Tải bản đầy đủ (.pdf) (336 trang)

Giáo Trình Dân số và phát triển PGS.TS Nguyễn Nam Phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.28 MB, 336 trang )


1
Tr−êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
KHOA KINH TÕ QU¶N Lý NGUåN NH¢N LùC
Bé m«n d©n sè vμ ph¸t triÓn


Chủ biên: PGS.TS Nguyễn Nam Phương





Gi¸o tr×nh
d©n sè vμ ph¸t triÓn
(Dùng cho sinh viên các trường cao đẳng và đại học)











Nhμ xuÊt b¶n ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
Hμ Néi - 2011




328
Giáo trình
dân số v phát triển




Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân
Địa chỉ: 207 Đờng Giải Phóng, Hà Nội
Website: -Email:
Điện thoại: (04) 38696407-36282486-36282483
Fax: (04) 36282485






Chịu trách nhiệm xuất bản: GS.TS. Nguyễn Thnh Độ
Chịu trách nhiệm nội dung: PGS.TS Nguyễn nam phơng
Biên tập kỹ thuật: Ngọc Lan - Trịnh Quyên
Chế bản vi tính: Nguyễn Lan
Thiết kế bìa: 3D H nội
Sửa bản in v đọc sách mẫu: Ngọc Lan - Trịnh Quyên







In 1.000 cuốn, khổ 16 x 24 cm tại Xởng in Trờng ĐHKTQD và Công ty in Phú Thịnh
Mã số ĐKXB: 597-2011/CXB/02-109/ĐHKTQD và ISBN: 978-604-909-682-2.
In xong và nộp lu chiểu quý III năm 2011.


i
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ
PHÁT TRIỂN 3
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 3
1.1.1. Khái niệm dân số 3
1.1.2. Khái niệm phát triển 4
1.1.3. Khái niệm phát triển bền vững 10
1.1.4. Nội dung phát triển bền vững 12
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN. 25
1.2.1. Tác động của dân số đến phát triển 26
1.2.2. Sự tác động của phát triển đến dân số 34
1.3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC 38
1.3.1. Nội dung và nhiệm vụ môn học 38
1.3.2. Các phương pháp nghiên cứu 41
1.3.3. Ý nghĩa của môn học 43
CÂU HỎI ÔN TẬP 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO 44
CHƯƠNG 2: QUY MÔ, CƠ CẤU VÀ CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ 45
2.1. QUY MÔ VÀ PHÂN BỐ DÂN SỐ 45
2.1.1. Quy mô và sự biến đổi quy mô dân số 45
2.1.2. Phân bố dân số 48

2.2. CƠ CẤU DÂN SỐ 51
2.2.1. Cơ cấu tuổi của dân số 51
2.2.2. Cơ cấu giới tính của dân số 53
2.2.3. Tháp dân số 55
2.3. CHẤT LƯỢNG DÂN SỐ 56
2.3.1. Các khái niệm và phạm trù liên quan tới chất lượng dân số 56
2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng dân số 58

ii
2.4. VAI TRÒ CỦA QUY MÔ, CƠ CẤU DÂN SỐ TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 60
2.4.1. Vai trò của quy mô dân số 60
2.4.2. Vai trò của sự thay đổi cơ cấu dân số 63
CÂU HỎI ÔN TẬP 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
CHƯƠNG 3: BIẾN ĐỘNG TỰ NHIÊN DÂN SỐ 72
3.1. MỨC SINH 72
3.1.1. Khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá mức sinh 72
3.1.2. Xu hướng biến động mức sinh và các yếu tố ảnh hưởng 78
3.2. MỨC CHẾT 85
3.2.1. Khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá mức chết 85
3.2.2. Bảng sống (bảng chết) 90
3.2.3. Biến động mức chết và các yếu tố ảnh hưởng 97
3.3. BIẾN ĐỘNG TỰ NHIÊN DÂN SỐ VÀ LÝ THUYẾT QUÁ ĐỘ
DÂN SỐ 103
3.3.1. Đo lường biến động tự nhiên dân số 103
3.3.2. Xu hướng biến động tự nhiên dân số 104
3.3.3. Lý thuyết quá độ dân số 104
CÂU HỎI ÔN TẬP 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 110

CHƯƠNG 4: DI DÂN VÀ ĐÔ THỊ HÓA 112
4.1. DI DÂN 112
4.1.1. Khái niệm, phân loại và các đặc trưng cơ bản 112
4.1.2. Các chỉ tiêu và phương pháp đánh giá di dân 123
4.1.3. Xu hướng di dân và ảnh hưởng của di dân đến phát triển dân số
và KTXH 125
4.2.
ĐÔ THỊ HÓA 133
4.2.1. Khái niệm, phân loại và các nguyên nhân của quá trình đô thị
hóa 133
4.2.2. Một số đặc điểm chủ yếu của đô thị hoá 141


iii
4.2.3. Các thước đo đánh giá đô thị hóa 147
4.3. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN PHÁT TRIỂN DÂN SỐ
VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI 149
4.3.1. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến sự phát triển dân số 149
4.3.2. Ảnh hưởng của đô thị hóa đối với kinh tế-xã hội 150
CÂU HỎI ÔN TẬP 154
TÀI
LIỆU THAM KHẢO 156
CHƯƠNG 5: DỰ BÁO DÂN SỐ VÀ CHÍNH SÁCH DÂN SỐ 157
5.1.
DỰ BÁO DÂN SỐ 157
5.1.1. Khái niệm, nhiệm vụ, phân loại dự báo dân số 157
5.1.2. Các phương pháp dự báo dân số 160
5.2.
CHÍNH SÁCH DÂN SỐ 168
5.2.1. Khái niệm 168

