàng và chỉ ở một mức nào đó cũng sẽ đe doạ đến tính an toàn
và ổn định của toàn hệ thống. Vì vậy bảo đảm tiền vay có vai trò vô cùng
quan trọng, nếu được thực hiện tốt không những hạn chế được nợ quá hạn, nợ
khó đòi, giảm rủi ro tổn thất… từ đó sẽ tạo ra môi trường kinh doanh tiền tệ
ổn định, phát triển lành mạnh trên cơ sở có sự ràng buộc trách nhiệm và chia
sẻ rủi ro của các bên. Ngược lại, một môi trường kinh doanh tiền tệ ổn định sẽ
là tiền đề để cho ngân hàng thương mại phát triển an toàn.
Như vậy, bảo đảm tiền vay là tất yếu, là khách quan, là một trong
những điều kiện để một ngân hàng có thể tồn tại và phát triển.
1.2.3. Các hình thức bảo đảm tiền vay
Khách hàng đến với ngân hàng ngày càng đa dạng với nhu cầu ngày
càng cao, do đó để phục vụ tốt hơn các ngân hàng cần sử dụng linh hoạt các
hình thức bảo đảm tiền vay. Mặt khác, mức độ rủi ro của mỗi khoản vay là
khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố như: thời gian, mục đích sử dụng vốn
vay, tư cách của chủ thể vay vốn,… nên đối với mỗi khoản vay, ngân hàng sẽ
đưa ra biện pháp bảo đảm tiền vay thích hợp. Tùy vào từng trường hợp cụ thể
mà ngân hàng thực hiện bảo đảm tiền vay theo một trong các hình thức dưới
đây:
1.2.3.1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Theo khoản 2 điều 2 nghị định 178/1999/NĐ – CP thì: "Cho vay có bảo
đảm bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa
vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản
cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc bảo
lãnh bằng tài sản của bên thứ ba".
a) Thế chấp tài sản
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế

Theo quy định tại điều 342 Bộ luật dân sự 2005 thì "thế chấp tài sản là
việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự đối với bên kia và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế
chấp. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên cũng có thể thoả thuận
giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp".
 Các hình thức thế chấp
Theo quy định của luật dân sự và luật đất đai có hai loại tài sản thế
chấp: Bất động sản và giá trị quyền sử dụng đất. Ngoài ra, tàu biển và máy
bay cũng được dùng làm tài sản thế chấp.
- Bất động sản theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 “ là các tài sản
gồm: đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản
gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai;
các tài sản khác do pháp luật quy định”. Ngoài ra còn bao gồm cả hoa lợi, lợi
tức, khoản tiền bảo hiểm và các quyền phát sinh từ bất động sản thế chấp. Tất
cả bất động sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp và cá nhân
đều được thế chấp để vay vốn. Riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước khi thế
chấp toàn bộ dây chuyền công nghệ chính phải được cơ quan quyết định
thành lập doanh nghiệp đồng ý bằng văn bản.
- Giá trị quyền sử dụng đất: Theo quy định của pháp luật Việt Nam,
đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước
thực hiện việc giao đất hoặc cho thuê đất đối với cá nhân, hộ gia đình, tổ chức
kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội
sử dụng ổn định lâu dài. Trong các chủ thể được giao đất và cho thuê nói trên,
chỉ có cá nhân, hộ gia đình và tổ chức kinh tế mới được thế chấp vay vốn
ngân hàng. Tuy nhiên cần phân biệt trường hợp được phép thế chấp giá trị
quyền sử dụng đất với trường hợp không được phép thế chấp giá trị quyền sử
dụng đất. Những trường hợp được phép thế chấp giá trị quyền sử dụng đất,
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
đương nhiên được phép thế chấp tài sản sở hữu gắn liền với đất. Còn những

