Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của một số kỹ thuật trồng rau an toàn bằng công nghệ không dùng đất và ứng dụng mô hình vào sản xuất (Đề tài nghiên cứu khoa học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 52 trang )

Nghiên cứu ảnh hưởng của một số kỹ thuật
trồng rau an toàn bằng công nghệ không
dùng đất và ứng dụng mô hình vào sản xuất
(Đề tài nghiên cứu khoa học)
1
PHẦN I
MỞ ĐẦU

1.1.Tính cấp thiết của đề tài
An toàn thực phẩm là một vấn đề quan trọng, cấp bách, nó xẩy ra từng
ngày, từng giờ, trong cuộc sống của chúng ta và nó cũng đã và đang được giải
quyết trong việc hoạch định chiến lược kinh tế và thực hiện chiến lược kinh tế
đối với mỗi quốc gia trên toàn cầu cũng như việc hội nhập kinh tế Quốc tế.
Nước ta, thực phẩm nói chung, rau an toàn nói riêng là một vấn đề bức xúc
hiện nay được Đảng và nhà nước hết sức quan tâm.
Theo thống kê của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), hằng năm trên thế
giới có trên 40.000 người chết trong tổng số 2 triệu người ngộ độc rau. Tại Việt
Nam, thống kê mới nhất của ngành y tế cho biết, trong vài năm gần đây, tính
riêng số người ngộ độc thực phẩm phải nhập viện cấp cứu do nguồn rau, củ thiếu
an toàn đã lên đến con số hơn 700 người. Trong khi đó, người tiêu dùng ngày
càng nhận thức rõ được tầm quan trọng của rau xanh trong bữa ăn hàng ngày, họ
ăn nhiều rau hơn, và nhu cầu về rau an toàn cũng lớn hơn. Nhưng các vùng sản
xuất rau lại chưa gây dựng được lòng tin cho người tiêu dùng, mặc dù họ sẵn
sàng trả giá cao gấp nhiều lần cho một sản phẩm rau an toàn.
Phú Thọ là tỉnh có diện tích đất nông nghiệp lớn nhưng chủ yếu là đối núi,
diện tích rau càng ngày càng thu hẹp. Hiện nay chủ trương của tỉnh là phát triển
rau an toàn vì nông nghiệp bền vững, tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu về vấn
đề này. Xuất phát từ thực tiễn đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên
cứu ảnh hưởng của một số kỹ thuật trồng rau an toàn bằng công nghệ không
dùng đất và ứng dụng mô hình vào sản xuất”.
1.2 Mục tiêu, yêu cầu của đề tài


1.2.1. Mục tiêu
- Xác định khả năng thích nghi, sinh trưởng, phát triển và năng suất một số
giống rau thơm, rau cải ngọt, xà lách bằng kỹ thuật trồng không dùng đất.
- Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật để sản xuất rau an toàn với giá thành
hạ, chất lượng an toàn theo hướng 3 giảm (giống, phân hóa học, thuốc bảo vệ
thực vật) và ứng dụng công nghệ sinh học, hạn chế thấp nhất các chỉ tiêu độc
chất, đảm bảo an toàn để cung cấp cho người tiêu dùng trong tỉnh.
- Bước đầu xây dựng quy trình trồng rau thơm, rau cải ngọt, xà lách bằng
kỹ thuật trồng không dùng đất.
2
- Xây dựng mô hình tại Thành phố Việt Trì.
1.2.2. Yêu cầu
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của các giống rau thơm, rau cải
ngọt trồng bằng kỹ thuật trồng không dùng đất.
- Đánh giá tình hình sâu bệnh hại và khả năng cho năng suất của các giống
rau nghiên cứu.
- Đánh giá được năng suất, một số chỉ tiêu chất lượng và độ an toàn của
chúng trồng bằng công nghệ không dùng đất.
- Sơ bộ hoạch toán kinh tế của từng vụ.
- Nhân rộng mô hình ra sản xuất.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp các dẫn liệu khoa học làm cơ sở
bước đầu xây dựng quy trình trồng rau mầm
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp các dẫn liệu khoa học làm cơ sở
bước đầu xây dựng quy trình trồng rau xà lách, rau cải ngọt, rau thơm bằng công
nghệ trồng không dùng đất.
1.3.2 Ý nghĩa thực tiễn
- Đưa ra giá thể trồng hợp lý cho một số loại rau mầm
- Đưa ra được phương pháp trồng hợp lý cho năng suất, chất lượng cao

nhất, đảm bảo độ an toàn cho các giống rau xà lách, rau thơm và rau cải ngọt.
1.4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tiến hành trong 2 năm từ tháng 12/2009-12/2011
3
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Rau là nguồn thực phẩm không thể thiếu trong khẩu phần thức ăn của con
người. Rau không những cung cấp các chất dinh dưỡng, chất khoáng cần thiết
mà còn có tác dụng phòng bệnh. Tuy nhiên rau chỉ thực sự đảm nhận được vai
trò trên khi rau có đủ tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Rau có hàm lượng
caroten và vitamin A phong phú. Vitamin A có quan hệ mật thiết với thị lực, nếu
được cung cấp đủ vitamin A sẽ không bị bệnh quáng gà và xương cốt cũng phát
triển bình thường. Nó cũng là nhân tố cần thiết cho sự phát triên của da, nếu
không da sẽ khô và nhăn. Ngoài ra, còn giúp cho hệ thống hô hấp trên và tăng
cường sức đề kháng.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, do sự gia tăng nhanh chóng của khu
đô thị, khu công nghiệp đã thải ra môi trường một lượng lớn các chất độc hại và
chất bẩn gây ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp ở các
khu vực lân cận trong đó có vùng sản xuất rau. Ngoài ra việc sử dụng phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật không đúng cách và hợp lý cũng dẫn đến sự tích luỹ trong
rau xanh dư lượng lớn các chất độc hại như NO
-
3,
các kim loại nặng, vi sinh vật
gây hại làm ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ của cộng đồng. [7]
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của rau quả, từ năm 2006,
Nhà nước ta đã triển khai thực hiện sản xuất, kinh doanh rau sạch theo
hướng chuyên nghiệp hóa, mở rộng vùng canh tác. Quy hoạch, xây dựng

những vùng rau sạch; Có quy trình quản lý một cách hệ thống, chỉ đạo sản
xuất; Xây dựng hệ thống tiêu thụ-chế biến-phân phối; Thiết lập hệ thống
trung tâm phân tích kiểm định chất lượng rau. Việc sản xuất rau an toàn đã
được triển khai trên nhiều địa phương tuy nhiên diện tích quy hoạch sản
xuất rau an toàn mới chỉ thực hiện được ở 16 tỉnh, thành phố chỉ đạt 37.825
ha (chiếm 3,5%) so với tổng số diện tích trồng rau trên toàn quốc (ước có
khoảng 850.000 ha tính đến năm 2007). [6],[8]
Hiện nay tỉnh Phú Thọ đang có chủ trương phát triển rau an toàn theo phát
triển nông nghiệp bền vững. Hiện nay tỉnh đang triển khai dự án của Bỉ (Veco).
Veco đã tiến hành xây dựng dự án các mô hình rau an toàn nằm trong chuỗi phát
triển nông nghiệp bền vững tại huyện Yên lập – Phú Thọ, Sơn Dương – Tuyên
Quang và Lạng Sơn. Với mục đích giúp người dân Phú Phọ hiểu được về rau an
4
toàn qua đó ủng hộ sản xuất tiêu thụ rau an toàn. Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ
người tiêu dùng Phú Thọ đã đề xuất với Trung ương hội và tổ chức Veco Việt
Nam duyệt cho triển khai thực hiện các nội dung dự án về rau an toàn. Đến
tháng 7 năm 2008, Tổ chức VECO Việt Nam và Hội tiêu chuẩn và Bảo vệ người
tiêu dùng Việt Nam đã đồng ý với đề xuất và cùng với Hội Tiêu chuẩn và Bảo
vệ người tiêu dùng Phú Thọ triển khai thực hiện dự án: “ Nâng cao nhận thức
cho người tiêu dùng về lợi ích của rau an toàn” Dự án được thực hiện trong 3
năm từ 2008 – 2010. Thông qua dự án người tiêu dùng Phú Thọ đã được trang bị
các kiến thức thế nào là rau an toàn, lợi ích của rau an toàn, tác hại của rau
không an toàn.
Từ thực tế trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh
hưởng của một số kỹ thuật trồng rau an toàn bằng công nghệ không dùng đất,
và ứng dụng mô hình vào sản xuất”.
2.2. Tình hình chung về sản xuất rau trên thế giới và Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất rau trên thế giới
Nền kinh tế của thế giới hiện nay đang phát triển với tốc độ tăng trưởng
cao để đạt mục tiêu là tạo mức cân bằng mới, với sự ổn định thị trường trên toàn

