Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

TÌM HIỂU VỀ Ô NHIỄM ĐẤT DO VI SINH VẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.87 KB, 11 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA CƠ KHÍ CHẾ TẠO MÁY
Tiểu luận môn học:
AN TOÀN LAO ĐỘNG VÀ MÔI TRƯỜNG CÔNG
NGHIỆP.
ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VỀ Ô NHIỄM ĐẤT DO VI SINH VẬT
LỜI NÓI ĐẦU
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là
nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa
của con người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài
nguyên đất vào hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp
lương thực thực phẩm cho con người. Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số và
tốc độ phát triển công nghiệp và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện
tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, chất lượng đất ngày càng bị suy thoái,
diện tích đất bình quân đầu người giảm. Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế
suy thoái tài nguyên đất là rất đáng lo ngại.
I. Môi trường đất:
Việt Nam có diện tích tự nhiên 32.931.456 ha với 3/4 lãnh thổ là đồi núi
và trung du, trong đó diện tích sông suối không có rừng cây chiếm 1,3 triệu
ha, phần đất liền chiếm 31,2 triệu ha. Xếp thứ 58 thế giới nhưng do dân số
nước ta đông nên diện tích bình quân đầu người ở nước ta rất thấp, chỉ bằng
1/6 thế giới.
II. Các nguồn gây ô nhiễm và suy thoái đất:
1. Các nguồn gây ô nhiễm:
a. Ô nhiễm đất do vi sinh vật:
Nguồn gây ô nhiễm này chủ yếu: là chất thải chưa qua xử lý của người
và động vật, nước thải bệnh viện, nước thải sinh hoạt trong đó nguy hại
lớn nhất là chất thải chưa được xử lý khử trùng của các bệnh viện truyền
nhiễm. Rất nhiều vi khuẩn và ký sinh trùng tiếp tục sinh sôi nảy nở trong
đất, bám vào các cây trồng nông nghiệp và truyền vào cơ thể người, động


vật. Ngoài những nguồn ô nhiễm trên, các hoạt động tưới không thích đáng,
chặt cây rừng, khai hoang cũng tạo thành các hiện tượng rửa trôi, bạc mầu,
nhiễm phèn trong đất. Theo thống kê, hàng năm diện tích đất này trên thế
giới tăng từ 5.000.000 đến 11.000.000 ha. Có thể thấy rằng, chống ô nhiễm
đất đang là vấn đề bức thiết đặt ra cho nhiều quốc gia.
Một số biện pháp cơ bản hiện nay là:
- khống chế các chất thải rắn, lỏng, khí. Mở rộng và phát triển công nghệ
tuần hoàn kín hoặc xử lý chất thải để giảm hoặc loại bỏ các chất gây ô
nhiễm; khi lợi dụng nước thải để tưới ruộng, cần nắm được thành phần chất
ô nhiễm, hàm lượng và trang thái, khống chế số lượng nước tưới hoặc thực
hiện xử lý chần thiết;
- thứ 2 là nên khống chế việc sử dụng nông dược hoá học, hạn chế sử dụng
các thuốc có độc tính cao, khả năng tồn tại lớn, phát triển các loại thuốc
nông nghiệp mới có hiệu quả cao, độc tính thấp, lượng tồn trữ ít.
Thứ 3 là bón. phân hoá học một cách hợp lý.
- Thứ 4, nên tích cực áp dụng rộng rãi các kỹ thuật sinh học phòng trị sâu
hại, lợi dụng các loài chim có ích, côn trùng có ích và một số vi sinh vật gây
bệnh để chống lại các loại sâu hại, biện pháp này đang được rất nhiều nước
trên thế giới sử dụng. Đất, nước và không khí là những điều kiện cơ bản cho
sự sinh tồn của con người, những hiệu ứng phụ của khoa học công nghệ hiện
đại đã hạn chế lớn tới sự phát triển lành mạnh của xã hội loài người, nếu
chúng ta không có biện pháp từ hôm nay, chúng ta sẽ chết dần chết mòn trên
những mảnh đất ô nhiễm ấy.
b. Ô nhiễm đất do vi sinh vật có trong nước thải:
Ô nhiễm đất vì nước thải Nguyên nhân là không biết cách lợi dụng một
cách khoa học các loại nước thải để tưới cho cây trồng. Sử dụng hợp lý
nguồn nước thải tưới đồng ruộng sẽ tận dụng được lượng Nitơ, Photpho,
Kaki trong nước, có lợi cho cây trồng. Nhưng nếu như nước ô nhiễm chưa
qua xử lý cần thiết, tưới bừa bãi, thì có thể đưa các chất có hại trong nguồn
nước vào đất gây ô nhiễm. Việc lợi dụng nước thải để tưới ruộng gây ô