5.2.2. Những mục tiêu và biện pháp của chính sách dân số 168
CÂU
HỎI ÔN TẬP 178
TÀI LIỆU THAM KHẢO 179
CHƯƠNG 6: DÂN SỐ VÀ CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ 180
6.1. DÂN SỐ VÀ NGUỒN LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM 180
6.1.1. Một số khái niệm cơ bản 180
6.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá mối quan hệ dân số-lao động-việc làm 183
6.1.3. Mối quan hệ dân số và nguồn lao động, việc làm (cung, cầu lao
động) 187
6.2. DÂN SỐ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 197
6.2.1. Dân số tác động đến tăng trưởng kinh tế 198
6.2.2. Tăng trưởng kinh tế tác động đến dân số 208
6.3. DÂN SỐ VÀ THU NHẬP, TIÊU DÙNG, TIẾT KIỆM 212
6.3.1. Dân số và thu nhập 212
6.3.2. Dân số và tiêu dùng 213
6.3.3. Dân số và tiết kiệm (tích lũy), đầu tư 215
CÂU HỎI ÔN TẬP 217
TÀI LIỆU THAM KHẢO 217

iv
CHƯƠNG 7: DÂN SỐ VÀ CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 218
7.1. DÂN SỐ VÀ GIÁO DỤC 218
7.1.1. Khái niệm và vai trò của giáo dục 218
7.1.2. Mối quan hệ giữa dân số và giáo dục 219
7.2. DÂN SỐ VÀ Y TẾ 229
7.2.1. Ảnh hưởng của dân số đến y tế 230
7.2.2. Ảnh hưởng của y tế đến dân số 238
7.3. DÂN SỐ VÀ BÌNH ĐẲNG GIỚI 241
7.3.1. Khái niệm và thước đo bình đẳng giới 241

7.3.2. Mối quan hệ giữa dân số và bình đẳng giới 246
7.3.3. Ảnh hưởng của bình đẳng giới đến dân số 249
7.3.4. Ảnh hưởng của bình đẳng giới đến phát triển kinh tế xã hội . 252
CÂU HỎI ÔN TẬP 260
TÀI LIỆU THAM KHẢO 261
CHƯƠNG 8: DÂN SỐ VÀ CÁC VẤN ĐỀ TÀI NGUYÊN, MÔI
TRƯỜNG 262
8.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 262
8.1.1. Môi trường 262
8.1.2. Ô nhiễm môi trường 266
8.1.3. Tài nguyên và cạn kiệt tài nguyên 269
8.2. MỐI QUAN HỆ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA DÂN SỐ VÀ TÀI
NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG 271
8.2.1. Ảnh hưởng của dân số đến nguồn tài nguyên, môi trường 271
8.2.2. Ảnh hưởng của tài nguyên, môi trường đến dân số 291
CÂU
HỎI ÔN TẬP 297
TÀI
LIỆU THAM KHẢO 298
CHƯƠNG 9: LỒNG GHÉP DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN VÀO KẾ
HOẠCH HOÁ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 299
9.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI LỒNG GHÉP DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN
VÀO KẾ HOẠCH HOÁ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI 299


v
9.1.1. Các khái niệm cơ bản 299
9.1.2. Các thành phần cơ bản của lồng ghép dân số phát triển 301
9.1.3. Sự cần thiết phải lồng ghép dân số phát triển trong kế hoạch hóa
phát triển kinh tế xã hội 302

9.2. PHƯƠNG PHÁP LỒNG GHÉP GIỚI VÀO KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA ĐỊA PHƯƠNG 303
9.2.1. Khái niệm, mục tiêu và sự cần thiết tiến hành lồng ghép giới
vào kế hoạch phát triển KT-XH địa phương 303
9.2.2. Các điều kiện để lồng ghép giới trong các kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội địa phương 308
9.2.3. Các bước tiến hành lồng ghép giới trong kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội ở địa phương 313
CÂU HỎI ÔN TẬP 323
TÀI LIỆU THAM KHẢO 323
TÀI LIỆU THAM KHẢO 325



1
LỜI NÓI ĐẦU

Dân số vừa là lực lượng sản xuất vừa là lực lượng tiêu dùng của cải
của xã hội. Vì vậy, qui mô, cơ cấu của dân số quyết định qui mô, cơ cấu của
sản xuất và tiêu dùng. Con người - dân số đóng vai trò trung tâm trong mọi
chương trình, chiến lược phát triển, nó vừa là điều kiện, phương tiện, vừa là
mục tiêu của phát triển. Phát triển kinh tế xã hội dù ở đâu và thời kỳ nào đều
nhằm hướng tới việc phục vụ cho mục tiêu phát triển toàn diện con người.
Dân số và phát triển thường xuyên biến động và bị chi phối bởi nhiều yếu tố
khác nhau. Các yếu tố tác động đến dân số và phát triển rất đa dạng, phong
phú và không ngừng biến đổi.
Kiến thức cũng như những hiểu biết về sự vận động, biến đổi của các
quá trình, các kết quả dân số (sinh, chết, di dân, qui mô, cơ cấu, phân bố và
chất lượng dân số ) và đặt lồng ghép nó trong mối quan hệ tác động qua lại
với các biến số phát triển (kinh tế, xã hội, môi trường), nhận diện được xu

hướng, tính quy luật tác động qua lại giữa chúng là rất quan trọng và cần
thiết, nhất là đối với các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý nói
chung. Lồng ghép các biến dân số với các biến phát triển khi hoạch định
chiến lược phát triển kinh tế xã hội là rất cần thiết. Nó là tiền đề, điều kiện
rất quan trọng để kiểm soát, khai thác, sử dụng triệt để và có hiệu quả cao
các nguồn lực về tài nguyên, thiên nhiên, con người, nâng cao tính khả thi
của các kế hoạch, chương trình phát triển, hiệu lực, hiệu quả trong công tác
quản lý XH, nhằm đạt tới mục tiêu phát triển toàn diện con người- dân số.
Giáo trình Dân số và phát triển ra đời đã, đang và sẽ đáp ứng được những
yêu cầu như vậy. Giáo trình Dân số và phát triển đã được biên soạn, giảng
dạy ở các trường đại học, cao đẳng nói chung và Đại học Kinh tế Quốc Dân
nói riêng từ những năm 1990. Cho đến nay nhiều biến cố lịch sử, kinh tế,
chính trị, xã hội, môi trường đã thay đổi đáng k
ể. Vì vậy, hoàn thiện và
nâng cao chất lượng giáo trình sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo, giảng
dạy, học tập của giáo viên và sinh viên, phổ cập những kiến thức cơ bản về
mối quan hệ giữa dân số và phát triển cho những người quan tâm cũng như

2
cả cộng đồng xã hội. Giáo trình Dân số và phát triển được tập thể các tác
giả của Bộ môn Dân số và Phát triển biên soạn, bổ sung, chỉnh sửa lại cho
phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội, yêu cầu hội nhập và đổi mới
trong các chương trình đào tạo, nhu cầu thiết thực trong quá trình học tập,
nghiên cứu của sinh viên kinh tế và các trường, ngành khác cấp học từ cao
đẳng trở lên, cũng như của nhiều giáo viên giảng dạy môn học này nói
riêng, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách nói chung.
Tham gia biên soạn giáo trình này gồm có:
- PGS.TS Nguyễn Nam Phương chủ biên, biên soạn các chương 1,4,9.
- TS Võ Nhất Trí biên soạn các chương 3,5,6,8.
- Th.S Ngô Quỳnh An biên soạn chương 2.