cầu. Cùng với sự phát triển kinh tế đã kéo theo hàng loạt các vấn đề có liên quan
đến môi trường xung quanh. Do sự phát triển mạnh mẽ của đô thị và công
nghiệp cũng như sự gia tăng lượng phân hoá học, thuốc trừ sâu trong nông
nghiệp đã gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Trong
những năm gần đây, các tổ chức quốc tế như: FAO, WHO và các tổ chức về vấn
đề môi trường đã đưa ra các khuyến cáo, hạn chế việc sử dụng hoá chất nhân tạo
vào nông nghiệp, xây dựng các quy trình sản xuất theo công nghệ sạch, công
nghệ sinh học, công nghệ sử dụng nguồn năng lượng tái tạo … Ở thập kỷ 80,
lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng trên các nước như: Indonesia,
Srilanca, Philippin đã gia tăng hơn 10% hàng năm. Tổ chức y tế thế giới đã ước
tính rằng mỗi năm có 3% nhân lực lao động nông nghiệp ở các nước đang phát
triển bị nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật.
Trong thập kỷ 90 ở Châu Phi hàng năm có khoảng 11 triệu trường hợp bị
ngộ độc. Ở Malaixia 7% nông dân bị ngộ độc hàng năm, 15% người bị ngộ dộc
thuốc bảo vệ thực vật ít nhất một lần trong đời. Chính vì vậy, từ quy trình công
nghệ sản xuất rau truyền thống, các nước này đã cải tiến ứng dụng công nghệ
5
sản xuất rau an toàn và được phát triển mạnh, ngày càng được phổ biến rộng rãi
trên thế giới. [2]
Ở các nước phát triển công nghệ sản xuất rau được hoàn thiện ở trình độ
cao. Sản xuất rau an toàn trong nhà kính, nhà lưới, trong dung dịch đã trở nên
quen thuộc. Phần lớn các loại rau quả trên thị trường đều có thể sản xuất theo
quy trình rau an toàn. Vì vậy rau an toàn là nhu cầu không thể thiếu trong mỗi
bữa ăn hàng ngày của các nước này. Những năm gần đây một số nước như
Singapore, Thái Lan, Hồng Kông…cũng đã phát triển mạnh trong công nghệ sản
xuất rau an toàn để phục vụ cho nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Ở Đức có hàng
ngàn cửa hàng bán “rau xanh sinh thái” và “trái cây sinh thái” để phục vụ nhu
cầu rau quả cho người tiêu dùng.
2.2.2. Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam
Ở Việt Nam rau được sản xuất chủ yếu từ hai vùng:

- Đối với vùng rau đặc biệt thường được trồng dọc theo vành đai của các
thành phố với tổng diện tích ước tính 40% tương đương với 113.000 ha và 48%
sản lượng tương đương với 153 triệu tấn. Các loại rau này được sản xuất và tiêu
dùng tại thị trường nội địa. Hiện nay đã có sự thay đổi về cơ cấu loại rau để đáp
ứng cho thị trường về sản lượng và chất lượng.
- Đối với các loại rau quay vòng theo mùa vụ dùng làm thực phẩm chủ yếu
tập trung vào mùa Đông từ tháng 11 đến tháng 1 ở miền Bắc Việt Nam, đồng
bằng châu thổ sông MêKông và miền Đông Nam Bộ, với hơn 10 triệu hộ gia đình
trồng rau có diện tích đất bình quân 36m2/hộ. Tuy nhiên diện tích đất dành cho
sản xuất rau ở các vùng trong 13 năm qua chỉ tăng 4%. Hơn nữa, sản lượng rau ở
Việt Nam phụ thuộc nhiều vào thời tiết, dễ bị thay đổi. Ở Đà Lạt, Lâm Đồng là
vùng trồng rau đạt sản lượng cao nhất là 20.500 kg/ha vào năm 1993. Trong khi
đó, Quảng Trị lại có sản lượng thấp nhất là 4500 k /ha vào năm 1993. [2]
- Đối với sản xuất rau an toàn đã được triển khai nghiên cứu và phát triển:
vào năm 1995 chương trình rau quốc tế được sự tham gia của 80 nhà khoa học
nghiên cứu về rau sạch đã làm việc với 11 viện nghiên cứu, các Trường đại học
và các Trung tâm rau sạch trong cả nước. Chương trình này phối hợp với các
Viện nghiên cứu đã đưa ra 17 giống mới trong đó 12 loại giống rau đã được
dành riêng công nhận có hiệu quả về năng suất cũng như chất lượng sản phẩm.
Các mô hình sản xuất rau sạch được triển khai ở một số thành phố như Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt bước đầu đã thu được kết quả nhất định, cụ thể
như sau: ở Hà Nội có một số cơ quan nghiên cứu, thử nghiệm sản xuất rau an
6
toàn như Đại học Nông nghiệp I, Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện nghiên cứu rau
quả Trung ương, Trung tâm nghiên cứu rau quả Hà Nội, Sở khoa học công nghệ
môi trường Hà Nội. Nhờ vậy những năm vừa qua đã phát triển được 35 ha ở hợp
tác xã Văn Đức, 10 ha ở Đông Dư - Gia Lâm, 2 ha ở xã Tây Tựu - Từ Liêm, 5 ha
ở huyện Đông Anh và một số diện tích rau trong vùng với hiệu quả năng suất rau
an toàn còn thấp so với các loại rau cùng loại không được sản xuất rau an toàn
có thể nhân ra diện rộng ở các xã ngoại thành có điều kiện môi trường tự nhiên

cho phép . [9]
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, diện tích trồng rau cả nước đến năm
2005 là 644 nghìn ha, năng suất đạt 150 tạ/ha và sản lượng trên 9,5 triệu tấn. Đã
hình thành nên các vùng chuyên canh rau lớn ở Đồng bằng sông Hồng, Đồng
bằng Sông cửu Long và Đông Nam Bộ. Phát triển nghề trồng rau không những
giải quyết tốt việc làm cho lực lượng lao động nông thôn, chuyển dịch cơ cấu
cây trồng mà còn nâng cao thu nhập cho người sản xuất rau ở các vùng sản xuất
thâm canh.
So với tổng diện tích và sản lượng rau hàng năm nói chung, rau an toàn
hiện nay chiếm chưa tới 10%. Nhu cầu đối với rau an toàn và khả năng sản xuất
rau an toàn là rất lớn. Nói đúng hơn, về lâu dài, trên thị trường chỉ được phép
cung ứng và tiêu thụ rau an toàn, tất cả diện tích trồng rau cần phải chuyển sang
sản xuất rau an toàn.
Bên cạnh việc triển khai mô hình sản xuất rau an toàn ngoài đồng ruộng
các cơ sở nghiên cứu còn triển khai một số mô hình rau an toàn trong nhà lưới,
đặc biệt mô hình trồng rau an toàn bằng phương pháp thuỷ canh của trường đại
học Nông nghiệp I. Tuy nhiên, mô hình này chỉ thích hợp với việc sản xuất nhỏ
và tiêu thụ tại chỗ không phù hợp với mô hình sản xuất có tính hàng hoá lớn, đa
dạng và giá thành cao.
2.3. Tình hình nghiên cứu về kỹ thuật trồng cây không dùng đất trên thế
giới và ở Việt Nam
2.3.1. Tình hình nghiên cứu về kỹ thuật trồng cây không dùng đất trên
thế giới
Kỹ thuật thủy canh đã được thực hiện từ nhiều thế kỷ trước ở vùng
Amazon, Babylon, Ai Cập, Trung Quốc và Ấn Độ. Người xưa đã sử dụng phân
bón hòa tan để trồng dưa chuột, dưa hấu và nhiều loại rau củ khác trên cát ở các
lòng sông. Sau đó, các nhà sinh lý thực vật bắt đầu trồng các loại cây trên những
môi trường dinh dưỡng đặc biệt vì mục đích thí nghiệm, họ gọi đó là "nuôi cấy
7
dinh dưỡng" (nutriculture). Thuật ngữ "thủy canh" (hydroponics) lần đầu tiên

