Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận triết học: Nợ xấu dưới góc nhìn của cặp phạm trù nhân quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.83 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Từ năm 2011, Việt Nam thực hiện tái cấu trúc kinh tế, trong đó tái cơ cấu hệ thống tài chính,
ngân hàng là một trong những vấn đề trọng tâm. Chính phủ đã phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ
thống các tổ chức tín dụng 2011-2015” nhằm cơ cấu tài chính của tổ chức tín dụng, trong đó có
đề cập đến các biện pháp xử lý nợ xấu.
Nợ xấu là yếu tố tất yếu trong hoạt động ngân hàng. Những hệ lụy của nợ xấu đối với hệ thống
ngân hàng và nền kinh tế là điều không phải bàn cãi, nhất là khi tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng và
nền kinh tế còn nhiều khó khăn.
Xử lý nợ xấu luôn là bài toán khiến cho nhà quản lý cũng như ngân hàng đau đầu và mất nhiều
thời gian, công sức. Để giải bài toán này cần sự góp sức của nhiều phía, từ phía nhà quản lý,
ngân hàng cũng như doanh nghiệp. nhằm kiểm soát hiệu quả đà tăng của nợ xấu cũng như những
tác động khó lường của nó đối với hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Vậy, đâu là nguyên nhân gây ra nợ xấu và ảnh hưởng của nợ xấu tới hoạt động ngân hàng hiện


nay như thế nào? Để có thể hiểu rõ hơn về vấn đề này, tôi xin được nhìn nhận vấn đề nợ xấu
trong hệ thống ngân hàng hiện nay dưới cặp phạm trù “nguyên nhân – kết quả” thông qua tiểu
luận : “ Nợ xấu ngân hàng dưới góc nhìn của cặp phạm trù nhân quả”.
CHƯƠNG 1
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA NGUYÊN NHÂN - KẾT QUẢ
1.1. Khái niệm cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
Nhận thức về sự tác động qua lại, tương tác giữa các mặt, các yếu tố, hoặc giữa các sự
vật, hiện tượng với nhau dẫn đến sự xuất hiện các sự vật, hiện tượng mới và do vậy phát hiện ra
mối quan hệ nhân quả.
1.1.1. Khái niệm nguyên nhân
Nguyên nhân là sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định.

1.1.2. Khái niệm kết quả
Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Nguyên nhân khác với nguyên cớ, điều kiện. Nguyên cớ và điều kiện không sinh ra kết
quả, mặc dù xuất hiện cùng với nguyên nhân.
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, tính phổ biến, tính tất yếu. Tính khách quan
của mối quan hệ nhân quả nghĩa là mối quan hệ nhân quả là cái vốn có của sự vật, không phụ
thuộc vào ý thức con người. Tính phổ biến thể hiện ở chỗ, mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên
và trong xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Không có hiện tượng nào không có nguyên
nhân. Tính tất yếu thể hiện ở chỗ, cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống
nhau sẽ sinh ra kết quả như nhau.
1.2. Mối quan hệ biện chứng nguyên nhân và kết quả

Trong mối quan hệ nhân - quả ấy, nguyên nhân là cái có trước và sinh ra kết quả, kết
quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện và có sự tác động. Do đó, nguyên nhân là cái
quyết định các tính chất đặc điểm, nội dung của kết quả. Tuy nhiên, không phải mọi quan hệ nối
tiếp nào về thời gian và không gian cũng là mối liên hệ nhân quả. Vì vậy, nếu có một sự kiện nào
đó trực tiếp xảy ra trước kết quả và có liên hệ với kết quả, nhưng là mối liên hệ bên ngoài, không
cơ bản, không sinh ra kết quả thì sự kiện đó chỉ là nguyên cớ mang tính chất chủ quan và tuy
không gây ra kết quả nhưng nguyên cớ góp phần xúc tiến gây ra kết quả. Do đó, trong thực tiễn
khi xem xét sự vật, hiện tượng ta phải phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ.
Trong thực tế, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp, có thể cùng một nguyên
nhân dẫn đến nhiều kết quả, tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, một kết quả cũng có thể
do nhiều nguyên nhân tác động ở những mức độ điều kiện khác nhau: nếu các nguyên nhân tác
động cùng chiều với nhau dẫn đến kết quả nhanh hơn, nếu tác động ngược chiều thì làm cho tiến