- Cử nhân Vũ Xuân Đốc, PGS.TS Nguyễn Nam Phương biên soạn
chương 7.
Đây là cuốn giáo trình biên soạn lại cho sinh viên ngoài ngành dân số
nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới về nội dung và phương pháp giảng dạy, nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, giáo trình chắc chắn sẽ không tránh khỏi được những khiếm
khuyết. Tập thể tác giả xin chân thành cảm ơn các thành viên bộ môn và các
nhà khoa học đã đóng góp những ý kiến quí báu để hoàn thiện cuốn giáo
trình này. Chúng tôi mong nhận được thêm các ý kiến đóng góp của các nhà
khoa học, các nhà quản lý và đông đảo bạn đọc để giáo trình tái bản những
lần sau được hoàn thiện hơn. Mọi đóng góp xin gửi về Bộ môn Dân số và
Phát triển, Khoa Kinh tế và Quản lý nguồn nhân lực - Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân - Hà Nội.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 8 tháng 3 năm 2011
Thay mặt các tác giả
Chủ biên
PGS.TS Nguyễn Nam Phương


3

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN

Mục đích
- Trình bày được vai trò của dân số trong sự phát triển kinh tế xã hội.
- Nêu và phân tích các khái niệm về dân số, phát triển và phát triển
bền vững.

- Nắm được thước đo của sự phát triển.
- Phân tích được mối quan hệ giữa dân số và phát triển cũng như mối
quan hệ giữa phát triển và dân số.
- Nêu và phân tích được đối tượng nghiên cứu và nhiệm vụ của môn học
- Áp dụng những hiểu biết này trong quá trình KHH phát triển kinh tế
xã hội.

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Khái niệm dân số
Dân số có liên quan đến nhiều hoạt động, nhiều khía cạnh khác nhau
của đời sống kinh tế - xã hội. Vì vậy, có nhiều môn học nghiên cứu dân số.
Dân số theo nghĩa thông thường là số lượng dân trên một vùng lãnh
thổ, một địa phương nhất định. Bởi vì dân số có thể coi là số lượng dân của
cả trái đất hay một phần của nó, c
ủa một quốc gia hay một vùng địa lý nào đó.
Dân số theo nghĩa rộng được hiểu là một tập hợp người. Tập hợp này
không chỉ là số lượng mà cả cơ cấu và chất lượng. Tập hợp này bao gồm
nhiều cá nhân hợp lại, nó không cố định mà thường xuyên biến động. Ngay
bản thân mỗi cá nhân cũng thường xuyên biến động: sinh ra, lớn lên, trưởng
thành, già hóa và tử vong.

4
Các hoạt động của mỗi cá nhân cũng thường xuyên thay đổi; tuổi niên
thiếu đi học (từ nhà trẻ, mẫu giáo đến các trường chuyên nghiệp; tuổi
trưởng thành làm việc, già nua nghỉ ngơi). Trình độ văn hóa chuyên môn
cũng thay đổi. Nơi ở cũng không hoàn toàn cố định, đơn vị xã hội cũng thay
đổi. Những thay đổi của mỗi cá nhân làm thay đổi số lượng, thành phần kết
cấu của dân số nói chung.
Trong Dân số học, thuật ngữ “Dân số” không chỉ hiểu theo nghĩa
thông thường, mà còn hiểu theo nghĩa rộng của nó. Nó nghiên cứu cả ở

trạng thái tĩnh và trạng thái động cùng những yếu tố gây nên sự biến động đó.
Ngoài từ dân số trong cuộc sống, các tài liệu, sách báo còn dùng các
từ dân cư, nhân khẩu, dân tộc, nhân dân; giữa các từ này với dân số có điểm
chung giống nhau, nhưng cũng có nhữ
ng nét đặc trưng khác nhau. Mặc dù
đôi khi có thể dùng từ này thay cho từ khác, khi ngữ nghĩa gần giống nhau,
nhưng cũng có trường hợp không thể thay thế cho nhau được.
1.1.2. Khái niệm phát triển
Các quá trình dân số (sinh, chết, kết hôn, ly hôn, di cư ) bao giờ cũng
diễn ra trong một khung cảnh kinh tế - xã hội và môi trường nhất định. Các
khung cảnh này biến đổi mạnh mẽ theo thời gian (giữa các thời kỳ) và
không gian (giữa các nước, các vùng, các châu lục). Để phân bi
ệt các khung
cảnh này người ta thường sử dụng khái niệm phát triển.
Phát triển là một khái niệm rộng chỉ tất cả hoạt động của con người
nhằm thúc đẩy xã hội tiến lên về đời sống vật chất và tinh thần. Khái niệm
này có quá trình hoàn thiện dần từ đơn sơ, phiến diện đến toàn diện và đầy
đủ hơn, từ đơn thuần là tăng trưởng kinh tế đến phát triển bền vững.
Theo thời gian và không gian, trình độ phát triển rất khác nhau. Vào
những năm 50 sau chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới nghèo đói và đổ nát,
cả loài người hy vọng sự tăng trưởng kinh tế, tức tăng tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) hàng năm giúp con người thoát khỏi nghèo đói lạc hậu. Thời đó,
người ta coi phát triển đơn thuần chỉ là sự tăng trưởng kinh tế
. Vì vậy, thước
đo trình độ phát triển là mức đạt được về GDP bình quân đầu người (GDP/P).
Những năm 60 và 70 được coi là “những thập kỷ của sự phát triển”
của Liên Hợp Quốc. Tăng trưởng kinh tế cao hơn mục tiêu mà Liên Hợp