được Gericke (1937) giới thiệu để mô tả tất cả các phương pháp nuôi trồng thực
vật trong môi trường lỏng cho mục đích thương mại. Gericke cũng là người đầu
tiên khảo sát, phát triển một phương pháp nuôi trồng thực vật trong nước (dịch
dinh dưỡng) khả thi về mặt kinh tế cho mục đích thương mại. Ngoài Gericke,
nhiều nhà khoa học khác như Lauria (1931), Eaton (1936), Withorow (1936),
Mllard (1939) và Amon (1940) cũng đã đưa ra nhiều kỹ thuật và phương pháp
nuôi trồng thực vật không cần đất (soiless culture) ở quy mô thương mại từ thập
niên 1930. [10]
Trong và ngay sau thế chiến thứ II, kỹ thuật thủy canh được quân đội Hoa
Kỳ sử dụng khá rộng rãi để trồng rau quả ở một số nơi mà đất bị nhiễm chất độc
do chiến tranh. Trong suốt hai thập niên 50 và 60, diện tích canh tác thủy canh
trên toàn thế giới vẫn chưa có ý nghĩa quan trọng và những nghiên cứu về chúng
còn rất ít. Tuy nhiên, một số tài liệu có liên quan đến thành phần dịch dinh
dưỡng cho hệ thống thủy canh đã được xuất bản từ giai đoạn này. Đến cuối thập
niên 1960, sự ứng dụng thủy canh ở quy mô thương mại tăng lên với diện tích
trên toàn thế giới lúc bây giờ là khoảng 10 hécta.
Bảng 2.1: Tình hình sản xuất bằng công nghệ thủy canh
trên thế giới năm 2001
Nước Diện tích (ha) Loại cây trồng
Hà Lan 10.000 Cà chua, dưa leo, ớt xanh, rau diếp, dâu tây, cải củ….
Tây Ban Nha 4.000 Cà chua, dưa leo, ớt xanh và rau diếp
Canada 2.000 Cà chua, dưa leo và rau diếp
Tây Ban Nha 4.000 Cà chua, dưa leo, ớt xanh và rau diếp
Pháp 1.000 Cà chua, dưa leo, cà tím và hoa cắt cành
Nhật 1.000 Cà rốt, cà chua, hành, dưa leo, rau diếp, dâu tây…
Thụy Điển 550 Cà chua, ớt xanh, dưa leo, rau diếp và rau cải
Nam Phi 420 Cà chua, dưa leo, rau diếp và hoa các loại
Ý 400 Hoa hồng, hoa đồng tiền, cà chua và dâu tây.
Mỹ 400 Cà chua, dưa leo và rau diếp
Hàn Quốc 247 Cà chua, dưa leo và rau diếp

Mehicô 120 Cà chua và dưa leo
Trung Quốc 120
Cà rốt, cà chua, hành lá, hành tây, dưa leo, dưa hấu, bó
xôi, rau diếp, dâu tây, đậu và hoa các loại
Ai Cập 60 Cà chua, dưa leo, ớt xanh và rau diếp
Brazil 50 Rau diếp, xà lách xoong
Kỹ thuật trồng cây không dùng đất là phương pháp mới đưa vào nước ta
khoảng mười năm gần đây nhưng trên thế giới nó ra đời và được áp dụng ngay
những năm đầu thế kỷ 20. Sau khi hệ thống cây trồng không dùng đất của
8
Gerick ra đời năm 1930, nhiều nước trên thế giới đã đi sâu vào nghiên cứu và
triển khai kỹ thuật này trên quy mô thương mại đặc biệt là các nước phát triển.
Nhật Bản là một trong những nước tiên phong trong kỹ thuật trồng rau thuỷ
canh. Từ rất lâu họ đã đẩy mạnh kỹ thuật thủy canh để sản xuất rau sạch. An toàn
thực phẩm là một trong những vấn đề mà người Nhật rất quan tâm, lo ngại và thận
trọng đối với những phụ gia thực phẩm hay thuốc trừ sâu nông nghiệp. Hơn nữa
vì diện tích đất canh tác quá hạn hẹp nên chính phủ Nhật rất khuyến khích và trợ
giúp kiểu trồng này, rau sạch sản xuất bằng phương pháp này giá đắt hơn 30% so
với rau trồng ở môi trường bên ngoài nhưng tiêu dùng vẫn chấp nhận.
Singapore là nước đầu tiên ở châu Á áp dụng kỹ thuật thủy canh trồng rau
trong dung dịch dinh dưỡng, không cần đất và không phải dùng phân hóa học có
hại để sản xuất rau với quy mô lớn. Hàng năm Singapore tiêu thụ lượng rau trị
giá 260 triệu USD.
Ixraen cũng áp dụng tiến bộ này khá thành công, chủ yếu là sản xuất rau
vụ đông và thời điểm khan hiếm rau.
Tại Đài Loan kỹ thuật trồng cây trong dung dịch được áp dụng rộng rãi
với các loại rau, dưa cho năng suất cao.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu về kỹ thuật trồng cây không dùng đất ở Việt Nam
Nước ta công nghệ trồng cây không dùng đất còn khá mới mẻ, chủ yếu tập
trung ở các thành phố lớn hay các Viện nghiên cứu.

Sau nhiều năm nghiên cứu, thử nghiệm và xây dựng nhiều mô hình trên
diện rộng thành công, mới đây Trung tâm nghiên cứu phân bón và dinh dưỡng
cây trồng trực thuộc Viện Thổ nhưỡng Nông hóa đưa ra khuyến cáo bà con nông
dân và các hộ gia đình ở thành phố áp dụng kỹ thuật trồng rau an toàn trên nền
giá thể GT 05.
GT 05 là giá thể sinh học không đất, có hàm lượng chất hữu cơ (OM) và
dinh dưỡng cao: 44% chất hữu cơ (OM), 1,2% đạm (N), 0,8% lân (P
2
O
5
), 0,7%
kali (K
2
O) và các dinh dưỡng trung, vi lượng cần thiết khác cho cây trồng. Giá
thể GT 05 cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng, có độ tơi xốp,
thoáng khí, nhẹ, sạch nguồn bệnh, không có tuyến trùng, hút và giữ ẩm tốt.
Trong sản xuất rau an toàn, GT 05 được sử dụng làm bầu gieo ươm cây rau
giống, sản xuất rau mầm, rau thương phẩm như các loại rau ăn lá, rau ăn quả rất
hiệu quả và tiện lợi. [1]
9
Trồng rau trên giá thể và sử dụng Humic axit là một trong những biện
pháp canh tác hữu cơ đã được áp dụng với nhiều đối tượng cây trồng. Nhằm góp
phần xây dựng quy trình sản xuất rau an toàn theo hướng cánh tác hữu cơ, Viện
Nghiên cứu Rau quả đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của giá thể và axit
Humic đến năng suất, chất lượng rau cải ngọt và dưa chuột.
Kỹ thuật thuỷ canh Hydroponics là tiến bộ được Trung tâm Nghiên cứu
phát triển Rau châu Á nghiên cứu và chuyển giao. Từ đầu năm 1993, GS. Lê
Đình Lương (Trường Đại học Quốc gia Hà Nội) phối hợp với tổ chức R&D
Hồng Kông tiến hành nghiên cứu toàn diện về các yếu tố kinh tế, kỹ thuật để áp
dụng trong điều kiện Việt Nam.

