Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo bào ngư vành tai (haliotis asinina linnaeus, 1758) tại nha trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.31 MB, 50 trang )

Luận văn thạc sỹ
MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH
Căn cứ vào tình trạng sức khỏe, kích thước, khối lượng, màu sắc tuyến sinh dục 18
Bảng 3.4. Ảnh hưởng các phương pháp kích thích đến tỷ lệ đẻ của 28
bào ngư vành tai 28
Phương pháp kích thích 28
Số cá thể kích thích (con) 28
Số cá thể sinh sản (con) 28
i
Luận văn thạc sỹ
Tỷ lệ đẻ (%) 28
Kích thích bằng đèn cực tím 28
62 28
30 28
48,38 28
Kích thích bằng sốc nhiệt kết hợp với đèn cực tím 28
35 28
25 28
71,42 28
ii
Luận văn thạc sỹ
DANH MỤC BẢNG
Căn cứ vào tình trạng sức khỏe, kích thước, khối lượng, màu sắc tuyến sinh dục 18
Bảng 3.4. Ảnh hưởng các phương pháp kích thích đến tỷ lệ đẻ của 28
bào ngư vành tai 28
Phương pháp kích thích 28
Số cá thể kích thích (con) 28
Số cá thể sinh sản (con) 28
Tỷ lệ đẻ (%) 28
Kích thích bằng đèn cực tím 28


62 28
30 28
48,38 28
Kích thích bằng sốc nhiệt kết hợp với đèn cực tím 28
35 28
25 28
71,42 28
iii
Luận văn thạc sỹ
MỞ ĐẦU
Bào ngư vành tai (Haliotis asinina) là loài động vật thân mềm có giá trị dinh
dưỡng, giá trị y dược và giá trị xuất khẩu cao. Thịt bào ngư thơm ngon, độ đạm cao
(22-24%) là thức ăn được ưa chuộng ở các nước, lãnh thổ như Nhật Bản, Đài Loan,
Hồng Kông, Trung Quốc [1]. Theo sách Dược tính chỉ nam “thịt bào ngư khí ôn, vị
lành, không độc, thông lợi đường ruột, tiêu độc ứ bĩ, chữa được bệnh huyết khô ở phụ
nữ”. Vỏ Bào ngư vành tai có tầng xà cừ mầu sắc óng ánh được sử dụng làm đồ trang
sức, khảm trong mỹ nghệ tranh sơn mài; làm nguyên liệu trong nuôi cấy ngọc trai.
Ngoài ra vỏ bào ngư còn được sử dụng để làm thuốc. Theo Tuệ Tĩnh trong cuốn Nam
dược thần hiệu thì vỏ bào ngư có vị mặn, tính bình, không độc, chữa đái buốt, di tinh,
nóng âm ỉ, chữa đau mắt. Ngoài thịt và vỏ ra, phủ tạng bào ngư còn được chế biến sản
xuất ra keo phẫu thuật dùng trong y học.
Hiện nay, nguồn bào ngư vành tai xuất khẩu chủ yếu khai thác từ tự nhiên nên
nguồn lợi ngày càng cạn kiệt. Tiến hành sinh sản nhân tạo là một giải pháp phổ biến
nhất hiện nay trong bảo tồn và phát triển nguồn lợi trong tự nhiên, đồng thời từng
bước phát triển nghề sản xuất giống bào ngư để giảm áp lực khai thác, tăng cường mặt
hàng xuất khẩu, tạo thêm đối tượng nuôi cho nghề sản xuất giống thủy sản.
Ở nước ta hiện nay, tuy đã có nhiều nghiên cứu về quy trình sản xuất giống bào ngư
như Viện nghiên cứu Thủy sản III, Viện nghiên cứu Hải sản Hải Phòng nhưng kết quả
còn nhiều hạn chế do tỉ lệ sống của ấu trùng đến giai đoạn bào ngư giống còn thấp,
quy trình chưa ổn định, chưa đi vào thực tiễn sản xuất.

Từ thực tế trên, cùng với hoàn thành khóa học, được sự đồng ý của trường Đại học
Nha Trang, khoa Nuôi trồng Thủy sản, tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu kỹ thuật sản
xuất giống nhân tạo Bào ngư vành tai (Haliotis asinina Linnaeus, 1758) tại Nha
Trang” với mục tiêu và nội dung như sau:
• Mục tiêu nghiên cứu:
Hoàn thiện từng bước về kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo bào ngư vành tai
(Haliotis asinina) nhằm áp dụng vào thực tế sản xuất giống tại Nha Trang, Khánh Hòa
đáp ứng nhu cầu thị trường hiện nay.
• Nội dung nghiên cứu:
1. Tuyển chọn và vận chuyển bào ngư vành tai bố mẹ.
1
Luận văn thạc sỹ
2. Kích thích sinh sản và ấp nở trứng.
3. Kỹ thuật ương nuôi ấu trùng đến con giống 0,5 cm
• Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
- Tìm ra các biện pháp kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo bào ngư vành tai nhằm góp
phần nâng cao, hoàn thiện quy trình sản xuất giống bào ngư vành tai áp dụng vào thực
tế sản xuất. Tạo ra con giống chất lượng cao, bền vững, giá thành phù hợp phục vụ
nhu cầu nuôi thương phẩm, chuyển đổi đối tượng nuôi có giá trị kinh tế và cải thiện
môi trường nuôi.
- Quy trình có thể được ứng dụng rộng rãi cho các hộ sản xuất giống động vật thân
mềm, nhằm tăng đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao, mang lại công ăn việc làm, xóa
đói giảm nghèo cho người dân vùng biển đồng thời bảo tồn và phát triển được nguồn
lợi bào ngư vành tai đang bị suy giảm.
2
Luận văn thạc sỹ
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm sinh học, sinh sản của bào ngư vành tai (Haliotis asinina)
1.1.1. Hệ thống phân loại
Theo hệ thống phân loại của các nhà phân loại trên thế giới như K.W Cox [15],

W.O.Cernohosky [14], Bào ngư thuộc:
Ngành: Động vật thân mềm (Mollusca)
Lớp: Chân bụng (Gastropoda)
Phân lớp: Mang trước (Prosobranchia)
Bộ: Chân bụng nguyên thủy (Archaeogastropoda)
Họ: Bào ngư (Haliotidae)
Giống: Bào ngư (Haliotis)
Loài: Bào ngư Vành tai (Haliotis asinina Linnaeus, 1758) [1],[6], [14]
Hình 1.1: Bào ngư vành tai (Haliotis asinina Linnaeus, 1758)
1.1.2. Đặc điểm hình thái cấu tạo ngoài của bào ngư vành tai (Haliotis asinina).
Người đặt nền móng cho nghiên cứu về hình thái và giải phẫu Bào Ngư là D. R.
Croft [15]. Trong hàng loạt các nghiên cứu của ông từ năm 1929 đến năm 1955 liên
quan đến hình thái giải phẫu và sự phát triển các cơ quan bên trong của Bào Ngư, công
trình nghiên cứu về hình thái phát triển các giai đoạn từ trứng thụ tinh đến ấu thể bám
của loài H.Tuberculata được xem là cơ bản nhất về hình thái giải phẫu và chu kì sống
của Bào Ngư
3
Luận văn thạc sỹ
Nghiên cứu của T. Ino [25] về hình thái giải phẫu Bào Ngư Nhật Bản H. Discus,
của FAO [32] về Bào Ngư ổ Triều Tiên và I. D. Mgaya về loài H. Tubeculata là những
nghiên cứu gần đây liên quan đến hình thái giải phẫu các loài Bào Ngư. Theo đó, Bào
Ngư cấu tạo từ hai phần : phần vỏ cứng và phần thân mềm cơ thể. Vỏ của Bào Ngư có
dạng hình tròn bầu dục và hình dạng tai. ở mép trái trên vỏ có một dãy lỗ hô hấp kín
và hở. hầu hết các lỗ bị lấp kín trong quá trình phát triển. Số lượng lỗ hở hô hấp tùy
theo loài
Phần thân mềm cơ thể bao gồm đầu, chân nang và nội tạng. đầu rất phát triển, đối
xứng hai bên và có một đôi xúc tu chân nằm ở mặt bụng của Bào Ngư, là cơ quan
dùng để bò và có cấu tạo từ các mô cơ. Chân đối xứng hai bên và có mặt đáy rộng
giúp cho Bào Ngư bám chặt vào đá và các giá bám khác. Phần dưới của chân có các
thùy bên chân (Epipode).