5

Quốc đề ra nhưng người ta lại hoàn toàn vỡ mộng: nghèo đói, thất nghiệp
vẫn tràn lan và bất bình đẳng thể hiện ở sự chênh lệch về mức độ tiếp cận
các dịch vụ cơ bản giữa các nhóm dân cư ngày càng sâu sắc.
Mặc dù kinh tế là cốt lõi của sự phát triển, nhưng càng ngày người ta
càng nhận thức và phát hiện nhiều hạn chế của thước đo GDP bình quân đầ
u
người. Nhiều quốc gia có sự tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng số người đói
nghèo không giảm và đời sống của những người dưới đáy của xã hội không
được cải thiện. Vì vậy, cần tiếp cận phát triển theo hướng khác, đó là sự
thỏa mãn (đáp ứng) những nhu cầu thiết yếu của các nhóm dân cư.
Nếu coi phát triển là đối lập với nghèo khổ, thì phát triển được coi là
quá trình giảm dần đi đến xóa bỏ nạn đói ăn, bệnh tật, mù chữ, tình trạng
mất vệ sinh, thất nghiệp và bất bình đẳng.
Vì vậy, nhiều nhà kinh tế, nhà hoạch định chính sách kêu gọi: “Hạ bệ
quan điểm về GDP”, tức là phát triển không thể nhìn nhận ở một góc độ hẹp
GDP bình quân và sự tăng lên của nó. Đương nhiên, tiền rất quan trọng
nhưng không phải là tấ
t cả. Nói như Aristote - Nhà triết học cổ đại thì: “Tài
sản rõ ràng không phải là thứ chúng ta đang tìm kiếm, nó chỉ là thứ cần thiết
cho những thứ khác”. Những cái khác có thể là:
 Sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại: tăng tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ.
 Giảm nghèo: Nếu tăng trưởng kinh tế mà vẫn phải đối mặt với tỷ lệ
nghèo cao thì đó chưa phải là phát triển.
 Giảm bất công trong thu nhập và tiếp cận các dịch vụ cơ bản.
 Giảm thất nghiệp, cải thiện lĩnh vực y tế, giáo dục, dinh dưỡng, nhà
ở… tức là phải nâng cao chất lượng cuộc sống, tăng cường nguồn lực con
người, v.v…
Vì vậy, phát triển được quan niệm là quá trình tăng tiến toàn diện về
mọi mặt kinh t

ế, chính trị, xã hội của một quốc gia. Phát triển là quá trình
biến đổi liên tục cả lượng và chất của nền kinh tế. Khái niệm phát triển được
cụ thể hoá bằng công thức đơn giản.
Phát triển =
Tăng trưởng
kinh tế
+
Sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế
+
Sự tiến bộ
xã hội


6
Công thức trên phản ánh: (1) Sự biến đổi về lượng của nền kinh tế và
nó chính là điều kiện cần của sự phát triển; (2) Sự thay đổi trong bản chất
kinh tế của sự phát triển và (3) Thể hiện mục tiêu cuối cùng của sự phát triển.
Thước đo của sự phát triển
Do phát triển không chỉ đơn thuần là tăng trưởng hay phát triển kinh
tế mà còn là tiến bộ về xã hội và sự bền vững về môi trường, nên phát triển
thường được đo lường, phản ảnh bằng một hệ thống gồm các nhóm chỉ tiêu,
như: nhóm chỉ tiêu kinh tế, nhóm chỉ tiêu dân số- KHHGĐ, nhóm chỉ tiêu y
tế và sức khoẻ, …; nhóm chỉ tiêu về môi trường. Nhiều nước và tổ chức
quốc tế đã xây dựng hệ thống thước đo phát triển xã hội hoặc kinh tế-xã hội
hoặc xã hội-môi trường (Xem bảng 1.1). Hệ thống chỉ báo phát triển bền
vững đồng bộ cũng được xây dựng như: mục tiêu thiên niên kỷ hoặc các đề
xuất thử nghiệm.
Bảng 1.1: Hệ thống thước đo phát triển
STT

NƯỚC HOẶC
TỔ CHỨC
QUỐC TẾ
SỐ NHÓM CHỈ TIÊU
SỐ CHỈ
TIÊU

1

ESCAP
12 nhóm: xoá đói; dân số; y tế và sức khoẻ;
kiểm soát HIV/AIDS; giáo dục; việc làm; nhà
ở; môi trường; thiên tai; tội phạm; bảo vệ xã
hội; gia đình

45

2

UNDP
13 nhóm: tuổi thọ; …; môi trường nước;
môi trường biển; môi trường xã hội; chi phí
cho hoạt động môi trường
74

3
UNFPA và
UNICEP giúp
xây dựng cho
Việt Nam

10 nhóm: kinh tế; dân số; KHHGĐ; y tế và
sức khoẻ; giáo dục và đào tạo; văn hoá; lao
động-việc làm; mức sống; trật tự, an toàn
XH và luật pháp; đầu tư phát triển xã hội.

104


4


Việt Nam
Hệ thống chỉ tiêu dân số - xã hội Chính
phủ đề nghị áp dụng từ năm 2000, gồm 10
nhóm: giáo dục và đào tạo; y tế và sức khoẻ;
dân số; các vấn đề xã hội; lao động-việc
làm; văn hoá, văn nghệ; thể dục, thể thao;
phát thanh, truyền hình; nghiên cứu khoa
học; môi trường.