Đến tháng 10 năm 1995 mạng lưới nghiên cứu và phát triển ờ Hà Nội,
TP.Hồ Chí Minh, Côn Đảo, Sở khoa học công nghệ và môi trường ở một số tỉnh
thành. Công ty Golden Garden & Gino, nhóm sinh viên Đại học KHTN Thành
Phố Hồ Chí Minh với phương pháp thủy canh vài loại rau thông dụng, cải xanh,
cải ngọt, xà lách… Phân viện công nghệ sau thu hoạch, Viện Sinh học nhiệt đới
cũng nghiên cứu và sản xuất. Nội dung chủ yếu là:
- Thiết kế và phối hợp sản xuất các nguyên liệu dùng cho thủy canh.
Nghiên cứu trồng các lọai cây khác nhau, cấy truyền từ nuôi cấy mô vào hệ thủy
canh trước khi đưa vào đất một số cây ăn quả khó trồng trực tiếp vào đất.
Triển khai thủy canh ở quy mô gia đình, thành thị và nông thôn. Kết hợp thủy
canh với dự án rau sạch của thành phố.
Năm 2002, đề tài “Sản xuất rau an toàn bằng công nghệ cao không cần
đất” được Bộ Khoa học và Công nghệ xét, đồng ý công nhận là đề tài cấp Nhà
nước. Đầu năm 2003, Phó Giáo sư Tiến sĩ Hồ Hữu An trúng thầu đề tài và tiến
hành nghiên cứu trên bốn loại rau quả: cà chua, dưa leo, xà lách và súp-lơ. Hơn
hai năm thử nghiệm, đề tài “Sản xuất rau an toàn bằng công nghệ cao không cần
đất” được nghiệm thu vào cuối năm 2005. Ưu điểm của công nghệ này là trồng
rau trên các giá thể có sẵn trong nước, không dùng đất nên không bị ô nhiễm các
kim loại nặng, hóa chất bảo vệ thực vật, vi sinh vật có hại Người trồng rau
cũng không phải thanh trùng nền đất như ở ngoài đồng, tiết kiệm tối đa chi phí
mua thuốc bảo vệ thực vật và công phun tưới, có khả năng tự điều chỉnh độ pH
và EC chính xác. Cây được cung cấp đầy đủ các nguyên tố đa, vi lượng trong
suốt quá trình sinh trưởng và phát triển nên các giống phát huy được tiềm năng
về năng suất và chất lượng. [1]
10
Từ tháng 9 năm 2006, phương pháp trồng rau thuỷ canh được thử nghiệm
tại Phân viện Sinh học Đà Lạt. Hệ thống thuỷ canh này không cần công chăm sóc
bởi hệ thống tự cung cấp nước tưới, chế độ dinh dưỡng cho cây rau hoàn toàn tự
động. Sau khi trồng thành công rau xà lách bằng phương pháp thuỷ canh, Phân
viện Sinh học Đà Lạt tiếp tục trồng khoai tây và cũng cho kết quả tốt.

Trung tâm khuyến nông tỉnh Phú Thọ cũng đã triển khai mô hinh trồng
rau an toàn truyền thống như mô hinh trồng cà chua, bí đỏ, mướp đắng, cải
ngọt và đã sản xuất theo tiêu chuân ViệtGAP.
Theo công nghệ - khoa học Tuyên Quang đã thử nghiệm công nghệ này
với giống cải ngọt và cho biết thời gian trồng chỉ từ 25 - 30 ngày, có thể trồng
được nhiều vụ trong năm và sản lượng thu hoạch trên đơn vị diện tích lớn.
2.3.3. Tình hình sử dụng và giá trị dinh dưỡng cây rau mầm
Rau mầm là loại rau sạch. Thường được canh tác bằng các loại hạt giống
thông thường như: củ cải, cải bẹ xanh, cải ngọt, cải tùa xại, cải tần ô, rau muống,
hành tây, đậu xanh,đậu đỏ…
Thời gian canh tác ngắn từ 4-15 ngày tuổi là thu hoạch.
Rau mầm sử dụng 4 không:
+ Không sử dụng đất thật.
+ Không sử dụng phân bón hóa học.
+ Không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
+ Không sử dụng thuốc tăng trưởng.
Người ta thường phân loại rau mầm thành 2 loại:
- Rau mầm trắng: được tạo thành khi hạt phát triển trong điều kiện không có
ánh sáng nên có thân trắng và lá mầm nhỏ màu hơi vàng, phổ biến nhất là: giá
đỗ xanh, giá đậu tương, mầm cỏ linh lăng…
- Rau mầm xanh: được tạo thành khi hạt phát triển trong điều kiện có ánh
sáng nên thân trắng hơi xanh và lá mầm xanh như rau mầm các loại cải, một số
loại đậu, đỗ…
* Giá trị dinh dưỡng của rau mầm:
Rau mầm có chứa nhiều loại vitamin (vitamin B, C, E,…), amino axit và
chất xơ cần thiết cho cơ thể với hàm lượng cao. Ví dụ: trong mầm cải củ, hàm
lượng vitamin C cao gấp 29 lần, trong sữa, vitamin A cao gấp 4 lần và hàm
lượng canxi cao gấp 10 lần trong khoai tây. Ngoài ra, loại mầm này còn là một
nguồn cung cấp dồi dào cartotene, chlorophyll, đạm dễ tiêu.
11

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ, rau mầm là một trong những
món ăn bổ dưỡng nhất và hoàn thiện nhất đối với sức khỏe con người. Sự nảy
mầm làm tăng hàm lượng enzyme trong rau cao hơn 43 lần so với thức ăn bình
thường. Quá trình nảy mầm dưới tác dụng của ánh sáng sẽ tạo chất diệp lục.
Chất này giúp cơ thể khắc phục hiện tượng thiếu protein trong bệnh thiếu máu.
Sử dụng rau mầm trong bữa ăn hằng ngày, cơ thể chúng ta sẽ được cung cấp
lượng vitamin C, caroten A, vitamin B rất dồi dào, có lợi cho sức khỏe. Chất
antioxidants bảo vệ khỏi những hóa chất phóng xạ và độc hại, chúng giúp cơ thể
tự tẩy rửa, trừ khử, tái tạo và chữa lành mà trong rau mầm lại giàu antioxidants.
Antioxidant enzim cũng rất là quan trọng vì chúng là tinh chất cho sự hoạt động
của hệ miễn nhiễm và rau mầm là một trong những nguồn gốc tốt nhất cho sự
dinh dưỡng quan trọng này.
2.4. Tác hại của một số độc tố trong rau đối với cơ thể con người
Rau là nguồn thức ăn bổ dưỡng cung cấp chủ yếu khoáng chất, vitamin cho
cơ thể con người. Rau không thể thiếu được trong mỗi bữa ăn hàng ngày.Tuy
nhiên, hiện nay ở Việt nam tình trạng ngộ độc do ăn rau ngày càng gia tăng.
Người bị ngộ độc sẽ bị các hậu quả ngộ độc cấp tính hoặc mãn tính tuỳ theo
nồng độ và loại độc tố tích luỹ trong cơ thể.
Theo thông kê của tổ chức lao động Quốc tế ILO, hàng năm trên thế giới
có khoảng 40.000 người chết trong tổng số 2 triệu người ngộ độc rau. Ở Việt
Nam con số này chiếm cũng không phải ít.
2.4.1. Tác hại của dư lượng NO
3
-
đối với sức khoẻ con người
Trong các loại lương thực, thực phẩm, nước uống được sử dụng hàng
ngày thì rau đưa vào cơ thể lượng nitrate lớn nhất.
Rau có dư lượng nitrat cao thì càng nhiều nguy cơ gây ngộ độc cho con
người. Khi xâm nhập vào cơ thể, nitrat chuyển hóa thành nitrit, một chất ngăn
cản việc hình thành và trao đổi oxy của hồng cầu trong máu, dẫn đến tình trạng