Tài liệu của Ngô Anh Tuấn, 2012 [11] thì hình thái cấu tạo ngoài của bào ngư là:
1.1.2.1. Hình dạng của vỏ
Vỏ có dạng hình vành tai, mỏng, mặt ngoài láng nhẵn, có màu xanh lá cây
thẫm. Chiều rộng của vỏ bằng 2/3 chiều dài, chiều cao của vỏ bằng ¼ chiều dài. Phần
thân rất phát triển chiếm toàn bộ cơ thể, tầng tháp vỏ thấp, đỉnh vỏ tù, vị trí đỉnh vỏ
nằm sát mép ngoài vỏ. Bắt đầu từ tầng xoắn ốc thứ 2 tình từ đỉnh vỏ có khoảng 30 u
nhô chạy đến mép vỏ. Số lượng lỗ hở hô hấp trên vỏ từ 5-8 lỗ (thường 6 lỗ), có hình
bầu dục rõ nét, không nhô lên khỏi vỏ, những lỗ này tương ứng với lỗ hô hấp của
màng áo (lỗ hô hấp), đường kính lỗ hở hô hấp từ 1,1-3,6 mm. Mặt trong của vỏ tầng
ngọc trai óng ánh kim loại bạc, trơn bóng, mép trong miệng vỏ mỏng, hẹp bằng 16%
chiều rộng vỏ.
1.1.2.2. Đầu
Đầu bào ngư nằm ở phía trước cơ thể, đối xứng hai bên, đầu tương đối phát
triển. Hai bên đầu có một đôi xúc tu, một đôi mắt có cuống dài. Giữa hai xúc tu có
màng da gọi là lá đầu. Mặt bụng của đầu là phiến môi hình đĩa rất phát triển, giữa
phiến môi là miệng.
1.1.2.3. Màng áo
Màng áo nằm ở mặt lưng của cơ thể có dạng hình túi bao trùm toàn bộ nội tạng.
Giữa màng áo và nang nội tạng là xoang màng áo, trong xoang màng áo có một đôi
mang hình lông chim và cơ quan kiểm tra chất nước (osphradium). Trên màng áo có
4
Luận văn thạc sỹ
xúc tu và tế bào sắc tố làm nhiệm vụ cảm giác. Trên màng áo có các lỗ thông với nhau
bên ngoài tương ứng với các lỗ trên vỏ (lỗ hô hấp). Màng áo tiết ra một vỏ che đậy
mặt lưng cơ thể bào ngư.
1.1.2.4. Chân
Chân bào ngư rất phát triển nằm ở mặt bụng cơ thể, có diện rộng thích nghi với
sống bò lê và bám đá. Chân chia làm 2 phần chân trên và chân dưới. Đáy chân dưới
vừa vặn với miệng vỏ. Xung quanh mép của chân trên có nhiều xúc tu và gờ cảm giác.
Ở mặt lưng phần sau chân là tuyến chân. Phần lưng của chân gắn liền với vỏ, xung

quanh chân gắn với màng áo.
1.1.2.5. Hệ thống cơ
Cơ trục vỏ: Gắn phần thân mềm với vỏ, cơ rất lớn.
Cơ vòng nằm xung quanh mép màng áo.
Cơ phóng xạ chạy dọc trên màng áo, cơ co duỗi chân.
1.1.3. Đặc điểm hình thái cấu tạo trong của bào ngư vành tai (Haliotis asinina)[11]
1.1.3.1. Hệ thần kinh
Trung khu hệ thống thần kinh chưa tập trung, các hạch thần kinh thô, kéo dài và dẹp.
1.1.3.2. Hệ hô hấp
Gồm một đôi mang nằm trong xoang màng áo, vị trí của mang nằm ở phía trước tâm
thất, mang dạng lông chim. Mang trái phát triển hơn mang phải. Động mạch vào mang
ở mặt lưng của mang. Tĩnh mạch ra mang ở mặt bụng của mang. Gốc của hai động
mạch vào mang kết hợp thành xoang máu gốc mang, xoang máu thông với thận bởi
tĩnh mạch ra thận.
1.1.3.3. Hệ tuần hoàn
Hệ tuần hoàn hở, tim nằm trong xoang tim bao gồm một tâm thất và hai tâm nhĩ, giữa
tâm thất và tâm nhĩ có van ngăn cách không cho máu từ tâm thất đến tâm nhĩ. Tâm
thất bị trực tràng xuyên qua.
Xoang máu: Nối liền động mạch và tĩnh mạch có 3 xoang máu lớn: xoang máu đầu,
chân và gốc mang.
1.1.3.4. Hệ tiêu hóa
Miệng nằm ở mặt bụng phía trước của đầu, miệng đơn giản. Bào ngư là loài ăn thực
vật cho nên các ống tiêu hóa dài: chiều dài gấp 3 lần chiều dài của thân.
1.1.3.5. Hệ bài tiết
5
Luận văn thạc sỹ
Bao gồm thận, tuyến xoang bao tim, tế bào ở xoang máu.
1.1.3.6. Hệ sinh dục
Bào ngư thuộc dạng đơn tính, không có cơ quan giao hợp, không có tuyến sinh dục
phụ, nên nhìn hình dạng bên ngoài rất khó phân biệt được đực, cái. Cơ quan sinh dục