164


7
Thước đo tổng hợp
Năm 1990, lần đầu tiên "Báo cáo phát triển con người" của Liên Hợp
Quốc được công bố, đưa ra và ngày càng hoàn thiện khái niệm "phát triển
con người", phát triển mang tính nhân văn (Human development). Đó là:
"sự mở rộng phạm vi lựa chọn của con người để đạt đến một cuộc sống

trường thọ, khoẻ mạnh, có ý nghĩa và xứng đáng với con người. Quan niệm
này bao hàm hai khía c
ạnh chính là mở rộng các cơ hội lựa chọn và nâng
cao năng lực lựa chọn của con người nhằm hưởng thụ một cuộc sống hạnh
phúc, bền vững". Một cách rõ ràng hơn: quá trình phát triển được gọi là
“mang tính nhân văn” nếu quá trình đó: (1) mở rộng các cơ hội lựa chọn
cho mọi người, (2) nâng cao năng lực lựa chọn cho mọi người, (3) mọi
ngườ
i cùng tham gia vào quá trình phát triển và (4) mọi người cùng được
hưởng lợi từ quá trình này. "Phát triển con người" coi con người là mục
tiêu, chứ không phải là phương tiện của phát triển, những quan niệm "phát
triển nguồn lao động", "phát triển nguồn nhân lực", "vốn con người" coi con
người là phương tiện của tăng trưởng kinh tế, dù đó là phương tiện quan
trọng nhất. Chỉ số HDI là chỉ số so sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ
biết chữ, tuổi thọ của các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái
nhìn tổng quát về sự phát triển của một quốc gia. Các nước có trình độ phát
triển cao có HDI >0, 8; các nước có trình độ phát triển trung bình có HDI từ
0, 5 đến 0, 8; các nước có trình độ phát triển thấp có HDI <0, 5.
HDI là số trung bình cộng của các số sau:
Chỉ số tuổi thọ trung bình
Về sức khỏe, nói chung nếu con người khỏe mạnh thì cuộc sống sẽ
trường thọ, ngược lại trường thọ là một biểu hiện rõ ràng của một cơ thể
khỏe mạnh. Vì vậy, sức khỏe được lượng hóa bằng chỉ tiêu tuổi thọ trung
bình.
Chỉ số tuổi thọ trung bình =
Tuổi thọ trung bình - 25
85 - 25


8

Chỉ số học vấn
Là chỉ tiêu tổng hợp được đo bằng tổng 2/3 tỉ lệ số người lớn biết chữ
của dân số từ 15 tuổi trở lên, biết đọc, biết viết một đoạn văn ngắn, đơn giản
liên quan đến cuộc sống hàng ngày và 1/3 tỉ lệ đi học chung (là tỷ số giữa
tổng số người ở mọi độ tuổi đang đi học ở tất cả các bậc: phổ thông, trung
học chuyên nghiệp, đại học, sau đại học và tổng số dân từ 5 đến 24 tuổi).
Chỉ số GDP bình quân đầu người
(GDP tính theo phương pháp sức mua tương đương quy ra dollar Mỹ):
Chỉ số thu nhập
đầu người
=
lg(GDP/ng) – lg(100)
lg(40000) – lg(100)

Nhóm nước có HDI rất cao, nhóm nước có HDI cao vừa, nhóm nước
có HDI trung bình, nhóm nước có HDI thấp: 10 nước có chỉ số HDI cao
nhất là Na Uy, Úc, Iceland, Canada, Ireland, Hà Lan, Thụy Điển, Pháp,
Thụy Sĩ và Nhật. Mỹ đứng thứ 13. 10 nước cuối danh sách gồm có Guinea
Bissau, Burundi, Chad, CHDC Congo, Burkina Faso, Mali, Trung Phi,
Sierra Leone, Afghanistan, Niger. Việt Nam đứng thứ 116/182 nước thuộc
nhóm có HDI trung bình, trong giai đoạn 1985-2007 mỗi năm HDI của VN
tăng thêm 1, 16% (từ 0, 561 lên 0, 725). Tuy vậy, chỉ số này không phản
ánh một số mặt quan trọng khác như bình đẳng giới, mức độ tôn trọng
quyền con người.
Tính trên toàn thế giới, Na Uy đứng đầu về chỉ số HDI nhưng xét từng
tiêu chí, Nhật Bản mới là nước đứng đầu về tuổi thọ trung bình, Gruzia
đứng đầu về tỉ lệ biết chữ ở người lớn, Australia đứng đầu về tỉ lệ nhập học
chung và Công quốc Liechstenstein (quốc gia nói tiếng Đức nhỏ nhất thế
giới với diện tích 160km
2

, giáp Thụy Sĩ ở phía tây và giáp Áo ở phía đông)
có GDP theo đầu người (tính theo sức mua ngang bằng) cao nhất thế giới.
Chỉ số phát triển con người ở Việt Nam
Báo cáo phát triển con người năm 2007/2008 của LHQ cho thấy,
Việt Nam hiện có chỉ số HDI ở hạng trung bình, với chỉ số là 0, 733. So
với năm trước, Việt Nam đã tăng 4 bậc từ vị trí 109 lên vị trí 105 trong


9
tổng số 177 nước. Chỉ số HDI của Việt Nam đã liên tục tăng trong những
năm gần đây: Từ 0, 671 điểm (năm 2000) và đã tăng lên 0, 688 điểm
(2003); 0, 704 điểm (2005); 0, 733 (2007) và đạt tới 0, 750 điểm vào năm
2010 như mục tiêu chiến lược dân số đã đề ra. Đáng lưu là, từ năm 1995
đến nay (2007), xếp hạng HDI của Việt Nam trong khu vực đã được nâng
lên từ thứ bậc 7 lên thứ bậc 6; ở Châu Á từ thứ bậc 32 lên thứ bậc 28 và
trên thế giới từ thứ bậc 122 lên thứ bậc 105 so vớí 177 nước trên thế giới.
Diễn giải cụ thể hơn về động thái nội hàm chỉ số HDI của Việt Nam
đã cho thấy như sau:
- Thu nhập GDP bình quân/người của cả nước đã tăng từ 5, 7 triệu
đồng năm 2000 lên trên 10 triệu đồng năm 2005, tương đương 640 USD
(tăng 12, 1%/năm và 1, 75 lần sau 5 năm). Năm 2007 vừa qua đã đạt
835USD. Năm 2008 này theo Báo cáo Chính phủ tại kỳ họp thứ tư, Quốc
hội khoá XII hiện vẫn đang trong thời gian tiến hành, đã cho thấy,
GDP/người của nước ta ước tính có thể đạt tới trên 1000USD, vượt qua
được ngưỡng nước nghèo theo quy định đã nêu trên của UNDP.
- Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam đã tăng từ 60 tuổi năm 1980
lên 65, 2 tuổi năm 1995, lên 70 tuổi năm 2003, lên 71, 5 tuổi năm 2005 và
hiện nay (2008) là 73, 1 tuổi vào mức khá cao trong tương quan so sánh với
nhiều nước khác, góp phần lớn nâng chỉ số phát triển con người (HDI) của
Việt Nam cao khoảng 30 bậc so với bảng xếp hạng GDP.

- Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ và phổ
cập giáo dục tiểu học, đến năm 2008, có 42/64 tỉnh, thành phố đạt chuẩn
quốc gia về phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn biết chữ đạt
94%, trong khi đó trung bình của thế giới là 79%, các nước thu nhập thấp là
61%, các nước thu nhập trung bình là 90%, các nước châu Á - Thái Bình
Dương là 90%. Đến hết năm 2005, số học sinh đi học bậc tiểu học đạt 97,
5%, số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 15, 1%/năm, dạy nghề dài
hạn tăng 12%/năm, sinh viên đại học và cao đẳng tăng 8, 4%/năm. Tính đến
tháng 8/2008, cả nước có 369 trường đại học, cao đẳng, trong đó có 160
trường đại học và 209 trường cao đẳng. Theo Báo cáo phát triển năm 2008
của LHQ, Việt Nam chỉ xếp thứ 122 trong số 177 quốc gia về thu nhập bình

10
quân đầu người. Tuy nhiên, so với nhiều nước có thu nhập thấp khác, thậm
chí so với cả một số nước có thu nhập cao hơn thì Việt Nam lại đi đầu về
các chỉ số tuổi thọ, tỉ lệ biết chữ ở người lớn. Xếp hạng tương ứng của Việt
Nam ở hai chỉ số này là 56/177 và 57/177. Chính vì thế mà đã khiến cho
HDI của Việt Nam đạt tới mứ
c trung bình trong so sánh với nhiều nước
khác chỉ ở mức thấp, mặc dù GDP/người của Việt Nam còn thấp hơn nhiều
và vẫn là nước nghèo.
Trong khi đó, nhìn vào tổng số người đang được đi học trong độ tuổi
đi học tiểu học, trung học và đại học, Việt Nam hiện xếp thứ 121/177 nước,
với 63, 9% người trẻ được tiếp cận với giáo dục. Nguyên nhân cơ bản c
ủa
tình hình trên là do tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã đạt tới mức khá cao
trong liên tục nhiều năm, đã là cơ sở cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam cũng tăng nhanh theo. Phát triển kinh tế - xã hội sẽ tạo điều kiện tăng
thu nhập cho người dân và tăng đầu tư cho giáo dục là hai giải pháp cơ bản
làm thay đổi đáng kể chỉ số HDI. Chỉ riêng việc cải thiện tỉ lệ nhập học của

trẻ em và nâng cao dân trí cho người dân sẽ giúp Việt Nam tăng nhanh chỉ
số phát triển con người của mình. Điều này hoàn toàn đúng với thực tiễn
phát triển của Việt Nam những năm đổi mới vừa qua và vẫn đang là một
trong những định hướng chỉ đạo cơ bản của Đảng và Nhà nước ta.
1.1.3. Khái niệm phát triển bền vững
Gần đây chúng ta nghe nhiều đến khái niệm “Phát triển nhanh, bền
vững”. Đặc biệt khái niệm này lại được đề cập nhiều trong các văn kiện của
Đảng; các bài diễn văn và cả trong đời sống xã hội. Mặc dù còn có sự khác
nhau về cách nhìn, điểm xuất phát kinh tế và cả quan điểm chính trị nhưng
đều có sự thống nhất chung rằng: để mỗi quốc gia nói riêng và cả nhân loại
nói chung phát triển bền vững, đòi hỏi mỗi quốc gia và nhân loại phải đảm
bảo hài hoà cả ba yếu tố: phát triển kinh tế; thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Ba yếu tố này luôn
luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau cùng thúc đẩy đất nước phát triển
nhanh và bền vững.
Năm 1972, thế giới đối mặt với tình trạng khan hiếm năng lượng và ô
nhiễm môi trường nặng nề. Liên hiệp quốc đã tổ chức Hội nghị Quốc tế về


11
Môi trường ở Stockholm (Thụy Điển). Trên phạm vi toàn cầu, nhằm tìm
cách đối phó với tình trạng cuộc sống ngày càng xấu đi do sự gia tăng của
nghèo đói, bệnh tật, thất học, do sự cách biệt ngày càng sâu sắc giữa giàu và
nghèo và đặc biệt do sự xuống cấp không ngừng của môi trường, Liên hiệp
quốc đã thành lập Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển năm 1983.
Báo cáo “Tương lai của chúng ta” của Hội đồng Thế giới về Môi trường và
Phát triển (WCED) ấn hành năm 1987 đã chính thức đưa ra quan điểm về
phát triển bền vững: Phát triển bền vững được hiểu là “là sự phát triển đáp
ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho
việc đáp ứng (các) nhu cầu (ấy) của các thế hệ mai sau”.

Định nghĩa này đã thể hiện được sự quan tâm đến các thế hệ tương
lai trong khi tìm cách đáp ứng các nhu cầu hiện tại. Tính bền vững của sự
phát triển đòi hỏi:
- Cân nhắc giữa lợi ích của thế hệ tương lai và thế hệ hiện tại.
- So sánh giữa chi phí và lợi ích của t
ăng trưởng kinh tế.
- Lựa chọn cơ cấu các sản phẩm dịch vụ được sản xuất ra trong nền
kinh tế có lợi nhất cho việc bảo vệ môi trường.
- Nâng cao hiệu suất: giảm thiểu khối lượng nguyên liệu đầu vào đối
với một đơn vị sản phẩm.
- Sử dụng các vật liệu nhân tạo có khả năng thay thế đối với các tài
nguyên ngày càng trở nên khan hiếm.
Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái
tạo tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và
những hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật
và thực vật. Quan điểm ban đầu về phát triển bền vững chủ yếu chỉ nhấn
mạnh đến việc giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa mục tiêu kinh tế với mục
tiêu bảo vệ tài nguyên và môi trường sống của con người.
Đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, chúng ta đã phát hiện ra trong quá
trình chạy theo các mục tiêu tăng trưởng nhanh con người không chỉ đứng
trước thảm họa về tài nguyên, môi trường mà kể cả các tiêu chí về xã hội
cũng bị vi phạm. Con người, vị trí trung tâm của sự phát triển cũng bị xúc