trình hình thành kết quả chậm hơn, thậm chí triệt tiêu tác động của nhau.
Khi một kết quả do nhiều nguyên nhân tạo ra thì tác động, vai trò của từng nguyên nhân
không như nhau. Do đó, cần phân loại và xác định vai trò của từng loại nguyên nhân. Triết học
duy vật biện chứng đưa ra nhiều hình thức nguyên nhân: nguyên nhân bên trong, nguyên nhân
bên ngoài, nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân không cơ bản, nguyên nhân chủ yếu và nguyên
nhân thứ yếu, nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan thường gắn liền với những kết quả
xuất hiện do có sự tham gia của con người. Nguyên nhân khách quan là sự tác động các mặt, các
yếu tố của hiện thực độc lập với ý thức của chủ thể trong quá trình tạo ra kết quả. Nếu nguyên
nhân khách quan tồn tại với tính cách là khả năng gây ra kết quả thì nguyên nhân chủ quan quyết
định việc biến kết quả ấy thành hiện thực hay không. Ngược lại, nếu nguyên nhân khách quan có
thể tự phát huy tác dụng tạo ra kết quả thì nguyên nhân chủ quan có thể làm cho kết quả đạt đến

trình độ cao hơn hay thấp hơn, nên nó sẽ tác động cùng chiều hay khác chiều với nguyên nhân
khách quan. Vì vậy, muốn tạo ra kết quả trước hết phải tạo ra nguyên nhân và điều kiện sản sinh
ra nó. Ngược lại, muốn xóa bỏ một hiện tượng thì phải xóa bỏ nguyên nhân và sự chuyển hóa
giữa nguyên nhân và kết quả.
Mối liên hệ nhân - quả là mối liên hệ cơ bản và quan trọng, thường gắn với tính chất
của sự vật hiện tượng là tính khách quan, tính tất yếu, tính phổ biến. Theo chủ nghĩa duy vật biện
chứng nguyên nhân của sự vật không phụ thuộc vào việc con người có nhận thức được nó hay
không, không có sự vật hiện tượng nào là không có nguyên nhân. Con người chỉ có thể phát hiện
và vận dụng mối liên hệ khách quan của nhân quả chứ không thể xóa bỏ nó. Do đó, một trong
những nhiệm vụ hàng đầu của các nhà khoa học, xã hội học là vạch ra được những mối liên hệ
nhân quả để có một phương pháp phân tích khoa học, phân biệt các loại nguyên nhân và tìm ra
nguyên nhân của các sự vật. Trong mối liên hệ nhân quả, kết quả do nguyên nhân gây ra phụ

thuộc vào những điều kiện nhất định, những điều kiện này là những hiện tượng cần thiết cho một
biến cố nào đó xảy ra nhưng bản thân chúng không gây ra những biến cố ấy. Tuy nhiên, nếu
thiếu chúng thì nguyên nhân không thể gây nên những kết quả được. Vì vậy, trong những điều
kiện nhất định thì những nguyên nhân nhất định sẽ tạo ra những kết quả nhất định. Những điều
kiện thế nào thì kết quả thế ấy hay nói cách khác đó là tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả.
Mối liên hệ nhân quả thể hiện trong thực tế rất phức tạp, đa dạng và cùng một sự việc
xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, khi chúng ta giải quyết một vấn đề nào
đó trước hết phải từ nguyên nhân cơ bản để có biện pháp giải quyết đúng đắn, thích hợp, đồng
thời phải biết khai thác, vận dụng các kết quả đạt được để nâng cao nhận thức, tiếp tục thúc đẩy
sự vật phát triển. Do đó, trong nhận thức và hành động của con người cần phải xem xét hiện
tượng một cách toàn diện và tích cực để chống lại các quan điểm siêu hình, chật hẹp, phiến diện,
và áp đặt mối quan hệ nhân quả. Trong hoạt động thực tiễn phải phân tích sâu sắc những hạn chế

của yếu tố chủ quan và đề ra những giải pháp khắc phục, để trên cơ sở đó tác động một cách có
hiệu quả làm biến đổi những nguyên nhân khách quan theo hướng có lợi.
Chương 2
NỢ XẤU NGÂN HÀNG DƯỚI GÓC NHÌN CỦA CẶP PHẠM TRÙ NHÂN QUẢ
2.1. Khái quát chung về nợ xấu
Hiện nay, để đánh giá đúng chất lượng của các tài sản Có của tổ chức tín dụng (ngân
hàng, công ty tài chính…), các khoản cho vay/cấp tín dụng (thường được gọi với tên thông dụng
là các khoản nợ) và cam kết ngoại bảng (bảo lãnh, chấp nhận thanh toán, cam kết cho vay không
hủy ngang…) được phân loại từ Nhóm 1 - 5 và được trích lập dự phòng rủi ro tương ứng.
Ngày 21/1/2013, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 02/2013/TT-NHNN. Thông tư
này đã sửa đổi, bổ sung cho Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về việc phân loại nợ, trích lập và
sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Theo đó, việc phân loại nợ để trích lập dự phòng cụ