bao quanh gan và kéo dài về phía trước ôm lấy cơ trục vỏ.
Cấu tạo của tuyến sinh dục bao gồm 3 phần:
+ Túi sinh dục: (Túi ollic): là các túi nằm rải rác trên tuyến sinh dục, từ túi này có thể
sản sinh ra tinh trùng (đối với con đực), hoặc trứng (đối với con cái).
+ Ống sinh dục: (Genital canal): có dạng hình cành cây phân bố khắp trên tuyến sinh
dục, đến mùa sinh sản hệ thống ống này rất phát triển. Cấu tạo của ống bên trong chứa
các tế bào sinh dục đa phần chưa thành thục, mặt trong thành ống có nhiều tiêm mao
có tác dụng vận chuyển các tế bào sinh dục.
+ Ống dẫn sản phẩm sinh dục (Gonoduct): là nơi chứa các tế bào sinh dục đã thành
thục, tận cùng của ống là lỗ sinh dục, đưa đến xoang màng áo và đưa ra ngoài.
Nghiên cứu về cấu tạo hình thái ngoài, trong của bào ngư đã được tác giả Ngô
Anh Tuấn đưa ra khá rõ nét giúp cho quá trình lựa chọn, theo dõi quá trình phát triển
để hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất giống, nuôi thương phẩm bào ngư vành tai.
1.1.4. Đặc điểm phân bố
Phân bố về địa lý: Bào ngư phân bố khá rộng ở các vùng biển như Ấn Độ -
Tây, Thái Bình Dương. Chúng phân bố nhiều ở vùng biển ven các hòn đảo Thái Bình
Dương , phía Nam Nhật Bản và phía Bắc Úc [33] .
Ở Việt Nam bào ngư phân bố ở: vịnh Hạ Long, Bạch Long Vĩ, Cát Bà, Cô
Tô, Khánh Hòa (hòn Nội, hòn Trà Là, hòn Tầm, hòn Tre Lớn, vịnh Vân Phong), quần
đảo Trường Sa, Côn Đảo, đảo Phú Quốc, hòn Thơm, hòn Vang, hòn Mây Rút, mũi
Ông Đội, mũi Đất Đỏ, đảo Thổ Chu [3].
Hình 1.2 Bản đồ phân bố của bào ngư vành tai trên thế giới
6
Luận văn thạc sỹ
Phân bố về sinh thái: Bào ngư thích sống ở vùng biển cạn, môi trường nước xáo động
mạnh và hàm lượng oxy hòa tan cao. Bào ngư thường sống ở đáy các rạn san hô có độ
sâu khoảng 10 m [7],[8]. Bào ngư thích nghi trong khoảng nhiệt độ từ 10-35
o
C và độ
mặn từ 25-35%o. Bào ngư sợ ánh sáng nên chúng thường ẩn nấp trong các hốc đá vào

ban ngày và ban đêm thì bò ra để tìm mồi.
1.1.5. Đặc điểm dinh dưỡng.
Bào ngư là loài ăn thực vật. Thức ăn của bào ngư thay đổi theo giai đoạn phát triển.
Trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống thì ấu trùng của bào ngư sống trôi nổi. Chúng
dường như không ăn trong giai đoạn ấu trùng. Khi kết thúc giai đoạn ấu trùng phù du
chúng chuyển sang sống bám. Ấu trùng bám dùng lưỡi sừng để cạp các tảo san hô
(coralline) hoặc lớp chất nhầy trên bề mặt đá (slime) lấy thức ăn [6]. Chất nhầy trên
mặt đá bao gồm các tảo đơn bào và vi khuẩn tạo thành. Giai đoạn trưởng thành thức ăn
của bào ngư là rong biển (seaweed). Bào ngư thích ăn rong đỏ (red algae), rong nâu
(brown algae) và rong lục (green algae) Bào ngư bắt mồi tích cực về đêm, đặc biệt là
lúc mặt trời sắp lặn và sắp mọc.
1.1.6. Đặc điểm sinh trưởng
Bào ngư sinh trưởng tương đối chậm, bào ngư vành tai (Haliotis asinina) đạt
3,5cm sau 6 tháng; 5,5cm trong 1 năm và 7,5 cm trong 3 năm. Bào ngư Nhật Bản (H.
Discus hannai) đạt 3 cm trong năm đầu; 5,5 cm; 7,5 cm và 9,5 cm cho năm thứ 2, 3 và
năm thứ 4. Bào ngư sinh trưởng đều, không thay đổi tỉ lệ hình học theo thời gian. Các
yếu tố di truyền, môi trường, thức ăn ảnh hưởng đến sinh trưởng của bào ngư.
1.1.7. Đặc điểm sinh học, sinh sản của bào ngư vành tai
1.1.7.1. Hình thái cấu tạo của tuyến sinh dục [9]
Bào Ngư là động vật đơn tính và quá trình thụ tinh xảy ra ở môi trường nước biển.
Tuyến sinh dục con đực và con cái của loài bào ngư vành tai có hình dạng như chiếc
sừng trâu cụt, bao quanh tuyến gan và ôm lấy 1/3 cơ trục vỏ. Tuyến sinh dục khi thành
thục căng đầy, mẩy, sệ và có màu vàng kem ở con đực, màu xanh lá cây đậm ở con
cái.
7
Luận văn thạc sỹ
Tuyến sinh dục đực Tuyến sinh dục cái
Hình 1.3: Hình thái cấu tạo tuyến sinh dục bào ngư
1.1.7.2. Các giai đoạn của tuyến sinh dục.
Quá trình phát triển tuyến sinh dục bào ngư vành tai chia thành 4 giai đoạn, được

mô tả như sau:
Giai đoạn I: Tuyến sinh dục rất nhỏ, màu sắc thường lẫn lộn với gan. Mắt thường
không phân biệt được đực cái. Tuyến sinh dục của con cái chứa các noãn bào nhỏ,
hình tròn, nhân lớn, rõ, có kích thước dao động từ 3- 50µm. Tuyến sinh dục của con
đực chứa các tinh nguyên bào.
Giai đoạn II: Tế bào sinh dục đang phát triển. Bằng mắt thường có thể phân biệt
được con đực, con cái qua màu sắc. Tuyến sinh dục của con cái có màu xanh lá cây
nhạt, còn con đực có màu hơi vàng. Noãn bào có dạng quả lê, cuống dài, nhân lớn rõ,
kích thước dao động từ 50- 100µm. Tinh tử bắt đầu hoạt hóa.
Giai đoạn III: Giai đoạn thành thục. Tuyến sinh dục của con cái có màu xanh lá
cây đậm, căng phồng, mập ôm lấy 1/3 cơ trục vỏ. Đầu tiên, tế bào trứng có hình đa
giác méo mó, sau đó tròn, nhân bé lại, mờ, nằm lệch về một bên. Màng keo dày bao
quanh trứng. Đường kính trứng trung bình dao động từ 180- 190 µm. Tuyến sinh dục
của con đực có màu vàng kem. Tinh trùng chứa đầy xoang và hoạt động mạnh.
Giai đoạn IV: Giai đoạn đẻ xong. Tuyến sinh dục co lại, mềm xẹp, nhăn nheo và
rỗng. Qua lát cắt mô bào có thể thấy trong buồng trứng còn sót lại một số noãn bào ở
giai đoạn thành thục, chứng tỏ bào ngư đẻ phân đợt.
8
Luận văn thạc sỹ
Hình 1.5: Tiêu bản tuyến sinh dục cái.
(e: giai đoạn I; f: giai đoạn II; g: giai đoạn III; h: giai đoạn IV)
1.1.7.3. Tuổi và mùa vụ, phương thức sinh sản [11]
c d
b
a
50µm
e
f
h
g