12
phạm trong quá trình theo đuổi tăng trưởng nhanh. Người ta biến con
người trở thành những công cụ kiếm tiền, vi phạm tôn ti, trật tự, vi phạm
đạo đức, nhân quyền. Vì vậy, bước ngoặt quan trọng nhất trong quan điểm
về phát triển bền vững được thể hiện ở hội nghị Thượng đỉnh trái đất về
Môi trường và Phát triển ở Rio de Janero (Braxin) năm 1992.
Mười năm sau, Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về phát triển bền

vững (WSSD) họp tại Johannesburg (Nam Phi) năm 2002 đã tiếp tục
khẳng định việc lựa chọn con đường phát triển bền vững được xác định 10
năm trước tại Rio. Chương trình nghị sự đã đưa ra quan điểm phát triển
bền vững không chỉ nhấn mạnh về vấn đề môi trường, tài nguyên thiên
nhiên mà còn nhấn mạnh nhiều hơn đến yếu tố xã hội, yếu tố con người
trong quá trình phát triển của các quốc gia. Quan điểm đầy đủ về phát triển
bền vững được Liên hiệp quốc đưa ra là: bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế
ổn định trong mối quan hệ với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; khai
thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và nâng cao chất lượng
môi trường sống.
Như vậy, khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm và nội hàm của nó
không chỉ dừng lại ở nhân tố sinh thái mà nội dung khái niệm còn bao hàm
những khía cạnh chính trị xã hội, đặc biệt là bình đẳng xã hội đi vào yếu tố
con người, nó hàm chứa sự bình đẳng giữa những nước giàu và nghèo và
giữa các thế hệ. Thậm chí, nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ quân bị, coi
đây là điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần thiết để áp
dụng khái niệm phát triển bền vững…Với ý nghĩa này, nó được xem là
"tiếng chuông" hay nói cách khác là "tấm biển hiệu” cảnh báo hành vi của
loài người trong thế giới đương đại.
1.1.4. Nội dung phát triển bền vững
Phát triển bền vững được thể hiện ở vùng phối hợp được cả 3 mục tiêu
kinh tế, xã hội, môi tr
ường. Nó mang tính tổng hợp bao gồm nhiều yếu tố
cấu thành khác nhau như: kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật văn hóa… Mục
tiêu của phát triển ngày nay phải là nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc
sống của loài người, tạo nên cuộc sống công bằng và bình đẳng giữa các


13
thành viên. Để đạt được mục tiêu ấy, trong quá trình phát triển, các quốc gia

phải xác định được một cách hợp lý các mục tiêu cụ thể của 3 nội dung phát
triển này để tạo nên 3 đỉnh của tam giác phát triển bền vững trong đó:
Mục tiêu bền vững về kinh tế là lựa chọn một tốc độ tăng trưởng hợp
lý trên cơ sở một cơ cấu kinh tế phù hợp và có hiệu quả nhất; Mục tiêu bền
vững về xã hội tập trung vào việc thực hiện từng bước các nội dung về tiến
bộ xã hội và phát triển con người. cụ thể là thực hiện tiến bộ nâng cao dân
trí, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm; Mục tiêu
bền vững về môi trường bao gồm khái niệm khai thác và sử dụng tiết kiệm,
hợp lý, có hiệu quả
nguồn tài nguyên, bảo vệ và chống ô nhiễm môi trường,
thực hiện tốt quá trình tái sinh và cải thiện chất lượng tài nguyên môi
trường, phòng cháy và chặt phá rừng.
1.1.4.1. Bền vững về kinh tế
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh
tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt
cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống.
 Điều kiện đầu tiên là phải có sự tăng trưởng kinh tế (gia tăng về quy
mô sản lượng của nền kinh tế, nó phải diễn ra trong một thời gian tương đối
dài và ổn định).
 Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế: thể hiện ở tỷ trọng các vùng, miền,
ngành, thành phần kinh tế thay đổi. Trong đó, tỷ trọng của vùng nông thôn
giảm tuơng đối so với tỷ trọng vùng thành thị, tỷ trọng các ngành dịch vụ,
công nghiệp tăng, đặc biệt là ngành dịch vụ.
 Cuộc sống của đại bộ phận dân số trong xã hội sẽ trở lên tươi đẹp
hơn: giáo dục, y tế, tinh thần của người dân được chăm lo nhiều hơn, môi
trường được đảm bảo.
Độ đo kinh tế của sự phát triển bền vững được tính trên giá trị GDP
hoặc GNP. Tuy nhiên, với cách tính này, để phát triển kinh tế phải tiêu tốn
tài nguyên và tạo ra các chất thải độc hại. Do v
ậy, trong độ đo này cần phải

tính đến việc hạn chế tối đa nhu cầu tiêu thụ tài nguyên không tái tạo và
mức độ tái sinh tài nguyên, vật liệu từ các chất thải. Bên cạnh các giá trị