thể được quy định lại theo hướng siết chặt hơn so với Quyết định 493. Thông tư 02 sẽ được áp
dụng từ ngày 1/6/2013. Nhưng vào ngày 27/5/2013 thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư
số 12/2013/TT-NHNN sửa đổi một số điều trong Thông tư 02. Theo đó, ngày áp dụng Thông tư
02/2013/TT-NHNN sẽ được gia hạn thêm 1 năm và bắt đầu có hiệu lực thi hành kể từ ngày
1/6/2014.
Theo Thông tư 02 nợ xấu dùng để chỉ các khoản nợ phân loại vào các nhóm 3, 4 và 5. Nợ
xấu về bản chất là khái niệm dùng để chỉ các khoản nợ cho vay khách hàng đang đối diện với rủi
ro cao trong việc thu hồi nợ gốc và lãi vay do khách hàng gặp khó khăn
Các nhóm nợ thuộc khoản nợ xấu:
- Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm
+ Nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày
+ Nợ gia hạn nợ lần đầu

+ …………….
2.2. Phân tích nợ xấu dưới 2 góc nhìn khác nhau
2.2.1. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu
2.2.1.1. Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng
Thứ nhất: Nhận thức về rủi ro tín dụng có hạn chế nhất định. Nguyên nhân của hạn chế
này do nhiều yếu tố:
(i) Nhận thức sai lầm trong mối quan hệ và tầm quan trọng giữa rủi ro, kinh doanh và
nguồn vốn, xem xét chưa đầy đủ về những khả năng mất vốn do những rủi ro tiềm ẩn gây ra, chủ
quan về mở rộng kinh doanh, tăng trưởng cho vay phụ thuộc chủ yếu vào huy động tiền gửi, phát
triển kinh doanh thiếu căn cứ
(ii) Một số nhà quản lý ưa thích rủi ro, khi xem xét hồ sơ của khách hàng truyền thống
chỉ dựa vào các tài liệu được cung cấp, như báo cáo bằng văn bản, báo cáo tài chính, không thực

hiện đánh giá rủi ro một cách khách quan. Do đó làm mất đi sự chính xác và tính hiện thực khi
xem xét hồ sơ vay vốn của khách hàng.
Thiếu kinh nghiệm và hạn chế trong kỹ năng quản lý: có hiện tượng ngân hàng thiếu biện
pháp hiệu quả để xác định, định hướng và kiểm soát rủi ro trong từng khu vực, số liệu quá khứ
không đầy đủ, hệ thống thông tin không cập nhật, kinh nghiệm cá nhân nhiều khi lạm dụng có
thể để lại hậu quả cho hoạt động ngân hàng. Do đó, biện pháp quản lý yếu kém có nguy cơ tập
trung và mang tính hệ thống.
Thứ hai: Quản lý rủi ro không diễn ra xuyên suốt cả quá trình:
(i) Công tác thẩm định không kỹ lưỡng, nghiêm ngặt: trong quá trình thẩm định trước khi
cho vay, có trường hợp quan hệ cá nhân có ảnh hưởng nhất định, vì vậy có hiện tượng buông
lỏng công tác thẩm định, không đánh giá một cách toàn diện, chính xác những rủi ro của khoản
vay, thiếu hiểu biết đầy đủ về tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong thời điểm hiện tại

cũng như tương lai, đánh giá quá lạc quan, thiếu phân tích ảnh hưởng tiềm ẩn của môi trường
xung quanh, biến động bất thường của kinh tế trong và ngoài nước.
(ii) Quá trình xét duyệt hồ sơ: có trường hợp ngân hàng bỏ qua một thực tế thủ tục và hồ
sơ vay vốn của khách hàng không đầy đủ, hay hồ sơ vay vốn của khách hàng là hồ sơ ảo.
(iii) Rủi ro trong bảo lãnh ngân hàng: là mối quan tâm lớn trong công tác quản trị ngân
hàng. Những vấn đề thường gây ra rủi ro trong nghiệp vụ như: năng lực phân tích, thẩm định
khách hàng yếu kém dẫn đến việc ngân hàng bị lừa đảo, mất vốn do phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh trong khi bên được bảo lãnh mất khả năng thanh toán. Hạn chế trong vận dụng quy định
của pháp luật trong nước, quốc tế liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng làm phát sinh
những tranh chấp kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngân hàng. Năng lực của cán bộ tín
dụng về thẩm định còn hạn chế cũng là yếu tố dẫn đến rủi ro khi thực hiện bảo lãnh ngân hàng.
Thứ ba: do quá trình tăng trưởng tín dụng quá nóng ở các ngân hàng, với áp lực về vốn,