thiếu oxy làm giảm hô hấp của tế bào, ảnh hưởng đến hoạt động của tuyến giáp,
gây đột biến và kích thích các khối u phát triển gây bệnh ung thư ở người.
Đối với trẻ em có thể gây triệu trứng xanh (Methemoglobinaemia) – tắc
nghẽn tiêu hoá, kìm hãm oxy trong máu làm cho đứa trẻ xanh xao, gầy ốm và
chậm lớn. Đối với người lớn có thể gây ung thư dạ dày bằng việc tạo ra hợp
chất N-Nitrosomani. [6]
Mức giới hạn tối đa cho phép hàm lượng nitrat trong một số sản phẩm rau
tươi theo Quyết định số 867/1998/QĐ-BYT của Bộ Y tế : bắp cải, su hào, su
12
lơ, cải củ ≤ 500 mg/kg; đậu ăn quả ≤ 200 mg/kg; dưa chuột ≤ 150 mg/kg; dưa
hấu 60 mg/kg; dưa bở ≤ 90 mg/kg; ngô rau ≤ 300 mg/kg; măng tây, ớt ngọt 200
mg/kg; tỏi ≤ 500 mg/kg; bầu bí, cà tím, hành lá, ớt cay ≤ 400 mg/kg; hành tây ≤
80 mg/kg; cà chua 150 mg/kg; cà rốt, khoai tây 250 mg/kg; xà lách 1500
mg/kg; rau gia vị ≤ 600 mg/kg. [6]
2.4.2. Tác hại của dư lượng kim loại nặng đối với sức khoẻ con người
Các kim loại nặng như asen (As), chì (Pb), thủy nhân (Hg), đồng (Cu),
kẽm (Zn), thiếc (Sn),… nếu vượt quá cho phép cũng là những chất có hại cho
cơ thể, hạn chế sự phát triển của tế bào và hoạt động của máu, gây thiếu máu,
biến động thân nhiệt, rối loạn tiêu hóa…
- Kẽm thường tích tụ chủ yếu trong gan. Kẽm có khả năng gây ung thư đột
biến, gây ngộ độc hệ thần kinh, sự nhạy cảm, sụ sinh sản, gây độc hệ miễn
nhiễm. Mức giới hạn tối đa cho phép hàm lượng kẽm trong rau tươi là ≤ 10
mg/kg rau tươi (theo Quyết định số 867/1998/QĐ-BYT của Bộ Y tế).
- Đồng là một chất độc đối với người. Với hàm lượng 1g/1 kg thể trọng đã
gây tử vong. Mức giới hạn tối đa cho phép hàm lượng đồng trong rau tươi là ≤ 5
mg/kg rau tươi (theo Quyết định số 867/1998/QĐ-BYT của Bộ Y tế).
- Cadmium gây nguy hại sức khoẻ con người do gây độc cho thận, nó còn
tích luỹ trong gan, làm cho calcium (Ca) khó ổn định. Nhiều công trình khảo cứu
cho thấy Cd gây chứng bệnh loãng xương, nứt xương, những tổn thương về
xương làm cho người bị nhiễm độc đau đớn ở vùng xương chậu và hai chân.

Ngoài ra, những người thường xuyên tiếp xúc với Cd có tỷ lệ ung thư tuyến tiền
liệt và ung thư phổi khá cao. Mức giới hạn tối đa cho phép hàm lượng Cd trong
rau tươi là ≤ 0,02 mg/kg rau tươi (theo Quyết định số 867/1998/QĐ-BYT của Bộ
Y tế).
Theo Nguyễn Thị Thìn (2001) toàn thế giới hàng năm thải ra môi trường
5000 tấn Cadimi. Ở mọi dạng tồn tại Cd rất nguy hiểm, chỉ cần một lượng rất
nhỏ 30-40mg cũng đủ gây nguy hiểm chết người.
- Arsenic trong rau vượt quá ngưỡng sẽ ãnh hưỡng đến sức khoẻ con
người, nhiều hơn sẽ gây ngộ độc. Nhiễm độc As trong thời gian dài làm tăng
nguy cơ gây ung thư bàng quang, thận, gan, phổi. As còn gây bệnh cao huyết áp,
tăng nhịp tim và các vấn đề thần kinh. Mức giới hạn tối đa cho phép hàm lượng
As trong rau tươi là ≤ 0.2 mg/kg rau tươi (theo Quyết định số 867/1998/QĐ-
BYT của Bộ Y tế).
13
- Chì tích luỹ sẽ gây ảnh hưởng trầm trọng đến sức khoẻ, làm tổn thương
hệ tuần hoàn, hệ thần kinh, và hệ bài tiết (thận) dẫn đến các triệu chứng đau
bụng, thiếu máu, đi đứng khó khăn, giảm khả năng miễn dịch của cơ thể, đặc
biệt có thể gây ung thư gan, thận, trẻ em chậm lớn và kém thông minh. Mức giới
hạn tối đa cho phép hàm lượng Pb trong rau tươi là ≤ 0,5-1,0 mg/kg rau tươi
(theo Quyết định số 867/1998/QĐ-BYT của Bộ Y tế).
- Thuỷ ngân tích luỹ sẽ gây độc cho bào thai, trẻ em và người lớn. Triệu
chứng chính là cảm giác tê quanh môi, ở các ngón tay, ngón chân, dần dần ăn
nói khó khăn, mắt và tai kém, mỏi mệt, nhức đầu, bồn chồn, không tập trung tư
tưởng được, cơ thể ngày càng yếu đi, đi đứng khó khăn, cuối cùng có thể hôn mê
và chết. Mức giới hạn tối đa cho phép hàm lượng Hg trong rau tươi là ≤ 0,005
mg/kg rau tươi (theo Quyết định số 867/1998/QĐ-BYT của Bộ Y tế).
2.4.3. Tác hại của dư lượng thuốc bảo vệ thực vật
Theo thống kê của WHO, hàng năm trên thế giới có khoảng 500 ngàn
người bị nhiễm độc cấp tính do thuốc bảo vệ thực vật, trong đó có khoảng 14
ngàn người chết. Ở Việt Nam con số thống kê cho thấy những người thường suy

nhược cơ thể, có ảo giác, trí nhớ kém, mất ngủ, khó nói
Thuốc bảo vệ thực vật hay nông dược là những chất độc có nguồn gốc từ tự
nhiên hay hóa chất tổng hợp được dùng để bảo vệ cây trồng và nông sản, chống
lại sự phá hoại của những sinh vật gây hại đến tài nguyên thực vật.
Khi phun thuốc bảo vệ thực vật, có một một lượng thuốc bám lại trên bề
mặt cây rau, gọi là dư lượng thuốc. Lượng thuốc tồn dư này ở một mức độ nhất
định sẽ gây ngộ độ cho người ăn. Người bị ngộ độc có thể sẽ gánh chịu những
hậu quả nặng nề trước mắt hoặc lâu dài tuỳ thuộc vào nồng độ và loại độc tố tích
luỹ trong cơ thể. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây nên một số
bệnh nan y như ung thư, thai dị dạng,
Có thể nói dư lượng thuốc bảo vệ thực vật ít hay nhiều đều gây độc hại cho
sức khoẻ con người, đặc biệt là dư lượng thuốc trừ sâu còn tồn dư trong rau có
thể làm người tiêu dùng bị ngộ độc hàng loạt.
- Biểu hiện của ngộ độc cấp tính là làm chóng mặt, nhức đầu, đau bụng,
nôn mửa, tiêu chảy, nếu nặng làm tăng đổ mồ hôi, giảm thị lực, trụy mạch, co
giật, hôn mê và có thể dẫn đến tử vong.
- Biểu hiện ngộ độc mãn tính do thuốc tích luỹ lâu ngày trong cơ thể
thường gây ra các triệu chứng mệt mỏi, choáng váng, nhức đầu, giảm trí nhớ, hạ
huyết áp, nặng hơn làm rối loạn tinh thần và trí tuệ, giật nhãn cầu, run tay dẫn
14
đến liệt nhẹ, tiếp theo là những chứng bệnh ung thư, trong đó ung thư gan, thận
chiếm đa số.
2.4.4. Tác hại của các vi sinh vật gây hại
Kết quả phân tích các mẫu rau ở nhiều địa phương trong nước cho thấy rau
bị nhiễm amip (bào nang E.histolytica và E.coli), trứng giun móc, giun đũa chó
mèo, trùng lông, trùng roi… là rất cao.
Khi nhiễm bào nang nhóm amip, con người có thể mắc bệnh lỵ amip với
các triệu chứng đau bụng, buốt hậu môn, phân nhầy và có máu. Sau giai đoạn
cấp tính, bệnh trở thành mãn tính với những cơn đau cách quãng. Khi
E.histolytica xâm nhập gan, phổi, có thể dẫn đến ápxe.