trường hợp như đất do nhà nước giao cho tổ chức kinh tế không thu tiền, đất
thuê trả tiền hàng năm thì chỉ được phép thế chấp tài sản sở hữu gắn liền với
quyền sử dụng đất, không được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất.
Hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản thế chấp cũng thuộc
tài sản thế chấp, nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định; trường
hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản
thế chấp.
 Phân loại thế chấp:Có nhiều cách phân loại thế chấp như sau:
• Căn cứ vào số lần thế chấp thì thế chấp bao gồm thế
chấp thứ nhất và thế chấp thứ hai:
- Thế chấp thứ nhất: là việc thế chấp tài sản để bảo đảm cho món nợ
thứ nhất. Cần lưu ý rằng thế chấp thứ nhất không có nghĩa là lần đầu tiên đem
tài sản đi thế chấp cho một khoản vay, mà thế chấp thứ nhất được xác định
trong mối tương quan giữa các khoản vay có thế chấp, tức là việc sử dụng một
tài sản làm bảo đảm cho nhiều khoản vay và thế chấp cho khoản vay đầu tiên
đang tồn tại gọi là thế chấp thứ nhất.
Thế chấp thứ nhất có hai trường hợp: Thế chấp cho một bên cho vay và
thế chấp cho nhiều bên cho vay dưới hình thức hợp vốn (đồng tài trợ). Trong
trường hợp thế chấp cho nhiều khoản vay hợp vốn, việc quản lý tài sản và
giấy tờ của tài sản bảo đảm do một ngân hàng đại diện thực hiện.
- Thế chấp thứ hai: Là hình thức thế chấp, trong đó người đi vay sử
dụng phần giá trị tài sản thế chấp và khoản nợ thứ nhất được bảo đảm bằng tài
sản đó để bảo đảm cho khoản nợ thứ hai.
Trong thế chấp để thực hiện nhiều nghĩa vụ (thế chấp thứ nhất và thứ
hai) có một số điểm lưu ý sau:
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
- Trong trường hợp phải xử lý tài sản thế chấp để thanh toán một khoản
nợ đến hạn, thì các khoản nợ khác chưa đến hạn, cũng được coi là đến hạn.
- Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký thế

chấp.
- Theo quy định hiện hành thế chấp thứ nhất và thế chấp thứ hai chỉ
được thực hiện tại một tổ chức tín dụng.
"Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) là việc bên
bảo lãnh cam kết với tổ chức tín dụng về việc sử dụng tài sản thuộc quyền sở
hữu, giá trị quyền sử dụng đất của mình, đối với doanh nghiệp nhà nước là tài
sản thuộc quyền quản lý, sử dụng để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách
hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay thực hiện không đúng nghĩa
vụ trả.
• Căn cứ vào tính chất pháp lý thì thế chấp gồm thế chấp pháp
lý và thế chấp công bằng.
- Thế chấp pháp lý: là hình thức thế chấp mà trong đó người đi vay
(người thế chấp) thỏa thuận chuyển quyền sở hữu cho ngân hàng khi không
thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Theo hình thức này, khi người đi vay không
thanh toán được nợ ngân hàng được quyền bán tài sản hoặc cho thuê với tư
cách là người chủ sở hữu mà không cần thực hiện các thủ tục tố tụng để nhờ
sự can thiệp của tòa án.
- Thế chấp công bằng (thế chấp thông thường): là hình thức thế chấp
mà trong đó ngân hàng chỉ nắm giữ giấy chứng nhận sở hữu tài sản hoặc giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm cho món vay. Khi người vay
không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng, việc xử lý tài sản phải dựa trên
cơ sở thỏa thuận giữa người cho vay và người đi vay hoặc phải nhờ đến sự
can thiệp của tòa án, nếu có tranh chấp.
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
Hai hình thức này đều có những ưu và nhược điểm riêng. Nếu thế chấp
pháp lý một mặt tạo điều kiện thuận lợi trong việc xử lý tài sản bảo đảm để
thu hồi nợ, mặt khác hình thức này lại tốn kém chi phí như chi phí đăng ký
giao dịch bảo đảm, chi phí công chứng…và mỗi khi thay đổi hoặc kết thúc
hợp đồng lại phải tiến hành chuyển giao lại quyền sở hữu hoặc làm lại hợp