nhiều ngân hàng phải tìm cách để tăng trưởng tín dụng. Khi ấy ngân hàng phải tăng lãi suất huy
động lên, điều này kéo theo lãi suất cho vay cũng tăng lên. Lúc này doanh nghiệp càng gặp nhiều
khó khăn hơn vì phải gánh thêm một mức chi phí vốn đang tăng cao, hoạt động sản xuất trở nên
bế tắc, dẫn đến nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản, suy giảm sản xuất hoặc tạm đóng
cửa, và những khoản vay ngân hàng của những doanh nghiệp đó đã góp phần làm cho tỷ lệ nợ
xấu của toàn ngành tăng lên. Bên cạnh đó với áp lực tăng vốn và một số ngân hàng chưa đạt
chuẩn về vốn ban đầu nên vẫn đang cố tìm cách để huy động vốn và đạt tăng trưởng tín dụng
nhanh, khi ấy các ngân hàng sẽ nới lỏng các tiêu chuẩn cho vay để đảm bảo hiệu quả trên đồng
vốn. Cả những khách hàng không đủ các điều kiện đảm bảo cần thiết cũng được chấp nhận cho
vay. Chính điều này là nguyên nhân xuất hiện con số nợ xấu sau này.
2.2.1.2. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, từ yếu tố kinh tế vĩ mô: Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, môi

trường kinh tế vĩ mô khó khăn làm giảm khả năng trả nợ của người vay khiến chất lượng tài sản
của hệ thống ngân hàng suy giảm. Trong giai đoạn 2008-2010, nền kinh tế Việt Nam đã đối diện
với tình trạng lạm phát cao, đồng thời chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu, tái lặp lạm phát cao làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm.
Trong hai năm 2011-2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút rõ rệt.
Năm 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP chỉ đạt 5,89%, và đến năm 2012 chỉ còn
5,03%. Chỉ số tăng trưởng sản xuất công nghiệp giảm xuống đáng kể, chỉ đạt lần lượt 6,8% và
4,8%. Tiêu dùng cá nhân chậm, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ năm 2011 và
2012 chỉ tăng 24,2% và 21,5%, nếu loại trừ ảnh hưởng của yếu tố giá chỉ số này chỉ tăng 4,7%
và 3,4%. Chỉ số tồn kho tăng mạnh và ở mức cao so với cùng kỳ các năm trước. Cuối năm 2011,
chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 23% so với cùng kỳ năm 2012. Tại
thời điểm 31/12/2012, chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến tăng 20% so với cùng kỳ năm

trước.
Điều này phản ảnh khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng như sức cầu tiêu dùng của nền kinh
tế đang ở mức rất yếu dẫn đến đọng vốn trong sản xuất kinh doanh và làm tăng nợ xấu của các tổ
chức tín dụng. Bên cạnh đó, một số nguyên nhân khác như tình trạng tăng trưởng tín dụng quá
mức và tập trung vào một số ngành, sự phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn từ bên ngoài quốc
gia, hiệu quả của hoạt động giám sát hệ thống, ảnh hưởng từ những cú sốc bên ngoài cũng khiến
nợ xấu ngân hàng tăng cao.
Thứ hai: Từ phía các doanh nghiệp
Nhiều doanh nghiệp đã phán đoán không chính xác xu hướng phát triển của thị trường,
dẫn đến mở rộng quy mô sản xuất trong các ngành đang phát triển quá nóng mà không có sự
đánh giá kỹ lưỡng. Hậu quả là sự mất cân bằng trong cung và cầu. Một số doanh nghiệp khi thực
hiện các dự án lớn lại chia nhỏ dự án để tìm tài trợ từ nhiều ngân hàng khác nhau, qua đó giúp