nhiễm đất, ảnh hưởng tới người và gia súc có ở mọi quốc gia. Sự kiện “
Cadimi ” xảy ra ở Nhật Bản năm 1955 là một ví dụ. Nông dân ở vùng núi
Phú Sĩ một thời gian dài đã sử dụng nước thải của một nhà máy luyện kẽm
gần đó để tưới ruộng, Cadimi chứa trong nước thải tích luỹ dần trong lúa gạo
ở khu vực này. Hậu quả là những người nông dân bị chứng đau nhức các
khớp xương, 34 người chết, 280 người tàn phế. Theo một điều tra nông thôn
Nhật Bản, năm 1970, diện tích đất ô nhiễm do nước ở Nhật là 190.000 ha,
làm thiệt hại 22 tỷ Yên. Trong những năm 70, nông dân Ấn Độ cũng sử
dụng tràn lan các nước thải thành thị chưa qua xử lý để tưới ruộng, khiến
cho khả năng sản xuất của đất giảm, gây hại tới sức khoẻ nông dân. Theo
một báo cáo, tỷ lệ nhiễm các bệnh về đường ruột ở người do nông phẩm ở
những khu vực này cao hơn gấp 3 lần những nơi khác.
Đây là 2 loại hoá chất quan trọng trong nông nghiệp, nếu sử dụng thích
hợp sẽ có hiệu quả rõ rệt đối với cây trồng. Nhưng nó cũng là con dao 2
lưỡi, sử dụng không đúng sẽ lợi bất cập hại, một trong số đó là ô nhiễm đất.
Nếu bón quá nhiều phân hoá học là hợp chất nitơ, lượng hấp thu của rễ thực
vật tương đối nhỏ, đại bộ phận còn lưu lại trong đất, qua phân giải chuyển
hoá, biến thành muối nitrat trở thành nguồn ô nhiễm cho mạch nước ngầm
và các dòng sông. Cùng
với sự tăng lên về số
lượng sử dụng phân hoá
học, độ sâu và độ rộng
của loại ô nhiễm này
ngày càng nghiêm trọng.
Vì số lượng lớn nông
dược tích luỹ trong đất,
đặc biệt là các thuốc có
chứa các nguyên tố như
chì, asen, thuỷ ngân có
độc tính lớn, thời gian lưu lại trong đất dài, có loại nông dược thời gian lưu

trong đất tới 10 đến 30 năm, những loại nông dược này có thể được cây
trồng hấp thu, tích trong quả và lá và đi vào cơ thể người và động vật qua
thực phẩm, ảnh hưởng đến sức khoẻ. Thuốc trừ sâu đồng thời với việc diệt
các côn trùng gây hại, cũng gây độc đối với các vi sinh vật và côn trùng có
ích, các loại chim, cá và ngược lại một số loại sâu bệnh thì lại sinh ra tính
kháng thuốc. Theo điều tra của tổ chức nông lương thế giới: năm 1965, có
182 loài côn trùn gây hại có khả năng kháng thuốc, năm 1968, tăng lên 228
loài và đến 1979 lên tới 364 loài. Trong số 25 loài sâu hại nông nghiệp chủ
yếu ở các nông trường California Mỹ thì có 17 loài đã có khả năng kháng
đối với một hoặc vài loại thuốc, mỗi năm, số sâu hại kháng thuốc này làm
thiệt hại mấy chục triệu đôla cho nông nghiệp vùng này.
- Bón chủ yếu là phân đạm nên không cân đối trong việc bón phân
- Chất lượng phân bón không đảm bảo
c. Ô nhiễm đất do vi sinh vật có trong chất phế thải:
Ô nhiễm đất vì chất phế thải Nguồn chất thải rắn có rất nhiều, chất thải rắn
công nghiệp, chất thải rắn của ngành khai thác mỏ, rác ở đô thị, chất thải
nông nghiệp và chất
thải rắn phóng xạ.
Chủng loại của chúng
rất nhiều, hàm lượng
các nguyên tố độc
trong chúng cũng không giống nhau; tỷ lệ nguyên tố độc hại trong chất thải
rắn công nghiệp thường cao hơn; rác thành thị chứa các loại vi khuẩn gây
bệnh và ký sinh trùng; chất thải rắn nông nghiệp chứa các chất hữu cơ thối
rữa và thuốc nông nghiệp còn lưu lại ; chất thải phóng xạ có chứa các
nguyên tố phóng xạ như Uranium, Strontium, Caesium những chất thải rắn
này được vứt bừa bãi, ngấm nước mưa, và rỉ ra nước gây ô nhiễm đất, sông
ngòi, ao hồ và nguồn nước ngầm, nguồn nước ô nhiễm này lại được dùng để
tưới đồng ruộng sẽ làm thay đổi chất đất và kết cấu đất, ảnh hưởng tới hoạt
động của vi sinh vật trong đất, cản trở sự sinh trưởng của bộ rễ thực vật và