đồng. Còn đối với thế chấp công bằng thì thủ tục đơn giản, ít tốn kém nhưng
lại khó khăn cho ngân hàng khi xử lý tài sản bảo đảm.
• Căn cứ vào tính chất bất động sản thế chấp thì thế chấp bao gồm: thế
chấp toàn bộ và thế chấp một phần bất động sản.
Theo quy định của pháp luật người đi vay có thế chấp toàn bộ bất động
sản hoặc thế chấp một phần. Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản
có vật phụ, thì vật phụ của bất động sản cũng thuộc tài sản thế chấp. Trong
trường hợp thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì vật phụ chỉ thuộc
tài sản thế chấp nếu có thỏa thuận. Riêng đối với thế chấp quyền sử dụng đất,
thì nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng trồng vườn cây và các tài sản khác
của người thế chấp gắn liền với đất chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu có thỏa
thuận.
Trong thực tế các ngân hàng thường nhận thế chấp toàn bộ bất động
sản. Thế chấp một phần chỉ áp dụng trong trường hợp phần tài sản thế chấp có
thể phát mại riêng mà không ảnh hưởng đến quyền lợi của bên nhận thế chấp.
Đối với các tài sản gắn liền với đất như nhà ở, các công trình xây dựng chỉ
được nhận thế chấp cùng với giá trị quyền sử dụng đất.
• Căn cứ vào phương thức thế chấp gồm thế chấp trực tiếp và thế chấp
gián tiếp.
Thế chấp trực tiếp hay còn gọi là thế chấp bằng tài sản hình thành từ
vốn vay là hình thức thế chấp mà tài sản thế chấp do vốn vay tạo nên.
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
Thế chấp gián tiếp là hình thức thế chấp mà trong đó tài sản thế chấp
mà tài sản dùng vốn vay để mua là hai tài sản khác nhau.
b) Cầm cố tài sản
Cầm cố tài sản là việc bên đi vay giao tài sản là động sản thuộc sở hữu
của mình cho bên cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ; nếu tài sản
cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thỏa thuận bên cầm cố vẫn
giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho bên thứ ba.

• Theo khoản 2.1 của thông tư số 07/2003/TT- NHNN quy định tài sản
cầm cố bao gồm:
- Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu, hàng tiêu dùng, kim khí quý, đá quý và các vật có giá trị khác;
- Ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền gửi tại tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán bằng tiền Việt Nam và ngoại tệ.
- Trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết
kiệm, thương phiếu, các giấy tờ khác trị giá được bằng tiền. Riêng đối với cổ
phiếu của tổ chức tín dụng phát hành, khách hàng vay không được cầm cố tại
chính tổ chức tín dụng đó;
- Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp,
quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiềm, các quyền tài sản khác phát
sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lý khác;
- Quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, kể cả trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
- Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo quy định của pháp luật;
- Tầu biển theo quy định của Bộ Luật Hàng hải Việt Nam, tầu bay theo
quy định của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam trong trường hợp được
cầm cố,
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
- Tài sản hình thành trong tương lai là động sản hình thành sau thời
điểm ký kết giao địch cầm cố và sẽ thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố như
hoa lợi, lợi tức, tài sản hình thành từ vốn vay, các động sản khác mà bên cầm
cố có quyền nhận;
- Các tài sản khác theo quy định của pháp luật
- Lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố cũng thuộc tài sản
cầm cố, nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định; trường hợp tài
sản cầm cố được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản cầm cố.
- Đối với quyền về tài sản quy định tại mục thứ 4, 5, 6 của quy định

này, tổ chức tín dụng nhận cầm cố khi xác định được giá trị cụ thể do các bên
thỏa thuận, hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định
• Phân loại cầm cố
- Căn cứ vào tính chất quản lý, tài sản cầm cố được chia ra làm hai loại:
có đăng ký quyền sở hữu và không đăng ký quyền sở hữu. Đối với tài không
đăng ký quyền sở hữu, tài sản cầm cố phải được chuyển giao cho bên cho
vay, ngược lại đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì tài sản có thể do
bên cho vay, đi vay hoặc bên thứ ba giữ theo thỏa thuận của bên cho vay và
bên đi vay.
- Ngoài ra cầm cố tài sản cũng được phân thành cầm cố công bằng và
cầm cố pháp lý, cầm cố thứ nhất và cầm cố thứ hai, cầm cố trực tiếp và cầm
cố gián tiếp tùy theo từng tiêu chí phân loại như thế chấp tài sản.
c) Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Bảo đảm tài sản hình thành từ vốn vay là hình thức trong đó khách hàng
vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay (là tài sản của khách hàng vay mà giá
trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của tổ chức tín
dụng) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó.
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
Hình thức bảo đảm này tiềm ẩn nhiều rủi ro vì tại thời điểm cho vay, tài
sản đó chưa hình thành, nó được hình thành trong tương lai, mà trong tương
lai thì khó có thể dự đoán chính xác được các điều xảy ra, liệu tài sản đó có
theo đúng như cam kết ban đầu, tính thanh khoản có cao không… Do đó, để
thực hiện hình thức này ngân hàng cần hết sức cẩn trọng. Để có thể vay vốn
bằng hình thức bảo đảm này thì điều kiện trước hết phải là những khách hàng
có tín nhiệm với tổ chức tín dụng, có khả năng tài chính, có những nguồn thu
hợp pháp có khả năng thu được trong thời gian vay vốn; mức vốn tự có của
khách hàng phải đáp ứng được một trong các điều kiện dưới đây mới áp dụng
hình thức này:
- Có mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất,