Hình 1.4: Tiêu bản tuyến sinh dục đực
(a: giai đoạn I, b: giai đoạn II, c: giai đoạn III, d: giai đoạn IV)
9
Luận văn thạc sỹ
+ Tuổi thành thục: Bào ngư 2 tuổi bắt đầu thành thục sinh dục.
+ Mùa vụ sinh sản: Mùa vụ sinh sản của bào ngư liên quan chặt chẽ đến các môi
trường nơi sinh sống. Nhiệt độ, chu kỳ ánh sáng và sự phong phú của nguồn thức ăn là
các yếu tố ảnh hưởng ảnh hưởng đến mùa vụ của bào ngư. Bào ngư vành tai sinh sản
quanh năm nhưng chủ yếu tập trung vào 2 vụ chính: Vụ xuân hè tháng 4 đến tháng 5
Vụ Thu đông tháng 10 đến tháng 11
+ Phương thức sinh sản:
Noãn sinh: Trứng và tinh trùng thành thục sẽ theo thận phải qua lỗ bài tiết ra
ngoài. Bào ngư phóng tinh và đẻ trứng qua các lỗ hô hấp ở trên vỏ. Sự phóng tinh của
con đực như làn khói thuốc lá màu trắng đục, con cái đẻ trứng có màu xanh nhạt. Bào
ngư đẻ trứng rời, không tạo thành noãn quần như một số động vật chân bụng khác.
Trứng và tinh trùng thụ tinh ngoài, quá trình phát triển phôi cũng diễn ra trong môi
trường nước.
Trứng bào ngư có dạng hình cầu đường kính của trứng khoảng 180µm, xung
quanh có màng bao có độ dày từ 40-50µm, những trứng không có màng bao ngoài là
những trứng chưa thành thục. Tinh trùng rất nhỏ hình búp sen.
1.1.7.4. Sức sinh sản
Theo nghiên cứu của Lê Đức Minh, 2000. Bào ngư vành tai ở vùng biển Nha
Trang có sức sinh sản tuyệt đối dao động từ 730.000- 1.370.000 trứng/cá thể cái, trung
bình 982.062 trứng. Sức sinh sản tương đối của bào ngư vành tai dao động 11.014-
22.717 trứng, trung bình 15.895 trứng/g thân mềm.
1.2. Tình hình nghiên cứu kĩ thuật sản xuất giống bào ngư trong và ngoài nước.
1.2.1. Trên thế giới
1.2.1.1. Kĩ thuật sản xuất giống.
Có thể nói, các nhà khoa học Nhật Bản là những người đầu tiên nghiên cứu cơ
bản về kĩ thuật sản xuất giống bào ngư.

S.A.Murayma [26] đã kích thích bào ngư H.discus hannai sinh sản bằng cách
nâng nhiệt độ và pH nước, ương nuôi ấu trùng trong 6 tuần lễ, đạt chiều dài vỏ 1mm.
T.Ino [22] thành công trong sản xuất giống 2 loài bào ngư khác là H.discus
hannai và H.sieboldii và ương nuôi được bào ngư tới 1 tháng tuổi, kích thước đạt
2mm.
Theo H.Kan-no [22] có 4 vấn đề cơ bản cần phải lưu ý trong nghiên cứu sản xuất
10
Luận văn thạc sỹ
giống bào ngư: Thứ nhất, cần chủ động nguồn bố mẹ bào ngư cho sinh sản bằng cách
nuôi phát dục trong bể xi măng. Thứ 2, nghiên cứu kĩ thuật thụ tinh, đảm bảo một số
lượng tối ưu các hợp tử có khả năng sống cao. Thứ 3, phải cung cấp lượng thức ăn đầy
đủ và đúng kích cỡ để nâng cao tỉ lệ sống của ấu thể bám và bào ngư con. Thứ 4, cần
hiểu biết sâu về tập tính của ấu thể bám, điều kiện môi trường đáy và cung cấp giá bám
phù hợp để ấu thể bám.
Theo K.O.Harn [21], kĩ thuật sản xuất giống bào ngư trải qua 4 giai đoạn:
Giai đoạn nuôi phát dục bào ngư bố mẹ trong điều kiện nhân tạo, giai đoạn kích
thích bào ngư sinh sản, ương nuôi ấu trùng nổi và ương nuôi ấu thể bám.
A.C.Giese [19], N.Uki và S.Kikuchi [32] đã xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến
quá trình thành thục sinh dục của bào ngư bố mẹ. Theo ý kiến của các tác giả, để bào
ngư bố mẹ thành thục sinh dục, có khả năng sinh sản, điều quan trọng là xác định được
điều kiện môi trường và các yếu tố dinh dưỡng, chu kì chiếu sáng và nhiệt độ nước. Số
lượng và chất lượng thức ăn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển và thành
thục sinh dục của bào ngư bố mẹ.
Trong điều kiện nuôi nhốt, bào ngư có thể sinh sản nếu được kích thích phù hợp.
Một số phương pháp kích thích bào ngư sinh sản nhân tạo như sau: [17]
− Phương pháp kích thích khô
Vớt bào ngư ra khỏi nước biển, phơi khô trong vòng một giờ và đưa vào lại nước
biển, bào ngư sẽ sinh sản sau đó. Phương pháp này không mang hiệu quả vì khi tiếp
nhận kích thích, bào ngư thường phóng tinh và đẻ một lượng lớn trứng chưa thành thục
sinh dục [13],[20].

− Phương pháp sốc nhiệt:
Nguyên tăc chung của phương pháp là cho cá thể đực và cái thành thục sinh dục
vào bể đẻ, từ từ tăng và giảm nhiệt độ nước biển 4- 5
0
C trong vòng vài giờ thì bào ngư
sẽ sinh sản sau đó. Theo một số tác giả như J.G.Carlisle [13], D.E.Morse [24],
K.O.Harn [21], R.Fallu [17], phương pháp này cũng giống như phương pháp kích thích
khô, không mang lại hiệu quả cao. Khi nhận được kích thích, bào ngư bố mẹ thường
phóng ra các giao tử chưa thành thục sinh dục và không cùng một thời gian, cho nên sự
thụ tinh thường không đạt hiệu quả cao.
− Phương pháp kích thích bằng đèn cực tím và H
2
O
2
:
Kích thích bào ngư đẻ bằng chiếu đèn cực tím vào nguồn nước trước khi chảy vào
11
Luận văn thạc sỹ
bể đẻ là phương pháp làm cho bào ngư đẻ nhanh và có hiệu quả cao. Vì vậy, nhiều
nước trên thế giới đang ứng dụng phương pháp này cho bào ngư sinh sản nhân tạo.
Theo ý kiến của T.Seki [30], E.E.Ebert và J.L.Houk [16], đây là phương pháp “sạch”
và tin cậy để sản xuất giống bào ngư đại trà.
Sử dụng hóa chất H
2
O
2
là phương pháp kích thích bào ngư sinh sản đơn giản,
không tốn kém và có hiệu quả. Tuy nhiên, phương pháp này đang có nhiều ý kiến trái
ngược nhau. J.B.Pena [28] cho rằng H
2

O
2
cùng với đệm Tris kích thích bào ngư
H.discus sinh sản rất ít so với phương pháp chiếu tia cực tím. Y.Tanaka [31],
D.E.Morse [23] lại cho rằng phương pháp kích thích sinh sản bằng H
2
O
2
đơn giản và
độ tin cậy cao hơn phương pháp chiếu tia cực tím.
G.A.Moss [25] đã ứng dụng 2 phương pháp trên để kích thích bào ngư H.iris ở
Niu Dilan sinh sản. Kết quả nghiên cứu cho thấy phương pháp kích thích sinh sản bằng
H
2
O
2
cùng với đệm Tris hiệu quả hơn phương pháp chiếu tia cực tím, 43% con đực
phóng tinh và 15% con cái đẻ trứng. Trong khi đó, phương pháp chiếu tia cực tím chỉ
kích thích được 4% con đực phóng tinh và con cái không đẻ. Trên cơ sở đó, ông
khuyến cáo nên dùng H
2
O
2
kích thích bào ngư sinh sản ở Niu Dilân.
Đối với bào ngư vành tai H.asinina ở vùng biển nhiệt đới, phương pháp kích thích
sinh sản bằng chiếu tia cực tím vào nguồn nước trước khi chảy vào bể đẻ không mang
lại kết quả [29];[12]. Theo các tác giả trên, bào ngư ở vùng biển nhiệt đới luôn nhận
được một lượng ánh sáng cực tím nhiều hơn bào ngư ở vùng biển ôn đới do sự phân bố
bức xạ mặt trời trên mặt đất không đồng đều nhau.
Tóm lại, phương pháp kích thích bào ngư sinh sản nhân tạo đã được nghiên cứu