Trẻ em nhiễm giun kéo dài sẽ bị suy dinh dưỡng, chậm phát triển thể chất
và tinh thần. Giun móc sống ký sinh tại tá tràng và bám vào niêm mạc ruột để
hút máu, gây nên tình trạng thiếu máu. Những người bị nhiễm giun đũa chó
thường có biểu hiện động kinh, liệt nửa người, viêm cơ tim, viêm màng não, rối
loạn nhãn quan, gan to…
2.5. Rau an toàn và tiêu chuẩn đánh giá
Ngày 28 tháng 7 năm 2008, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ra
quyết định số 84/2008 QĐ – BNN ban hành “Qui chế chứng nhận Quy trình
thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) cho rau, quả và chè an toàn" để
áp dụng cho cả nước. Trong quyết định này qui định mức dư lượng cho phép
trên sản phẩm rau đối với hàm lượng nitrate, kim loại nặng, vi sinh vật gây
bệnh và thuốc bảo vệ thực vật. Các mức dư lượng cho phép này chủ yếu dựa
vào qui định của Tổ chức lương nông tế giới (FAO) và Tổ chức y tế thế giới
(WHO). Các cá nhân, tổ chức sản xuất và sử dụng rau dựa vào các mức dư
lượng này để kiểm tra xác định sản phẩm có đạt tiêu chuẩn an toàn hay không.
Rau an toàn phải đảm bảo các yêu cầu về chất lượng như sau:
- Chỉ tiêu về hình thái: sản phẩm được thu hoạch đúng lúc, đúng với yêu
cầu của từng loại rau, không dập nát, héo úa, hư thối, không lẫn tạp chất, sâu
bệnh và có bao gói thích hợp.
- Chỉ tiêu về độ an toàn: Hàm lượng NO3-, dư lượng thuốc bảo vệ thực
vật, kim loại nặng dưới ngưỡng cho phép theo tiêu chuẩn của FAO, WHO và
của Việt Nam và không có vi sinh vật gây hại.
PHẦN III
15
NỘI DUNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Nội dung nghiên cứu
3.1.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của một số kỹ thuật trồng trong sản xuất rau
an toàn
- Thí nghiệm 1: Nghiên cứu ảnh hưởng của các giá thể đến sinh trưởng

và năng suất của rau mầm.
- Thí nghiệm 2: Khảo sát khả năng thích ứng của một số giống rau thơm
trong kỹ thuật trồng thủy canh.
- Thí nghiệm 3: Ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng, phát triển, năng
suất và chất lượng của một số giống rau cải ngọt trồng bằng kỹ thuật thủy canh.
- Thí nghiệm 4: So sánh khả năng sinh trưởng và năng suất của một số
giống xà lách trồng bằng kỹ trồng thủy canh.
3.1.2. Xây dựng mô hình thực nghiệm trồng rau an toàn
- Xây dựng quy trình trồng rau an toàn bằng công nghệ không dùng đất.
- Chọn nông dân tham gia thực hiện đề tài.
3.2. Địa điểm, đối tượng và vật liệu nghiên cứu
3.2.1. Địa điểm
Thí nghiệm được tiến hành tại cơ sở 1 trường Đại học Hùng Vương, trên
diện tích 100m
2
. Các giống tham gia thí nghiệm được gieo và trồng hoàn toàn
không dùng đất. Phân bón được sử dụng trên 10 nguyên tố đa lượng, vi lượng
dưới dạng dung dịch (đối với trồng rau thuỷ canh)
3.2.2. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
3.2.2.1. Thí nghiệm 1
* Đối tượng nghiên cứu gồm các giống :
- Cải xanh
- Đậu xanh
- Đậu tương
* Vật liệu nghiên cứu gồm 4 loại vật liệu:
- Sơ dừa
- Trấu hun
- Cát thô
- Vỏ lạc
3.2.2.2. Thí nghiệm 2

16
Ở nước ta, rau thơm phong phú về chủng loại và cách sử dụng trong đó sử
dụng chủ yếu là ăn sống. Hiện này rau thơm chủ yếu trồng trên đất và được
trồng xen với các cây trồng khác nên nguy cơ bị nhiễm bẩn càng lớn đặc biệt khi
sử dụng để ăn sống. Vì vậy chúng tôi tiến hành khảo nghiệm khả năng thích ứng
cuả một số giống rau thơm trong môi trường thủy canh để nâng cao hiệu quả sản
xuất của các giống rau này.
* Rau húng chó
- Là một loài rau thơm đa niên thuộc họ Hoa môi.
- Cây cao chừng 0,3m, lá rậm, xanh thẫm, mùi vị nồng tương tự hương vị quế.
* Rau mùi tàu
- Cây thảo mọc hằng năm, nhẵn, có thân đơn độc, phân nhánh ở ngọn,
cao 15-50cm. Lá ở gốc hình hoa thị, mỏng, thuôn mũi mác, thon hẹp lại ở gốc,
mép có răng cưa, với răng hơi có gai. Lá ở thân có răng nhiều hơn, các lá ở trên
xẻ 3-7 thùy ở chóp và có nhiều gai.
`- Hoa thành đầu hình trứng hay hình trụ, có bao chung gồm 5-7 lá bắc
hình mũi mác dẹp, mỗi bên có 1-2 răng và một gai ở chóp. Quả gần hình cầu,
hơi dẹt, đường kính 2mm.
* Rau dấp cá
Là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt, có thân rễ mọc ngầm
dưới đất. Toàn cây vò có mùi tanh như mùi cá. Theo đông y, giấp cá vị cay, hơi
lạnh, hơi độc, vào phế kinh. Có tác dụng tán nhiệt, tiêu ung thũng, dùng chữa phế
ung, ngoài dùng chữa ung thũng, trĩ, vết lở loét. Các hoạt chất trong dấp cá là
quercetin, isoquercetin có tác dụng lợi tiểu mạnh, đồng thời có tác dụng làm vững
bền mao mạch. Tinh dầu dấp cá có tác dụng kháng viêm, khánh khuẩn mạnh.
* Rau răm
Rau răm là một loại cây lưu niên sinh trưởng tốt nhiệt đới và cận nhiệt đới
trong điều kiện nóng ẩm nhưng không sống được nếu quá nhiều nước. Trong
điều kiện thuận lợi, thân cây có thể dài từ 15cm đến 30 cm. Khi nhiệt độ lên quá
cao, rau răm sẽ bị tàn lụi.

3.2.2.3. Thí nghiệm 3
17
Rau cải là một trong những đối tượng có thời gian sinh trưởng tương đối
ngắn chỉ từ 30-40 ngày nhưng lại gặp nhiều sâu bệnh hại như: sâu xanh, bọ
nhẩy, rệp Ngoài thực tế người trồng trọt đã sử dụng rất nhiều hóa chất bảo
vệ thực vật đặt biệt khi trồng rau cải trái vụ, vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến
sức khỏe của người sử dụng.
* Rau cải ngọt Trang nông
- Cải ngọt trang nông là một trong những cây rau dễ trồng, nhanh chóng
cho thu hoạch, chỉ từ 25 đến 30 ngày, có thể trồng được nhiều vụ trong năm đặc
biệt là trong vụ Đông-Xuân.
- Các cây phát triển căng, mọng, cây đạt từ 35-40cm, thì cũng là lúc có thể
thu hoạch. Với cây cải ngọt từ khi gieo đến lúc thu hoạch trong khoảng 30 ngày,
nếu chăm sóc tốt, có thể thu hoạch được từ 600 đến 800kg, thậm chí tới 1
tấn/sào Bắc Bộ.
* Cải xanh lá vàng
- Là một loại rau dễ trồng, nhanh cho thu hoạch, cây phát triển tốt, lá màu
xanh nhạt, có khả năng cho năng suất cao.
3.2.2.4. Thí nghiệm 4
Gồm các giống rau xà lách:
- Dún cao sản HN313
- Red sun
- Fast fall
- GS H107
- Green leetuce
- Đăm Hải Phòng
3. 3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp điều tra thu thấp số liệu
Điều tra các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội theo phương pháp điều tra
thu thập số liệu từ các nguồn: Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Trạm