14
bình quân GDP, GNP, sự chênh lệch các giá trị này ở các tầng lớp dân cư
khác nhau cũng được tính như một giá trị đo kinh tế của sự phát triển bền
vững trên quy mô toàn cầu và được thể hiện ở mức độ và quy mô duy trì
viện trợ của các nước công nghiệp phát triển cho các nước đang phát triển;
sự công bằng về kinh tế và trao đổi thương mại giữa hai nhóm nước trên thể
hiện ở các khía cạnh: tăng giá nguyên liệu thô, hạ giá thiết bị, xoá nợ nước
ngoài và trừng phạt kinh tế đối với các nước đang phát triển.
Tính bền vững về kinh tế có thể được thể hiện qua các tiêu chí về phát
triển kinh tế quen thuộc như:
1. Tổng sản phẩm trong nước GDP (Gross Domestic Product)
2. Tổng sản phẩm quốc gia GNP (Gross National Product)
3. GDP hay GNP bình quân đầu người.
4. Tăng trưởng của GDP.
5. Cơ cấu GDP
Một quốc gia bền vững về mặt kinh tế phải đạt yêu cầu sau:
 Có tăng trưởng của GDP và GNP/người cao. Nước càng nghèo, thu
nhập trong thời gian trước càng thấp thì tăng trưởng này càng phải cao.
Trong điều kiện hiện nay nước thu nhập thấp phải có tăng trưởng
GDP/người vào khoảng 5% mới có thể xem là bền vững về kinh tế. Nếu
tăng trưởng thấp hơn thì nền kinh tế này không được xem là bền vững.
 Có GDP, GDP/người bằng hoặc cao hơn mức trung bình hiện nay
của các nước đang phát triển thu nhập trung bình. Nếu tăng trưởng GDP cao
nhưng mức GDP/người thấp thì chưa đạt tới mức bền vững.
 Có cơ cấu GDP lành mạnh nhằm đảm bảo cho tăng trưởng GDP ổn
định lâu dài, Cụ thể là tỷ lệ đóng góp của công nghiệp và dịch vụ trong GDP
phải cao hơn nông nghiệp.



15
1.1.4.2. Bền vững về xã hội
Trong giai đoạn hiện nay, phát triển bền vững đã trở thành chiến lược
chung của Liên hiệp quốc và các quốc gia trên thế giới. Do vậy, bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững là mục tiêu mang tính chất chính trị của tất cả
các quốc gia trên thế giới. Phát triển bền vững đòi hỏi tự do thực sự của các
công dân, về các thông tin về kế hoạch phát triển của Chính phủ và chất
lượng môi trường nơi họ đang sống. Phát triển bền vững đòi hỏi sự công
bằng về các quyền lợi xã hội như: có công ăn việc làm, đảm bảo các quyền
lợi kinh tế và xã hội khác, giảm bớt hố ngăn cách giữa người giàu và nghèo
trong xã hội, …
Phát triển bền vững đòi hỏi phải thay đổi chính sách xã hội cho phù
hợp như: chính sách trợ cấp, chính sách thuế để loại trừ xu hướng già hoá ở
các xã hội phát triển.
Một số tiêu chí thể hiện sự bền vững về xã hội như sau:
(1) Bảo đảm cho mọi người cùng được tham gia và cùng được hưởng
lợi từ sự phát triển (theo năng lực, khả năng và đóng góp của mình).
(2) Bảo đảm tạo cơ hội thuận lợi và bình đẳng để mọi người sử dụng
và phát huy một cách tốt nhất năng lực của mình nhằm đóng góp cho sự
phát triển và thụ hưởng kết quả của sự phát triển đó.
(3) Bảo đảm việc làm ở mức cần thiết và từng bước tiến tới việc làm
an toàn, hợp lý, hiệu quả và có lựa chọn phù hợp cho mọi thành viên trong
xã hội.
(4) Bảo đảm công bằng trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ
XHCB ở mức trung bình quốc gia phù hợp với trình độ phát triển kinh tế- xã
hội cho mọi người dân, bất kỳ họ sống ở đâu, thuộc nhóm xã hội nào.
(5) Bảo đảm cho các nhóm dân cư dễ bị tổn thương có được đầy đủ cơ
hội và năng lực vươn lên thoả mãn nhu cầu dịch vụ XHCB của họ.

(6) Giảm bớt sự khác biệt xã hội giữa các nhóm dân cư, dân tộc, vùng
lãnh thổ và sự khác biệt giới.
(7) Bảo đảm cuộc sống tinh thần và quan hệ xã hội lành mạnh thúc đẩy
phát triển.

16
(8) Bảo đảm môi trường xã hội trật tự, an ninh, an toàn.
(9) Bảo đảm sự tham gia rộng rãi, có hiệu quả của cá nhân, gia đình và
cộng đồng vào các hoạt động quản lý xã hội (mở rộng và phát huy dân chủ)
tiến tới hình thành và phát triển xã hội công dân.
(10) Bảo đảm môi trường sinh thái lành mạnh.
Muốn phát triển bền vững quốc gia, hoặc địa phương trong quốc
gia phải đạt các điều kiện:
- HDI tăng trưởng
- HDI đạt đến mức trung bình
Tính bền vững về xã hội còn có thể được thể hiện qua các tiêu chí như:
Về chỉ số bình đẳng thu nhập
Muốn bền vững một quốc gia, hoặc một địa phương trong quốc gia,
phải tránh được những bất ổn xã hội. Nguyên nhân cơ bản của sự bât ổn này
là sự bất công bằng trong phân phối thu nhập. Vì vậy, chỉ số bất bình đẳng
về thu nhập, thường gọi là chỉ số Gini theo tên người đề xuất. Chỉ số được
xem là một mục tiêu chí về tính bền vững xã hội.
Tiêu chí về giáo dục và đào tạo
Tiêu chí về giáo dục và đào tạo thường được trình bày thành những số
liệu cụ thể, như: tỷ lệ người biết chữ trong nhân dân ở một độ tuổi nhất
định; tỷ lệ người được học các bậc tiểu học, trung học, đại học trong những
lứa tuổi nhất định, số sinh viên trên 10. 000 dân, trong đó % sinh viên các
ngành công nghệ, số học sinh/giáo viên; ngân sách nhà nước chi cho giáo
dục bằng tổng % ngân sách hoặc % tổng GDP.
Tiêu chí về dịch vụ y tế xã hội

Tiêu chí về y tế xã hội thường được cụ thể hóa thành: số trẻ sơ sinh bị
chết từ 1000 em; tuổi thọ trung bình; số bác sĩ trên 1000 dân; số giường
bệnh cho 1000 dân, tỉ lệ % dân hưởng dịch vụ y tế xã hội, tỷ lệ % dân có
nước sách để dùng; tỷ lệ trẻ em dưới 12 tháng tuổi được tiêm chủng phòng
dịch bệnh; ngân sách nhà nước chi cho dịch vụ xã hội về y tế bằng tổng %
ngân sách, hoặc tổng GDP.

×