phát triển nhiều trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác
nhau về việc áp dụng cho các loài bào ngư để nâng cao hiệu quả sinh sản.
1.2.1.2. Khai thác và bảo vệ nguồn lợi bào ngư
Nghề khai thác bào ngư tự nhiên đã có cách đây từ 5370 đến 7400 năm ở các bộ
lạc người da đỏ [27]. Đến đầu những năm 1850 khi người Trung Quốc đặt chân lên
Châu Mỹ, nghề khai thác bào ngư ở vùng biển California của Mỹ bắt đầu phát triển.
Đến năm 1879, ngành công nghiệp khai thác bào ngư ở Mỹ đã cho sản lượng 2000 tấn/
năm. Đến cuối những năm 50 của thế kỉ XX, nghề lặn bắt bào ngư bắt đầu phát triển ở
California trên cơ sở kĩ thuật lặn bắt của Nhật Bản [15]. Thống kê mới đây về tình hình
khai thác bào ngư trên thế giới cho thấy: Chi Lê, Australia, Nhật Bản, Mêxico và Niu
12
Luận văn thạc sỹ
Dilan là những nước có sản lượng khai thác cao nhất [18].
Bảng 1. Sản lượng khai thác bào ngư ở một số nước trên thế giới
từ năm 1984- 1991[18].
Nước Sản lượng bào ngư (tấn )
1984 1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991
Nhật Bản 3.900 4.580 4.510 4.190 3.900 3.570 3.350 3.066
Nam Phi 683 624 573
Mêxico 1.070 1.130 1.300 1.500 1.190 1.190 3.655 2.849
Niu Dilan 1.600 890 830 700 270 320 1.228 1.294
Mỹ 500 330 265 177
Triều Tiên 319 344 376
Chi Lê 18.360 11.100 6.370 21.230 11.180
Philipin 67 61 63
Canada 60 50 40
Ô Man 60 116 49
Australia 7.800 7.000 7.100 6.700 6.800 5.500 5.163 5.195
Tổng cộng 32.73
0

24.700 20.110 36.006 24.140 11.300 14.856 13.682
Nhìn chung, sản lượng đánh bắt bào ngư trên thế giới giảm rất nhanh trong vòng
8 năm. Tổng sản lượng đánh bắt bào ngư trên thế giới vào năm 1984 là 32.730 tấn, đến
năm 1991 chỉ còn 13.682 tấn, giảm 42% ( Bảng 1). Sản lượng đánh bắt bào ngư giảm
sút đáng kể là do nguồn lợi bào ngư tự nhiên bị khai thác quá mức và việc thực thi
chậm chạp luật bảo vệ nguồn lợi như hạn chế mùa vụ đánh bắt, kích cỡ được phép khai
thác v.v… làm cho quần thể bào ngư ngày càng cạn kiệt.
Trước những nguy cơ nguồn lợi bào ngư tự nhiên ngày càng cạn kiệt thì biện
pháp bảo vệ nguồn lợi đặt ra là cần nghiên cứu hoàn thiện kĩ thuật sản xuất giống, mặt
khác cần xúc tiến các nghiên cứu về phương pháp khai thác, quản lí, bảo vệ, phục hồi
và phát triển nguồn lợi bào ngư.
1.2.2. Nghiên cứu bào ngư ở Việt Nam
Có thể nói nghiên cứu bào ngư ở Việt Nam cho đến năm 1991 chủ yếu nêu lên
danh mục thành phần loài, mô tả hình thái cấu trúc và sinh thái phân bố [1],[2]. Từ
năm 1992 đến nay, có một số nghiên cứu về đặc điểm thành phần loài, sinh học sinh
sản tự nhiên, sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm bào ngư.
1.2.2.1. Nghiên cứu sinh sản nhân tạo và thử nghiệm sản xuất giống
Trước năm 1991, nghiên cứu bào ngư chủ yếu về thành phân loài, mô tả hình thái
cấu tạo và phân bố (Nguyễn Chính,1996). Từ năm 1992 đến nay, ngoài nghiên cứu về
đặc điểm thành phần loài, còn có các nghiên cứu về sinh học sinh sản tự nhiên, sinh
13
Luận văn thạc sỹ
sản nhân tạo, sản xuất giống ở quy mô phòng thí nghiệm (Nguyễn Văn Chung,1996;
Hà Đức Thắng, 1996; Lê Đức Minh,1998,1999,2000,2001) [2],[5],[7],[10]. Kết quả
nghiên cứu ban đầu về sinh sản nhân tạo, thử nghiêm sản xuất giống các loài bào ngư
chín lỗ, bào ngư bầu dục và bào ngư vành tai cho thấy bào ngư bố mẹ có thể nuôi
thành thục sinh dục trong điều kiện nhân tạo ở bể xi măng và kích thích sinh sản bằng
phương pháp cho nguồn nước đã chiếu tia cực tím vào bể đẻ, tăng giảm nhiệt độ nước
kết hợp với chiếu tia cực tim (đối với bào ngư chín lỗ và bào ngư bầu dục) (Hà Đức
Thắng, 1996; Nguyễn Văn Chung, 1996) thay đổi chu kỳ chiếu sáng ngày và đêm (đối

với bào ngư vành tai) (Lê Đức Minh,1999). Kết quả nghiên cứu quá trình phát triển
phôi và biến thái của ấu trùng cho thấy sau 5-7 giờ đối với bào ngư vành tai, 10-13 giờ
đối với bào ngư bầu dục, 10-12 giờ đối với bào ngư chín lỗ trứng thụ tinh nở thành ấu
trùng Trochophore và sau 1,5 đến 2 tháng cho bào ngư con. Các loài tảo Silic sống đáy
như Navicula, Nitzschia, rong câu chỉ vàng Gracilaria asiatica là những thức ăn thích
hợp để nuôi ấu thể bám spat, bào ngư con và nuôi lớn (Hà Đức Thăng 1996, Nguyễn
Văn Chung 1996, Lê Đức Minh 1999)
Tóm lại kĩ thuật sản xuất sản xuất giống bào ngư đã thành công trên quy mô
thí nghiệm ở Viện nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản III. Tuy nhiên, để mở rộng việc sản
xuất giống đạt hiệu quả kinh tế nhằm phổ biến ứng dụng cho người dân về công nghệ
sản xuất giống cần được hoàn thiện để ổn định các chỉ tiêu kĩ thuật trong quy trình sản
xuất giống, phát triển nghề nuôi bào ngư lên quy mô sản xuất hàng hóa trong những
năm tới.
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điềm và thời gian nghiên cứu
2.1. 1. Đối tượng nghiên cứu:
Bào ngư vành tai Haliotis asinina Linnaeus, 1758
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu:
14
Luận văn thạc sỹ
Thử nghiệm sản xuất giống nhân tạo được tiến hành tại trại sản xuất giống
Ba Làng, Đồng Đế, Thành phố Nha Trang, Khánh Hòa.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu:
Từ tháng 6 năm 2013 đến tháng 7 năm 2014
2.2. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu:
Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu của đề tài
Kỹ thuật sản xuất giống bào ngư vành tai
(Haliotis asinina Linnaeus, 1758)
Tuyển chọn và vận
chuyển bào ngư bố mẹ