kinh doanh, dịch vụ, đời sống tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư;
- Có mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, đời sống cộng với giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng
các biện pháp cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư;
- Có giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng một hoặc nhiều biện pháp cầm
cố, thế chấp tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư của dự án hoặc phương
án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
Thủ tục và hợp đồng cầm cố, thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn
vay được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay và hướng
dẫn của Thông tư này về việc cầm cố, thế chấp bằng tài sản hình thành trong
tương lai.
d) Bảo lãnh của bên thứ ba
 Khái niệm : Bảo lãnh là việc bên thứ ba cam kết với bên cho
vay (người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay (người
được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ.
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
 Bảo đảm bằng bảo lãnh thường xuất hiện các chủ thể sau:
- Người bảo lãnh (guarantor): là người thực hiện nghĩa vụ thay cho
người đi vay đối với người cho vay (ngân hàng). Người bảo lãnh có thể là cá
nhân hoặc pháp nhân. Một bảo lãnh có thể có nhiều người tham gia cùng bảo
lãnh. Trong trường hợp này những người tham gia bảo lãnh phải liên đới chịu
trách nhiệm và ngân hàng cho vay có quyền yêu cầu bất cứ ai trong số những
người bảo lãnh phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên nếu chứng
thư bảo lãnh có quy định phần bảo lãnh cho từng người cụ thể thì miễn trừ
nghĩa vụ liên đới.
- Người nhận bảo lãnh: là người chủ nợ, người hưởng thụ bảo lãnh.
Trong quan hệ tín dụng đó là các ngân hàng cho vay.
- Người được bảo lãnh: là người đi vay (con nợ), người có nghĩa vụ

phải thanh toán nợ cho ngân hàng cho vay.
 Các hình thức bảo lãnh
• Bảo lãnh có bảo đảm bằng tài sản hoặc bằng uy tín:
- Bảo lãnh có bảo đảm bằng tài sản là bên bảo lãnh phải có tài sản để
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Việc bảo lãnh bằng tài sản có thể kèm theo biện
pháp thế chấp hoặc cầm cố để thực hiện nghĩa vụ hoặc không do tổ chức tín
dụng và bên bảo lãnh thỏa thuận. Đây là hình thức bảo đảm kép, nhằm đề
phòng khi người bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ thì ngân hàng có thể
xử lý tài sản kèm theo bảo lãnh.
- Bảo lãnh bằng uy tín là hình thức bảo lãnh chỉ dựa vào uy tín của
người bảo lãnh. Theo quy định của pháp luật hiện hành bên bảo lãnh không
phải là tổ chức tín dụng chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của
mình. Còn các tổ chức tín dụng được phép bảo lãnh vay bằng uy tín và khả
năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh.
• Bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
Người bảo lãnh có thể bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ số nợ phải thanh
toán cho ngân hàng. Trong trường hợp bảo lãnh một phần thì phải ghi rõ số
tiền bảo lãnh. Những trường hợp pháp luật quy định cho vay phải có bảo đảm
thì chỉ áp dụng bảo lãnh một phần trong trường hợp phần còn lại phải có tài
sản thế chấp hoặc cầm cố, nếu không bắt buộc phải có bảo lãnh toàn bộ.
• Bảo lãnh riêng biệt và bảo lãnh duy trì
- Bảo lãnh riêng biệt được áp dụng cho một số tiền vay cụ thể theo hợp
đồng tín dụng và được hạch toán riêng trên tài khoản cho vay.
- Bảo lãnh duy trì là hành vi bảo lãnh cho một loạt các giao dịch và
mức bảo lãnh theo hạn mức tối đa. Phương thức bảo lãnh này áp dụng khi cho
vay bằng kỹ thuật thấu chi trên tài khoản vãng lai.
1.2.3.2.Bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản

Khái niệm: Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản là việc ngân hàng
cho khách hàng vay vốn chỉ dựa trên uy tín, khả năng trả nợ của khách hàng
vay hay của bên bảo lãnh bao gồm: ngân hàng chủ động lựa chọn khách hàng
để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản; ngân hàng cho vay không có bảo
đảm theo chỉ thị của Chính phủ; bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể
chính trị - xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo. Cụ thể:
Ngân hàng thương mại quốc doanh cho vay không có tài sản bảo đảm
theo chỉ định của Chính phủ.
Các ngân hàng thương mại quốc doanh cho vay không có tài sản bảo
đảm áp dụng đối với khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư thuộc
chương trình kinh tế đặc biệt, chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước,
chương trình kinh tế - xã hội và đối với một số khách hàng thuộc đối tượng
được hưởng các chính sách tín dụng ưu đãi về tiền vay vốn theo quy định tại
các văn bản pháp luật của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ.
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
Ngân hàng chủ động lựa chọn khách hàng để cho vay không có tài sản
bảo đảm.
Các ngân hàng thương mại được chủ động lựa chọn khách hàng vay để
cho vay không có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn, trung, dài hạn
để thực hiện các dự án đầu tư phát triển hoặc phương án sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và đời sống đối với khách hàng vay đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
- Sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả nợ gốc, lãi vốn vay đúng hạn
trong quan hệ vay vốn với tổ chức tín dụng cho vay hoặc các tổ chức tín dụng
khác.
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có
hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp
với quy định của pháp luật.
- Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ
- Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ

chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín
dụng; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo
đảm bằng tài sản theo quy định.
Bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội cho cá
nhân, hộ nghèo vay vốn.
Các ngân hàng thực hiện cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối
với cá nhân, hộ gia đình nghèo là thành viên của các tổ chức đoàn thể chính
trị - xã hội như: Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam,
Tổng Liên Đoàn lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
1.2.4.Quy trình thực hiện các nghiệp vụ bảo đảm tiền vay
Quy trình bảo đảm tiền vay gồm 5 bước sau đây:
Bước 1: Nhận và kiểm tra hồ sơ bảo đảm
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
Bộ phận tín dụng là đầu mối tiếp xúc và hướng dẫn khách hàng lập hồ
sơ tài sản bảo đảm. Trong quá trình này, bộ phận tín dụng có trách nhiệm xác
minh sơ bộ tính pháp lý, mức độ khả dụng tài sản có phù hợp với điều kiện
nhận bảo đảm tại ngân hàng và quy định pháp luật, trong trường hợp:
-Tài sản không đủ điều kiện: Thông báo cho khách hàng và đề nghị đổi
tài sản khác.
- Tài sản đủ điều kiện: Bộ phận tín dụng gửi giấy đề nghị định giá tài sản
(kèm bản sao các giấy tờ sở hữu tài sản) cho bộ phận định giá.
Bước 2: Thẩm định tài sản bảo đảm
Thẩm định tài sản bảo đảm là một khâu hết sức quan trọng, nó là khâu
quyết định mức cho vay. Căn cứ để thẩm định bao gồm:
- Hồ sơ tài liệu và thông tin do khách hàng cung cấp
- Cán bộ tín dụng khảo sát thực tế, khẳng định lại các thông tin thu
thập được từ khách hàng và phát hiện những vấn đề mới cần thẩm
định tiếp.