ảnh hưởng tới sản lượng cây trồng.
III. Hiện trạng ô nhiễm môi trường đất:
1. Ô nhiễm môi trường đất:
- Do các chất thải chưa qua sử lý của con người và động vật, nước thải
bệnh viện và nước thải sinh hoạt…nhưng nguy hại nhất là các chất thải chưa
qua sử lý.
- Do sử dụng phân bón không đúng kỹ thuật làm ô nhiễm môi trường đât:
có đến 50% đạm, 50%kali và khoảng 80% lân dư thừa làm gây dô nhiễm
môi trường đất. các phân thuộc nhóm chua sinh lý như supe phootsphat, hay
K
2
SO
4
, còn tồn dư axit làm nghèo cation kiềm, chua đất và làm xuất hiện
nhiều độc tố trong môi trường đất như AL
3
+
,Fe
+
3

- Ô nhiễm do sử dụng thuốc bảo vệ thực vật:
thuốc bảo vệ thực vật có tác dụng hết sức độc hại đối với các sinh vật có hại,
có lợi môi trường đất. Tuy nhiên tại một số nơi phát hiện nồng độ chất bảo
vệ thực vật trong môi trường đất vượt quá giới hạn cho phép.
2. Suy thoái đất:
Các hình thoái hóa đất chủ đạo ỏ nước ta là:
- Xói mòn, rửa trôi, trượt và lở đất
- Suy thoái hóa học (mặn, chua…)
- Mất chất dinh dưỡng, muối khoáng và chất hữu cơ.

- Đất bị chua
- Xuất hiện nhiều độc tố hại cây trồng.
- Hoang mạc hóa.
3 Ảnh hưởng của suy thoái và ô nhiễm đất:
Sự
suy thoái
đất sẽ dẫn
đến giảm
năng
suất cây
trồng,
vật nuôi,
làm nghèo
thảm
thực vật,
suy giảm
đa dạng
sinh học.
Đồng thời chúng có tác động ngược lại cho quá trình xói mòn, thoái hóa đất
liền ra nhanh hơn.
Sự tích tụ cao các chất độc hại, các kim loại nặng trong đất làm tăng
khả năng hấp thụ các nguyên tố có hại trong cây trồng, vật nuôi, gián tiếp
ảnh hưởng đến sức khỏe của con người.
Do nhiều hóa chất trong cây trồng nên ngày nay tình trạng ngộ độc thực
phẩm do cac hóa chất bảo vệ thực vật gây ra cũng hết sức khôn lường. theo
thống kê cục an toàn vệ sinh thực phẩm năm 2004 có 145 vụ ngộ độc thực
phẩm
4. Nguyên nhân gây ô nhiễm đến môi trường đất:
Những nguyên nhân gây suy thoái đất:
- Do đặc điểm điều kiện tự nhiên của nước ta ¾ diện tích là đồi núi và trung

du nên khi thay đổi về khí hậu làm thay đổi thảm thực vật. Vì vậy dễ dẫn
đến hiện tượng xói mòn, rửa trôi…
- Do điều kiện dân số tăng nhanh, làm cho nhu cầu phá nương làm rẫy tăng
nhanh, đô thi hóa mở rộng…khai thác khoáng sản, làm thay đổi tính chất đất
và mất đất.
- Do hoạt động sản xuất công nghiệp.
IV. kết luận:
Các nhà khoa học đã không ngừng phát triển công nghệ nhằm giảm thiểu
các chất ô nhiễm môi trường đất nhằm đem lại một chất lượng cuộc sống tốt
đẹp hơn cho con người. Phát triển công nghệ, kỹ thuật mới không những
đem lại sự tiện nghi thoải mái cho con người sử dụng trong hiện tại mà còn
giảm thiểu sự gia tăng các chất gây ô nhiễm nhằm mang đến một môi trường
sống an toàn cho con người trong tương lai.
Chính phủ các nước hợp tác chặt chẽ với nhau trong lĩnh vực này
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
……………………………………………………………………………….
….……….
………………………………………………………………………
…………






















×