Kích thích sinh sản và ấp
nở trứng
Kỹ thuật ương nuôi ấu trùng đến
con giống 0,5 cm
Tuyển
chọn
Vận chuyển Kích thích sinh sản Ấp nở trứng
Tình
trạng
sức
khỏe
Kích
thước
Vận
chuyển
khô
Vận
chuyển
nước
Tia
cực
tím
Tia cực
tím kết
hợp sốc
nhiệt
Tỷ lệ
thụ
tinh
Phát

triển
phôi
Mật
độ
ương
Quản
lý chất
lượng
nước
Nuôi
cấy
tảo
Sinh trưởng
và TLS của
ấu trùng và
con giống
Tỷ lệ
nở
Khối
lượng
Màu
sắc
TSD
Hiện
tượng
phóng tinh
và đẻ
trứng
Tỷ lệ
sinh sản

của bào
ngư
Thức
ăn và
chế độ
cho ăn
Các GĐ PT
của ấu trùng
và hậu ấu
trùng
15
Luận văn thạc sỹ
2.3. Phương pháp nghiên cứu.
2.3.1. Hệ thống trại sản xuất.
2.3.1.1. Vị trí trại sản xuất
Trại năm ở khu vực ven biển thuận lợi cho việc cấp, thoát nước, giảm thiểu
được chi phí sản xuất. Môi trường nước khu vực trại không bị ảnh hưởng bởi các chất
thải sinh hoạt, nhà máy, cảng, không bị ảnh hưởng của nguồn nước ngọt vào thời điểm
mùa mưa hoặc từ các con sông. Có hệ thống điện, giao thông thuận tiện phục vụ cho
việc sản xuất giống nhân tạo.
2.3.1.2. Nguồn nước và chất lượng nước.
- Nước biển: Được bơm trực tiếp từ biển, nước biển có độ mặn từ 28-35‰, pH: 7,5-
8,5; Oxy>5mg/l.
- Nước ngọt: Nguồn nước sinh hoạt, đã qua xử lý bằng clorin 10 ppm.
2.3.1.3. Các hạng mục công trình chính của trại sản xuất giống bào ngư vành tai
- Bể lọc được xác định là quan trọng nhất, nếu bể lọc không kỹ thì nó là nguyên
nhân đem nguồn bệnh đầu tiên. Ở trại sản xuất giống bể lọc được thiết kế như sau:
Vị trí cát và đá của bể lọc từ bề mặt tới đáy có thứ tự
STT Vật liệu Kíchcỡ
(đường kính)

Độ dày
(cm)
1 Cát mịn 1 0,5 mm 30-40
2 Cát mịn 2 1,0mm 20-30
3 Cát mịn 3 1,5 mm 20-30
4 Cát hạt thô 1 0,3 cm 20
5 Cát hạt thô 2 0,5 cm 12
6 Đá cuội 1 1,0 cm 10
7 Đá cuội 2 2,0 cm 5
8 Đá cuội 3 4,0 cm 10
- Bể xử lý nước: Bể xi măng, thể tích 10 m
3
(5mx2mx1m).
- Bể chứa nước: Bể xi măng, hình chữ nhật, có thể tích 10m
3
(5mx2mx1m)
- Bể ấp trứng: Bể composite, thể tích 1,5 m
3
(1,5mx1mx1m).
- Bể ương nuôi ấu trùng trôi nổi: Bể composite, thể tích 1,5 m
3
(1,5mx1mx1m).
- Bể ương nuôi ấu trùng bám và con giống: Bể xi măng, thể tích 5,4 m
3
(3mx1,5mx1,2m).
- Bể nuôi cấy tảo: Bể copozite, thể tích 1,5 m
3
(1,5mx1mx1m).
- Bể kích thích bào ngư sinh sản: Bể composite, thể tích 1,5 m
3

(1,5mx1mx1m).
- Bể nuôi bào ngư bố mẹ: Bể xi măng, thể tích 3,6m
3
(2mx1,5mx1,2m).
16
Luận văn thạc sỹ
- Vật bám cho bào ngư giống bám (bản bám): làm bằng ni lon có kích thước
(50x50)cm, dùng đá cuội cốt vào điểm giữa vật bám để cho vật bám chìm xuống nước.
2.3.2. Kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo bào ngư.
2.3.2.1. Nguồn Bào ngư bố mẹ: Bào ngư vành tai bố mẹ được thu mua tự nhiên từ đảo
Bình Ba, Cam Ranh, Khánh Hòa.
2.3.1.2. Vận chuyển bào ngư: Bằng 2 phương pháp
+ Vận chuyển nước: Bào ngư bố mẹ sau khi đã lựa chọn cho vào thùng xốp, hạ nhiệt
độ nước xuống còn 23-25
0
C, sục khí, vận chuyển về trại sản xuất giống ở Ba Làng,
Đồng Đế, Khánh Hòa.
+ Vận chuyển khô ẩm: Bào ngư bố mẹ sau khi đã lựa chọn cho vào thùng xốp, cho
rong câu thấm nước biển sạch vào giữ độ ẩm, vận chuyển về trại sản xuất giống ở Ba
Làng, Đồng Đế, Khánh Hòa.
Bào ngư sau khi vận chuyển về tiến hành kiểm tra tình trạng sức khỏe, khả năng sinh
sản và tỷ lệ sống.
2.3.2.3. Kỹ thuật nuôi vỗ bào ngư bố mẹ
2.3.2.3.1. Nuôi vỗ trong bể xi măng
Nuôi vỗ bào ngư vành tai bố mẹ trong bể xi măng thể tích 3,6m
3
. Vệ sinh bể
bằng xà phòng sau đó tạt cholorine nồng độ 200 – 300 ppm. Sau 2 – 3 ngày tiến hành
rửa sạch lại bằng nước ngọt. Cấp nước biển vào bể và xử lý EDTA với nồng độ 5 ppm.
Bể nuôi được thiết kế lắp đặt hệ thống lọc sinh học tạo dòng chảy ra vào với tốc độ