- Các cơ quan có thẩm quyền cấp các loại giấy tờ liên quan tới tài sản
bảo đảm.
- Các nguồn thông tin khác: chính quyền địa phương, công an, tòa án,
cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, các ngân hàng khác…
Nội dung thẩm định
 Thẩm định giá trị pháp lý của tài sản bảo đảm nợ vay:
- xem xét tính hợp pháp của tài sản bảo đảm, có thuộc loại tài sản cấm
hay không?
- Tài sản có đang cầm cố, thế chấp ở một tổ chức tín dụng khác không?
- Có bị tranh chấp pháp lý hay không?
 Thẩm định về tính sở hữu của tài sản: Phải trả lời được câu hỏi, tài sản
thuộc sở hữu của ai?
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
Đối với loại có đăng ký quyền sở hữu thì việc thẩm định tính sở hữu
của tài sản bảo đảm thông qua việc kiểm tra giấy tờ sở hữu tài sản. Còn đối
với những loại tài sản bảo đảm không đăng ký quyền sở hữu thì ngân hàng
cần xem xét tính sở hữu của tài sản bảo đảm từ các nguồn thông tin khác như:
tham khảo ý kiến của trung tâm phòng ngừa rủi ro, các người cư trú gắn với
tài sản bảo đảm tiền vay…
 Thẩm định tính hiện hữu của tài sản: Tài sản có thực sự tồn tại hay
không? Về số lượng, chất lượng như thế nào?
 Thẩm định giá trị của tài sản: Giá trị tài sản là bao nhiêu? Bộ phận định
giá thông báo cho bộ phận tín dụng thời gian đi định giá và yêu cầu bổ túc hồ
sơ tài sản (nếu có). Bộ phận tín dụng hẹn khách hàng thời gian định giá và đề
nghị khách hàng chuẩn bị hồ sơ khi cán bộ ngân hàng xuống hiện trường định
giá.
 Thẩm định khả năng phát mại của tài sản: Tính thanh khoản của tài sản
đó như thế nào? Thị trường tiêu thụ hiện tại như thế nào? Dự đoán
trong tương lai, có nhiều loại tài sản khác thay thế hay không?

Bước 3: Lập hợp đồng bảo đảm
Sau khi thẩm định, hai bên đã thỏa thuận được các điều kiện về tín
dụng, bộ phận tín dụng cios nhiệm vụ soạn thảo hợp đồng bảo đảm tiền vay
trình giám đốc hoặc người được ủy quyền ký. Hợp đồng được lập thành 3 bản
chính, khách hàng giữ 01 bản, ngân hàng giữ 02 bản được lưu ở phòng tín
dụng và Ngân quỹ mỗi nơi một bản. Tùy theo từng hình thức và loại tài sản
bảo đảm mà hợp đồng bảo đảm có thể nằm trong hợp đồng tín dụng hoặc có
thể lập thành hợp đồng bảo đảm riêng. Đối với tài sản bảo đảm hình thành từ
vốn vay, khi tài sản đã đưa vào sử dụng các bên phải lập phụ lục hợp đồng
cầm cố, thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay, trong đó mô tả đặc điểm và
xác định giá trị tài sản.
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
Hợp đồng cầm cố thế chấp có thể là hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng
dân sự, điều này phụ thuộc vào bản chất pháp lý của hợp đồng tín dụng, vì
hành vi cầm cố thế chấp tài sản nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của hợp
đồng tín dụng.
Tùy theo hình thức bảo đảm mà hợp đồng bảo đảm tiền vay phải có
những thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật như công chứng hợp
đồng bảo đảm hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm với cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền.
Sau khi hợp đồng cầm cố thế chấp đã được ký kết, các bên tham gia
hợp đồng hoặc người được ủy quyền tiến hành đăng ký giao dịch bảo đảm,
tiến hành nhập tài sản vào kho.
Bước 4: Tái định giá tài sản cầm cố, thế chấp và xử lý sau tái định giá
Tái định giá tài sản được thực hiện định kỳ theo quy định của ngân
hàng hoặc đột xuất khi phát hiện tài sản bị dịch chuyển, thay đổi ảnh hưởng
lớn đến giá trị tài sản. Bộ phận tín dụng chủ động đề xuất việc định giá lại tài
sản bảo đảm và kết hợp với bộ phận định giá thực hiện.Việc tái định giá tài
sản phải được lập thành biên bản và biên bản định giá lại là một phụ kiện của