khí tượng thuỷ văn, các tạp chí chuyên ngành
3.3.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
- Thí nghiệm 1: gồm 4 công thức với 3 lần nhắc lại:
+ Công thức 1 : giá thể cát thô (Đ/c)
+ Công thức 2: giá thể xơ dừa
+ Công thức 3: giá thể trấu hun
18
+ Công thức 4: giá thể vỏ lạc
- Thí nghiệm 2: Khảo sát khả năng thích ứng của một số giống rau thơm
trong kỹ thuật trồng thủy canh. Mỗi giống là một công thức, gồm 3 lần nhắc lại.
+ Công thức 1 : Rau mùi tàu
+ Công thức 2: Rau răm
+ Công thức 3: Rau húng chó
+ Công thức 4: Rau dấp cá
- Thí nghiệm 3: Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ trồng đến sinh trưởng
phát triển, năng suất, chất lượng hai giống cải: Trang Nông và Xanh lá vàng.
+ Công thức 1 : 1cây/hốc (Đ/c)
+ Công thức 2: 2 cây/hốc
+ Công thức 3: 3 cây/hốc
+ Công thức 4: 4cây/hốc
- Thí nghiệm 4: Nghiên cứu 6 giống xà lách cao cấp. Mỗi giống là một
công thức, gồm 3 lần nhắc lại.
+ Công thức 1 : Dún cao sản HN313
+ Công thức 2: Red sun
+ Công thức 3: Fast fall
+ Công thức 4: GS H107
+ Công thức 5: Green leetuce
+ Công thức 6: Đăm Hải Phòng (ĐC)
3.3.3. Đo đếm thí nghiệm
Cố định các cây theo dõi, 5 ngày theo dõi một lần (riêng đối với thí

nghiệm 1, mỗi ngày theo dõi một lần)
3.3.4. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Các số liệu thí nghiệm được xử lý thống kê theo chương trình xử lý
IRRISTART
3.3.5. Các chỉ tiêu theo dõi
* Thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng
- Ngày gieo
- Ngày mọc (khi có 75% số cây đem gieo mọc)
- Ngày thu hoạch
* Động thái tăng trưởng chiều cao cây và ra lá 5 ngày/lần (riêng thí nghiệm 1:
1 ngày/lần), mỗi công thức theo dõi 15 cây/3 lần nhắc lại.
19
- Động thái tăng trưởng chiều cao cây (cm): đo từ gốc đến đỉnh sinh
trưởng của thân chính.
- Động thái ra lá (số lá): đếm số lá trên cây đến khi xuất hiện lá thật.
* Đặc điểm hình thái cây: màu sắc thân lá, chiều cao cây, số lá….
* Tỷ lệ sâu bệnh hại:
Tính tỷ lệ sâu, bệnh hại theo phương pháp của Vũ Triệu Mân, Lê Lương
Tề năm 2003:
Tỷ lệ sâu hại (%) =
Tổng số cây bị sâu hại
x 100
Tổng số cây thí nghiệm
Tỷ lệ bệnh hại (%) =
Tổng số cây bị bệnh hại
x 100
Tổng số cây thí nghiệm
* Năng suất và các yếu tố tạo thành năng suất
- Số cây/m
2

- Năng suất cá thể (g/cây)
- Năng suất lý thuyết, thực thu (kg/100m
2
)
* Chất lượng và phẩm vị ăn tươi (trộn đều sản phẩm của 3 lần nhắc lại, lấy mẫu
ngẫu nhiên):
- Hàm lượng vitamin A, C: Theo TCVN 4246 -90, mg/100g.
- Hàm lượng chất khô (%): theo phương pháp sấy khô ở nhiệt độ ban đầu
75
0
C, sau nâng lên 105
0
C và cân 3 lần khối lượng không đổi.
- Khẩu vị nếm.
* Một số chỉ tiêu an toàn (trộn đều sản phẩm của 3 lần nhắc lại, lấy mẫu ngẫu nhiên.
- Dư lượng NO
-
3
(mg/kg): theo phương pháp Cataldo.
- Vi sinh vật gây hại (E.Coli) (tế bào/gam): Theo phương pháp Bulir (lên
men đa giá trong ống nghiệm).
* Sơ bộ tính hiệu quả kinh tế:
Tổng chi (nghìn đồng/10m
2
) = chi phí vật tư + tiền công lao động + các
chi phí khác.
- Tổng thu (nghìn đồng/10m
2
) = Năng suất x giá thành
- Lãi thuần (nghìn đồng/10m

2
) = Tổng thu - tổng chi
PHẦN IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
20

4.1. ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ KỸ THUẬT TRỒNG TRONG SẢN
XUẤT RAU AN TOÀN BẰNG CÔNG NGHỆ KHÔNG DÙNG ĐẤT
4.1.1. Thí nghiệm 1: Nghiên cứu ảnh hưởng của các giá thể đến sinh trưởng
và năng suất của rau mầm
Rau mầm là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao gấp 5 lần so với các loại
rau thường, hơn nữa rau mầm không chứa mầm bệnh và vi sinh vật gây hại cho
sức khỏe của con người. Rau mầm được sử dụng trong việc chế biến thành các
món ăn đa dạng như xào, lẩu, súp, các món cuộn, trộn salad hay ăn kèm cùng
các loại bánh, thịt, hải sản,… Các loại rau mầm cung cấp nhiều chất dinh dưỡng
nhất như: súp lơ xanh, đậu tương, rau cải, …
Trong rau mầm có nhiều men kích thích tăng trưởng, giúp cơ thể tăng
cường sức đề kháng, ngừa cảm cúm, giảm cholesterol. Do có nhiều vitamil E,
nên rau mầm có tác dụng chống lão hoá, làm đẹp da, phòng ngừa ung thư và
ngăn cản sự xơ cứng tế bào.
4.1.1.1. Thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng của rau mầm
Qua theo dõi thời gian sinh trưởng của các loại rau mầm ở các giá thể
khác nhau chúng tôi thu được kết quả thể hiện ở bảng 4.1:
Bảng 4.1: Thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng của rau mầm
ở các giá thể tham gia thí nghiệm
(Đơn vị: ngày)
Đối tượng Công thức
Từ gieo đến
nảy mầm
Từ nảy mầm -

thu
Tổng TGST
So với Đ/C
Cải xanh
1(đ/c)
3
4 7
-
2 3 4 8 1
3
4
5
9 2
4
4
4,5
8,5 1,5
Đậu xanh
1(đ/c)
1,5
3
4,5 -
2
1
3
4 -0,5
3
2
5
7 2,5

4
2
4
6 1,5
Đậu tương
1(đ/c)
2
4
6 -
2
2
3
5 -1
3
2,5
4
6,5 0,5
4
3
5
8 2
Qua bảng 4.1 ta thấy:
- Đối với giống cải xanh: Thời gian từ gieo đến khi thu hoạch ở các công
thức biến động từ 7 đến 9 ngày. Trong đó thu hoạch chậm nhất là công thức 3,
thấp hơn đối chứng 2 ngày.
21
- Đối với giống đậu xanh: Thời gian từ gieo đến khi thu hoạch ở các công
thức biến động từ 4 đến 7 ngày. Trong đó thu hoạch sớm nhất là công thức 2,
sớm hơn đối chứng 0,5 ngày. Chậm nhất là công thức 3, chậm hơn đối chứng
2,5 ngày.