mạnh (≥15 lít/phút) tạo thành một dòng chảy trong bể. Sử dụng lồng nuôi trong bể có
kích thước (30x40x28) cm, cho vật bám bằng ống nhựa vào lồng cho bào ngư trú ẩn,
thả bào ngư vào lồng nuôi với mật độ 25 con/lồng. Treo lồng nuôi với số lượng 12
lồng/bể. Thức ăn được sử dụng trong quá trình nuôi vỗ bào ngư bố mẹ là rong câu chỉ
vàng, lượng thức ăn sử dụng bằng 3 – 5 % khối lượng. Cho ăn 1 lần/ngày. Hàng ngày
vớt bỏ thức ăn thừa, vệ sinh lồng nuôi và đáy bể, thay ½ nước nuôi trong bể. Hàng
tuần thay nước 100% trong bể, thay giá bám và kiểm tra tuyến sinh dục.
2.3.2.3. Nuôi vỗ ở hệ thống lồng bè
Lồng nuôi vỗ được đặt tại khu vực biển Đầm Báy, Đảo Hòn Tre, vịnh Nha
Trang, Khánh Hòa. Khu vực này có tính chất thủy triều là nhật triều không đều. Độ
sâu đáy biển nơi đặt lồng khoảng 20 – 45 m, chất đáy là cát bùn, phù hợp với nuôi bào
ngư vành tai. Lồng sử dụng cho nuôi vỗ bào ngư bố mẹ có kích thước (30x40x28) cm,
17
Luận văn thạc sỹ
trong lồng được gắn thêm gạch, vừa có tác dụng làm giá thể cho bào ngư bám, vừa
giúp cho lồng chìm xuống. Lồng nuôi được thả xuống biển ở độ sâu 2,5m. Mật độ nuôi
là 25 con/lồng. Trong quá trình nuôi vỗ định kỳ 1 tuần tiến hành vệ sinh lồng nhằm
duy trì nước lưu thông, cung cấp đầy đủ oxy, loại bỏ các loại thức ăn thừa ra khỏi
lồng, qua đó hạn chế sự phát triển của tác nhân gây bệnh. Trong điều kiện thời tiết
mưa bão cần thả lồng sâu xuống biển để giảm tác động của sự biến đổi các yếu tố môi
trường. Thức ăn được sử dụng trong quá trình nuôi vỗ bào ngư bố mẹ là rong câu chỉ
vàng, lượng thức ăn sử dụng bằng 3 – 5 % khối lượng thân. Cho ăn 1 lần/ngày và kiểm
tra lượng thức ăn thừa để có sự điều chỉnh. Hàng tuần kiểm tra tuyến sinh dục.
2.3.2.4. Kỹ thuật kích thích bào ngư sinh sản.
Dựa vào các đặc điểm sinh học sinh sản làm cơ sở khoa học cho việc thực
nghiệm sinh sản nhân tạo bào ngư vành tai, chúng tôi tiến hành nghiên cứu các biện
pháp kỹ thuật cơ bản trong sinh sản nhân tạo bao gồm kỹ thuật tuyển chọn,vận chuyển,
nuôi vỗ Bào ngư bố mẹ thành thục, kỹ thuật kích thích và ấp nở trứng, kỹ thuật ương
nuôi ấu trùng.
2.3.2.4.1. Tuyển chọn bào ngư bố mẹ

Căn cứ vào tình trạng sức khỏe, kích thước, khối lượng, màu sắc tuyến sinh dục.
Căn cứ vào đặc điểm sinh học, sinh sản và các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục
theo thang 4 bậc có tham khảo tài liệu của B.D.Lee [19], S.A.Shepherd [34].
Phương pháp kiểm tra, lựa chọn đực, cái: dùng chiếc thìa bằng Inox lật nhẹ gờ nội
tạng về phía đỉnh vỏ sẽ thấy tuyến sinh dục của chúng giống như hình lưỡi liềm bao
bọc quanh tuyến gan ôm 2/3 cơ trục vỏ. Bào ngư vành tai khi hình thành tuyến sinh
dục thì phân biệt đực cái rất rõ ràng. Tuyến sinh dục của con cái có màu xanh lá cây
đậm, căng phồng. Tuyến sinh dục của con đực có màu vàng kem.
2.3.2.4.2. Các phương pháp kích thích sinh sản nhân tạo.
+ Kích thích bằng đèn cực tím
Nước biển lọc sạch có độ mặn 30‰; pH: 7,5 - 8,5; nhiệt độ: 27-29
o
C, cho nước
qua hệ thống đèn cực tím có công suất 10W. Sau khoảng 10-20 phút bào ngư bắt đầu
tham gia sinh sản.
+ Kích thích đẻ bằng phương pháp gây sốc nhiệt kết hợp với đèn cực tím
Nước biển lọc sạch có độ mặn 30‰, pH: 7,5-8,5 cho nước biển qua hệ thống đèn
tia cực tím có công suất 10W; nhiệt độ nước 27
0
C dùng nước biển đun sôi nâng nhiệt
18
Luận văn thạc sỹ
độ nước biển trong bể đẻ lên 30 - 31
0
C để khoảng 3 giờ sau đó dùng đá lạnh hạ nhiệt
về 27
0
C để 40-60 phút bào ngư bắt đầu tham gia sinh sản.
Nếu bào ngư chưa đẻ thì lặp lại kích thích cho đến khi bào ngư vận động mạnh, đẻ
trứng và phóng tinh. Bào ngư thường sinh sản vào ban đêm. Thường con đực phóng

tinh trước, sự phóng tinh con đực kích thích con cái đẻ trứng. Sự thụ tinh xẩy ra ngay
sau đó, trứng chìm xuống đá, bắt đầu xảy ra phân bào. Sau khi bào ngư sinh sản, vớt
bào ngư bố mẹ ra khỏi bể và đậy kín bạt. Trứng thụ tinh lắng xuống đáy bể, tiến hành
hút hết nước có lẫn trứng và tinh trùng ở phần trên ra, vớt trứng đã được thu tinh, rửa
sạch trứng bằng nước biển lọc sạch qua các lưới lọc có kích cỡ 120,150µm để loại bỏ
tinh trùng, trứng không thụ tinh và các tạp chất bám vào trứng thụ tinh, chuyển trứng
thụ tinh vào bể ương với mật độ 5-10 trứng/ml.
2.3.2.5. Kỹ thuật thu, xử lý và ấp trứng và ương nuôi ấu trùng trôi nổi.
Bể được vệ sinh sạch sẽ bằng Chlorine, sau đó lắp đặt hệ thống sục khí, cung
cấp nước đã được xử lý bằng Chlorine qua ống lọc có kích thước 0,5µm, mực nước
cấp vào bể khoảng 0,8-1,0m. Các dụng cụ trước khi sử dụng để thu trứng phải được
tẩy bằng Chlorine. Dụng cụ sử dụng gồm ống lọc được làm bằng nhựa dẻo có đường
kính 27mm, túi lọc có kích thước gas 150, vợt lọc chất bẩn có kích thước gas 120 µm
và một số dụng cụ khác. Bể được che kín bằng bạt đen để tránh ấu trùng hướng sáng.
2.3.2.5.1. Kỹ thuật thu, xử lý và ấp trứng
Sau khi bào ngư đẻ, vớt bào ngư bố mẹ ra khỏi bể đẻ, đậy bạt kín và sục khí
nhẹ.Tiến hành thu, lọc, rửa trứng bằng nước biển đã được xử lý Chlorine và chuyển
sang bể ấp trứng và ương nuôi ấu trùng trôi nổi. Mật độ ấp trứng là 300-400 trứng/lít.
Trong thời gian ấp trứng sục khí nhẹ nhàng và thay nước ngày một lần để giữ cho môi
trường nước bể nuôi trong sạch.
2.3.2.5.1. Ương nuôi ấu trùng trôi nổi
Ấu trùng Trochophore nở ra sau 5-7 giờ ấp.Vớt chuyển ấu trùng sang bể ương
nuôi. Mật độ ương nuôi thích hợp 100-200con/lít. Sau hơn 20 giờ ấu trùng
Trochophore phát triển thành ấu trùng Verliger. Ở giai đoạn ấu trùng Trochophore và
Veliger, ấu trùng không ăn thức ăn ngoài, dinh dưỡng dựa vào noãn hoàng còn lại do
vậy chỉ cần chăm sóc quản lý tốt giữ cho môi trường trong sạch. Hằng ngày xi phông
đáy bể, thay nước ngày/lần vào buổi sáng. Khi ấu trùng bắt đầu biến thái chuyển sang
ấu thể bám, cần cung vật bám đã cấy tảo đáy Navicula sp
.
19