biên bản định giá. Bộ phận tín dụng chịu trách nhiệm báo cáo lại lãnh đạo các
trường hợp sau: - Giá trị tài sản sau định giá lại không đủ bảo đảm tiền vay
- Tài sản bị mất mát hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được
nữa.
Khi đó ngân hàng cần yêu cầu khách hàng bổ sung thêm giá trị tài sản
bảo đảm hoặc thu hồi nợ phần thiếu bảo đảm.
Nếu tái định giá mà giá trị tài sản bảo đảm tăng thì ngân hàng có thể
tăng dư nợ cho khách hàng nếu khách hàng có nhu cầu.
Bước5: Giải chấp
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
Khi người vay thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi, ngân hàng sẽ
trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc tài sản bảo đảm cho người vay
đồng thời lập giấy xác nhận giải tỏa tài sản bảo đảm để gửi tới các đơn vị có
liên quan, tiến hành thanh lý hợp đồng bảo đảm, đồng thời tiến hành thông
báo giải chấp tới các phòng ban: phòng công chứng, phòng tài nguyên môi
trường, trung tâm đăng ký giao dịch động sản.
Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ khi đến hạn thì ngân
hàng có thể tiến hành xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận trong hợp đồng
bảo đảm. Trường hợp các bên không xử lý được tài sản bảo đảm theo phương
thức đã thỏa thuận, các bên buộc phải xử lý tại tòa án.
Về phương thức xử lý: Nếu các bên có thỏa thuận, có thể xử lý theo
một trong các phương thức sau:
- Bán tài sản bảo đảm
- Nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ
được bảo đảm
- Nhận các khoản tiền, tài sản mà bên thứ ba phải trả hoặc phải giao
cho bên bảo đảm.
Trong trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản
bảo đảm, thì tài sản bảo đảm được đấu giá theo quy định của pháp luật. Riêng

đối với tài sản bảo đảm có thể xác định được giá cụ thể, rõ ràng trên thị
trường thì người xử lý tài sản được bán theo giá thị trường mà không phải qua
thủ tục bán đấu giá, đồng thời thông báo cho bên bảo đảm và các bên cùng
nhận bảo đảm khác (nếu có). Sau khi xử lý tài sản bảo đảm mà vẫn chưa thu
hồi đủ khoản vay, thì ngân hàng tiếp tục truy đòi nợ đối với khách hàng vay
vốn.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo đảm tiền vay
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
Lê Thị Quý Tài chính 46B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Hoàng Xuân Quế
Bảo đảm tiền vay là hoạt động để phòng ngừa rủi ro cho ngân hàng khi
khách hàng không trả được nợ. Hoạt động này có thực hiện được tốt hay
không chịu sự chi phối không nhỏ từ chính các ngân hàng, ví dụ như nhiều
khi nhận định chưa đúng, chưa đầy đủ về khách hàng; việc mở rộng mạng
lưới hoạt động ngân hàng và tốc độ tăng trưởng quá nhanh, không tương xứng
với việc nâng cao kiểm soát rủi ro; một số ngân hàng còn chấp hành quy chế
cho vay, bảo lãnh chưa nghiêm túc, gia hạn nợ tùy tiện, làm trong sạch tài
chính giả tạo, chạy theo thành tích, dẫn đến khách hàng lợi dụng gây ra việc
thất thoát tài sản; một số ngân hàng quá chú trọng vào cho vay các dự án lớn,
vào một nhóm khách hàng có liên quan với nhau, khi DN gặp khó khăn sẽ
dẫn đến sự khó khăn cho ngân hàng; năng lực cán bộ còn yếu kém, đặc biệt ở
khâu thẩm định cho vay. Cụ thể như sau:
 Chiến lược kinh doanh, mục tiêu của ngân hàng trong từng thời kỳ
Trong mỗi giai đoạn, ngân hàng thương mại đều có những chính sách
cho vay cụ thể, có thể là mở rộng hay thắt chặt. Đây là một nhân tố ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động bảo đảm tiền vay. Nếu ngân hàng muốn đẩy mạnh
hoạt động tín dụng, sẽ mở rộng danh mục tài sản bảo đảm, cũng như linh hoạt
hoạt hơn trong công tác bảo đảm tiền vay nhưng vẫn phải bảo đảm an toàn.
Ngược lại, khi ngân hàng muốn thu hẹp quy mô tín dụng, ngoài công cụ là
chính sách lãi suất, thì sử việc ra những quy định khắt khe hơn về tài sản bảo

đảm cũng là một công cụ sử dụng vô cùng hiệu quả.
 Chất lượng của cán bộ tín dụng ngân hàng
Trong xu thế hội nhập, cạnh tranh, khi sức mạnh của đồng tiền ngày
càng có vị trí chiếm lĩnh thì có không ít những cán bộ đã bị lu mờ, đã đánh
mất đạo đức nghề nghiệp. Trước đồng tiền mua chuộc, họ sẵn sàng định giá
sai tài sản bảo đảm, nối kết cùng khách hàng để cung cấp thông tin sai lệnh
lừa đảo ngân hàng. Đây là một rủi ro rất lớn cho ngân hàng, khi khách hàng
Lê Thị Quý Tài chính 46B

×