- Đối với giống đậu tương: Thời gian từ gieo đến khi thu hoạch ở các công
thức biến động từ 5 đến 8 ngày. Trong đó thu hoạch sớm nhất là công thức 2, sớm
hơn đối chứng 1 ngày. Chậm nhất là công thức 4, chậm hơn đối chứng 2 ngày.
4.1.1.2. Năng suất các giống rau tham gia thí nghiệm ở các giá thể khác nhau
Rau mầm là rau được canh tác bằng các loại hạt giống thông thường,
nhưng thời gian canh tác ngắn hơn, chỉ 5 - 7 ngày sau khi gieo là có thể thu
hoạch. Qua theo dõi năng suất của các giống rau tham gia thí nghiệm ở các loại
giá thể khác nhau chúng tôi thu được kết quả thể hiện ở bảng 4.2:
Bảng 4.2: Năng suất các giống rau mầm với các loại giá thể khác nhau
Đối tượng Công thức
Năng suất ô thí
nghiệm (g/ô)
Năng suất thực
thu/10m
2
(kg)
So với Đ/C
Cải xanh
1(đ/c)
270 10,8
-
2 271,7 10,9 0,1
3
219,3 8,8
-2
4
181 7,2
-3,6
CV%
4,2

LSD
05
0,78
Đậu xanh
1(đ/c)
456,7 18,3
-
2
450 18
-0,3
3
344,7 13,8
-4,5
4
370,7 14,8
-3,5
CV%
3,5
LSD
05
1,12
Đậu tương
1(đ/c)
530 21,2
-
2
559 22,4
1,2
3
447,3 17,9

-3,3
4
474 19
-2,2
CV%
3,8
LSD
05
1,53
Qua bảng 4.2 ta thấy:
* Đối với giống cải xanh:
- Năng suất ô thí nghiệm ở các công thức có sự thay đổi biến động từ
181- 271,7 gam/ô. Trong đó chỉ có công thức 2 có năng suất gam/ô cao hơn đối
chứng.
22
- Năng suất thực thu trên 10m
2
ở các công thức có sự biến động từ 7,2
đến 10,9 kg. Trong đó chỉ có công thức 2 có năng suất thực thu cao hơn đối
chứng, 2 công thức thấp hơn đối chứng, thấp nhất là công thức 4, thấp hơn đối
chứng 3,6kg ở mức tin cậy 95%.
* Đối với giống đậu xanh:
- Năng suất ô thí nghiệm ở các công thức thí nghiệm biên động từ 344,7 -
456,7 7 gam/ô. Trong đó tất cả các công thức thí nghiệm đều có năng suất
gam/ô thấp hơn đối chứng.
- Năng suất thực thu trên 10m
2
ở các công thức có sự biến động từ 13,8
đến 18,3kg. Các công thức đều có năng suất thực thu thấp hơn đối chứng, trong
đó thấp nhất là công thức 3, thấp hơn đối chứng 4,5kg ở mức tin cậy 95%.

* Đối với giống đậu tương:
Năng suất thực thu trên 10m
2
ở các công thức có sự biến động từ 17,9 đến
22,4 kg. Trong đó chỉ có công thức 2 có năng suất thực thu cao hơn đối chứng
(1,2kg) ở mức tin cậy 95%.
4.1.1.3. Đánh giá độ an toàn các giống rau tham gia thí nghiệm ở các giá thể
khác nhau
Trong quá trình nảy mầm, các chất dự trữ trong hạt tự biến đổi cơ cấu và
phát sinh các enzyme, tạo ra các vitamin. Đặc biệt là các loại vitamin E, C và B
ở mức độ cao nhất. Sau đó, vitamin này mất dần theo độ lớn của rau. Các trạng
thái của rau thì trạng thái mầm chứa nhiều vitamin nhất, cũng có nghĩa là bổ
dưỡng nhất. Qua phân tích độ an toàn của các giống rau mầm tham gia thí
nghiệm chúng tôi thu được kết quả thể hiện ở bảng 4.3:
Bảng 4.3: Đánh giá độ an toàn của các giống rau tham gia thí nghiệm
Giống Giá thể Vi sinh vật gây hại (E.Coli) (tế bào/gam)
Cải xanh
Cát khô (đ/c) Không phát hiện
Xơ dừa Không phát hiện
Trấu hun Không phát hiện
Vỏ lạc Không phát hiện
23
Đậu
xanh
Cát khô (đ/c) Không phát hiện
Xơ dừa Không phát hiện
Trấu hun Không phát hiện
Vỏ lạc Không phát hiện
Đậu
tương

Cát khô (đ/c) Không phát hiện
Xơ dừa Không phát hiện
Trấu hun Không phát hiện
Vỏ lạc Không phát hiện
Qua bảng 4.3 ta thấy: ở ba giống rau tham gia thí nghiệm ở các loại giá
thể trồng khác nhau khi phân tích đều không thấy xuất hiện vi sinh vật gây hại E.
Coli, đạt độ an toàn cho phép.
4.1.1.4. Sơ bộ hoạch toán kinh tế
Bảng 4.4: Sơ bộ hoạch toán kính tế các giống rau mầm
tham gia thí nghiệm ở các giá thể khác nhau
(Đơn vị: đồng/10m
2
)
Giống Công thức Tổng thu Tông chi
Lãi thuần So với Đ/C
Cải xanh
1(đ/c)
702.000
250.000 452.000
-
2 708.500 300.000 408.500 -43.500
3
572.000
270.000 302.000
-150.000
4
468.000
260.000 208.000
-244.000
Đậu xanh

1(đ/c)
915.000
282.000 633.000
-
2
900.000
332.000 568.000
-65.000
3
690.000
302.000 388.000
-245.000
4
740.000
292.000 448.000
185.000
Đậu tương
1(đ/c)
1060.000
270.000 790.000
-
2
1120.000
320.000 800.000
10.000
3
895.000
290.000 605.000
-185.000
4

950.000
280.000 670.000
-120.000
Qua bảng 4.4 cho thấy:
- Đối với giống cải xanh: Các công thức đều có lãi thần thấp hơn đối
chứng, trong đó thấp nhất là công thức 4 thấp hơn đối chứng 244.000
đồng/10m
2
.
- Đối với giống đậu xanh: Các công thức tham gia thí nghiệm đều có lãi
thuần chênh lệch với đối chứng, trong đó chỉ có công thức 4 cao hơn đối chứng
( 185.000 đồng/10m
2
).
24
- Đối với giống đậu tương: Các công thức có sự chênh lệch so với đối
chứng, trong đó chỉ có công thức 2 cao hơn đối chứng (10.000 đồng/10m
2
).
Thấp nhất là công thức 3, thấp hơn đối chứng 185.000 đồng/10m
2
Ghi chú:
- Giá rau mầm cải xanh : 65.000đ/1kg
- Giá rau mầm đậu xanh : 50.000đ/1kg
- Giá rau mầm đậu tương : 50.000đ/1kg
- Các chi phí khác là như nhau
Qua kết quả đánh giá phân tích cho thấy:
- Đối với các giống rau mầm tham gia thí nghiệm, mặc dù năng suất
gam/ô và năng suất thực thu có sự chênh lệch so với đối chứng. Tuy nhiên khi
tính hiệu quả kinh tế chúng tôi thấy rằng sử dụng cát thô có ý nghĩa kinh tế nhất.

4.1.2. Thí nghiệm 2: Khảo sát khả năng thích ứng của một số giống rau thơm
trong kỹ thuật trồng thủy canh
Rau gia vị cũng như nhiều loại cây trồng khác, để hoàn thành một chu kỳ
sống chúng phải trải qua các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của mình. Tuy
nhiên phản ứng của mỗi giống với các điều kiện sinh thái là khác nhau. Vì vậy,
cần có những biện pháp kỹ thuật phù hợp tác động điều khiển các quá trình sinh
trưởng, phát triển theo hướng có lợi cho con người.
4.1.2.1. Tỷ lệ sống của các giống rau thơm tham gia thí nghiệm
Tỷ lệ sống là chỉ tiêu phản ánh khả năng thích ứng của giống với điều kiện
trồng và thời tiết. Tỷ lệ sống cao chứng tỏ khả năng thích ứng của giống với điều
kiện trồng tốt và khả năng thích ứng với môi trường.
Qua theo dõi tỷ lệ sống của các giống rau thơm tham gia thí nghiệm, kết
quả thu được thể hiện ở bảng 4.5:
Bảng 4.5: Tỷ lệ sống của các giống rau thơm tham gia thí nghiệm
Đơn vị: %
Giống
Ngày trồng
(26/5/2010)
5 ngày
sau
trồng
10 ngày
sau
trồng
15 ngày
sau
trồng
20 ngày
sau
trồng

25 ngày
sau trồng
Rau mùi tàu
100% 99,33 99 98,33 96,7 96,7
Rau răm 100% 100% 98,4 98,4 98,4 97,3
Rau húng chó 100% 97,2 95,4 95,1 93,4 92
Rau dấp cá 100%
97,2 95 92,3 90,1 83,5
25

×