Luận văn thạc sỹ
2.3.2.6. Quy trình kỹ thuật ương nuôi ấu trùng bám và bào ngư giống.
Trước khi thả ương nuôi bể phải được rửa sạch bằng chlorine, lắp dây sục khí, tiến
hành cấy tảo vào bể ương nuôi.
2.3.2.6.1. Kỹ thuật cấy tảo: Theo công thức cấy tảo môi trường F/2 (Guillard, 1975)
2.3.2.6.2. Kỹ thuật ương nuôi ấu trùng bám và bào ngư giống
Ương nuôi ấu thể bám và bào ngư giống trên các tấm nilon kích thước (50x50)cm
có tảo đáy Navicula sp, ương ấu thể bám và bào ngư giống qua hai giai đoạn.
+ Giai đoạn 1 từ ấu thể bám đến con giống 0,2-0,3cm, mật độ ương 100-300 con/bản,
cho ăn thức ăn là tảo đáy navicula sp, ương khoảng 10-15 ngày.
+ Giai đoạn 2 từ con giống 0,2- 0,3cm đến kích thước 0,5cm, mật độ ương 50-100
con/bản, cho ăn thức ăn là tảo đáy navicula sp.
Quản lý và chăm sóc: Hàng ngày vệ sinh thường xuyên đáy bể để loại bỏ xác tảo tàn.
Đồng thời loại bỏ các chất thải và xác ấu trùng ở trong bể nuôi đồng thời thay nước
liên tục, lượng nước thay là 50% lượng nước trong bể, cung cấp thêm tảo đã cấy sẵn,
chú ý cường độ chiếu sáng vào bể nuôi để kích thích tảo phát triển nhanh nhưng cũng
để cho tảo trong bể nuôi phát triển quá nhanh gây tàn lụi tảo. Đến giai đoạn ương từ
con giống 0,2 đến 0,5 cm thì ngoài cho ăn thức ăn tảo đáy Navicula sp thì cho ăn kết
hợp thêm rong câu non băm nhỏ. Khi bào ngư đạt kích thước khoảng 0,5cm,chuyển ra
nuôi thương phẩm.
2.3.2.7. Theo dõi sự sinh sản, phát triển phôi và ấu trùng Bào ngư
- Theo dõi hoạt động sinh sản, quá trình phát triển phôi và ấu trùng
- Định lượng trứng và ấu trùng theo phương pháp thể tích
- Xác định thời gian biến thái của ấu trùng và hậu ấu trùng
- Chụp ảnh đo kích thước ấu trùng để xác định tốc độ sinh trưởng của ấu trùng
và bào ngư giống.
2.4. Phương pháp bố trí thí nghiệm
2.4.1. Ảnh hưởng của mật độ ương đến sự sinh trưởng của ấu trùng bám
Sử dụng tấm ni lon có kích thước (50x50) cm làm bản bám cho bào ngư
Tiến hành thí nghiệm ở các bể composite có dung tích 250 lít với mật độ ấu

trùng bám: 100 con/bản bám; 200 con/bản bám; 300 con/bản bám, trong cùng điều
kiện nuôi, thức ăn, chế độ chăm sóc như nhau. Xác định kích thước, thời gian chuyển
giai đoạn và tỷ lệ sống của ấu trùng bám. Mỗi nghiệm thức lặp lại 04 lần.
20
Luận văn thạc sỹ
Hình 2.2: Ảnh hưởng của mật độ ương nuôi đến tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống
2.4.2. Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ tăng trưởng của con giống bào ngư vành
tai
Tiến hành thí nghiệm các loại thức ăn ương nuôi bào ngư vành tai (Haliotis
asinina) giống giai đoạn 0,1-0,5 cm. Thí nghiệm được bố trí theo dõi ở các bể
composite có dung tích 250 lít, có sục khí. Mật độ nuôi 200 con/bể và cho ăn các loại
thức ăn khác nhau như sau:
- Dùng hoàn toàn bằng tảo bám: Navicula sp
- Dùng tảo bám kết hợp rong câu non băm nhỏ: Navicula sp và Gracilaria asiatica
- Dùng hoàn toàn rong câu non băm nhỏ: Gracilaria asiatica
Theo dõi sự tăng trưởng, tỷ lệ sống của bào ngư giống. Định kỳ 5 ngày đo kích
thước 1 lần để xác định sinh trưởng của con giống. Mỗi nghiệm thức lặp lại 04 lần.
Hình 2.3: Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống
Con giống 0,1 - 0,5cm
Cho ăn thức ăn hoàn
toàn tảo bám
Navicula sp
Cho ăn thức ăn tảo bám

Navicula sp kết hợp rong câu
non Gracilaria asiatica băm
nhỏ.
Cho ăn thức ăn hoàn toàn
là rong câu non
Gracilaria asiatica băm

nhỏ.
100 con/bản
Ấu trùng bám
200 con/bản 300 con/bản
Tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống
Sự tăng trưởng, tỷ lệ sống
21
Luận văn thạc sỹ
2.5. Phương pháp thu thập và phân tích số liệu, xử lý số liệu
2.5.1. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp: Tham khảo tài liệu
Số liệu sơ cấp: Làm trực tiếp
2.5.2. Xác định các chỉ tiêu về kích thước và khối lượng
- Xác định kích thước bằng thước kẹp có độ chính xác 0,1 mm.
- Khối lượng được xác định bằng cân điện tử SHIMADZU AW 220 (LabCommerce
Inc, USA) có độ chính xác 0,1g.
2.5.3. Xác định các chỉ tiêu về sinh sản của bào ngư.
- Xác định các giai đoạn thành thục của bào ngư vành tai bố mẹ theo thang 4
bậc có tài liệu tham khảo của B.D.Lee [19], S.A.Shepherd [34].
- Xác định sức sinh sản: Theo phương pháp thể tích
+ Sức sinh sản thực tế: Được xác định bằng số trứng thu được trên cá thể mẹ
trong một đợt đẻ trứng.
+ Sức sinh sản hiệu quả: Được xác định bằng số lượng ấu trùng Veliger khỏe
mạnh đủ tiêu chuần đưa vào bể ương.
- Theo dõi hoạt động sinh sản, sự phát triển phôi và ấu trùng, thời gian biến thái
qua các giai đoạn, chụp ảnh, đo kích thước trên kính hiển vi.
- Thời gian biến thái của ấu trùng được tính tại thời điểm có 50% tổng số ấu trùng
chuyển sang giai đoạn kế tiếp.
- Định lượng trứng và ấu trùng theo phương pháp tính thể tích: Dùng cốc 250 ml
lấy mẫu ở 5 điểm trong bể (4 góc và một điểm ở giữa). Đổ chung vào một cốc lớn,

dùng đũa khuấy đều. Lấy nhanh 30-50ml nước mẫu cho vào cốc đong, nhỏ 2-3 giọt
cồn Iốt để làm chết ấu trùng. Đếm số lượng ấu trùng trong cốc. Đếm 3 lần và lấy giá
trị trung bình từ đó tính ra số lượng trứng và ấu trùng có trong bể.
- Chụp ảnh, đo kích thước ấu trùng qua kính hiển vi
- Phương pháp xác định sự tăng trưởng tương đối được tính theo công thức của Ricker
(1979).
Gr = [ln(L
t2
)-ln(L
t1
)]/(t
2
-t
1
)
Trong đó: Gr sự sinh trưởng (%/ngày)
L
t1
kích thước (mm) tại thời điểm ban đầu t
1
L
t2
kích thước (mm) tại thời điểm t
2
22

×