các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc vay vốn từ các ngân hàng cũng như giảm bớt sự kiểm
soát của ngân hàng. Chính những yếu tố này làm cho ngân hàng gặp khó khăn trong việc kiểm
soát các khoản cho vay, dẫn đến tình trạng nợ xấu.
Nhiều doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính thiếu hiệu quả, hoạt động kinh doanh yếu
kém, thua lỗ. Trong giai đoạn 2009-2012, thị trường chứng khoán Việt Nam rơi vào trạng thái
suy giảm trong dài hạn, ảnh hưởng tới xu hướng huy động vốn của các doanh nghiệp. Phần lớn
các doanh nghiệp tìm đến các tổ chức tín dụng (TCTD) để vay vốn tài trợ cho kinh doanh thay vì
có thể phát hành chứng khoán. Việc sử dụng đòn bẩy tài chính trong giai đoạn này giúp các
doanh nghiệp có thể tháo gỡ khó khăn về vốn, song lại khiến các doanh nghiệp phải đối mặt với
trạng thái tăng rủi ro tài chính. Khi nền kinh tế bộc lộ những bất ổn vĩ mô, lạm phát bị đẩy lên ở
mức cao, sức mua giảm sút thì tình trạng tồn kho kéo dài. Điều này khiến nhiều doang nghiệp ứ
đọng vốn, không có khả năng trả nợ vay của TCTD. Do đó, việc sử dụng đòn bẩy tài chính

không hiệu quả cùng với kết quả kinh doanh lỗ của nhiều doanh nghiệp đã trở thành nguyên
nhân gia tăng nợ xấu của các TCTD.
2.2.2. Tác động của việc gia tăng nợ xấu đối với ngân hàng và nền kinh tế
Khi xem xét mối quan hệ nhân – quả dưới góc độ nợ xấu đóng vai trò là một nguyên nhân, thì
những hậu quả mà nợ xấu đem lại đối với ngân hàng và nền kinh tế đó chính là:
- Thứ nhất: Việc giải quyết nợ xấu chậm sẽ dẫn đến tình trạng các bảng cân đối kế toán
của các ngân hàng (NH) vẫn chiếm tỷ lệ nợ xấu cao, đồng nghĩa với việc NH sẽ không thể cho
vay và các DN không tiếp cận được vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Tình trạng
này kéo dài sẽ gây ảnh hưởng xấu tới sự phát triển kinh tế của đất nước trong những năm tiếp
theo.
- Thứ hai: Khi nợ xấu càng kéo dài thì các chi phí bỏ ra về mặt hữu hình và vô hình đối
với xử lý nợ xấu càng lớn. Về mặt hữu hình là việc các tài sản cầm cố tại ngân hàng sẽ ngày càng

bị hao mòn, hư hỏng, giá trị và giá trị sử dụng sẽ mất dần, nếu nợ xấu được xử lý nhanh thì các
tài sản này sẽ được đem ra sử dụng nhanh chóng, tạo nên giá trị và giá trị thặng dư cho nền kinh
tế. Về mặt vô hình khi quá trình xử lý nợ xấu kéo dài, dẫn tới hệ số tín nhiệm của Việt Nam sẽ
khó mà duy trì được mức tín nhiệm như hiện nay, điều này gây ảnh hưỏng không nhỏ tới môi
trường đầu tư.
- Thứ ba: Tỷ lệ nợ xấu đối với lĩnh vực cho vay bất động sản thương mại và bất động
sản dân dụng mặc dù trong các báo cáo là không thật sự lớn, tuy nhiên có thể vì lý do nào đó
trong phương án kinh doanh, số tiền cho vay lẽ ra được rót vào các lĩnh vực sản xuất nhưng kỳ
thực lại được rót vào bất động sản hoặc lĩnh vực phi sản xuất. Không thể có số liệu thống kê
chính thức trong lĩnh vực này nhưng có thể dư nợ cho vay loại này không hề nhỏ đối với nền
kinh tế, tình trạng bất động sản xuống giá như thời gian vừa qua càng làm cho nhu cầu đối với
bất động sản giảm mạnh, hàng tồn kho về bất động sản ngày càng tăng lên, các DN bất động sản

bắt buộc phải liên tục hạ giá bán nhưng vẫn không thể bán được, quá trình này diễn ra liên tục
trong thời gian dài dẫn tới hiện tượng bán tháo, tuột dốc không phanh, khi đã dẫn tới tình trạng
bán tháo mà vẫn không có người mua thì số tiền mà các DN bất động sản bán được cũng không
thể nào trả được hết nợ gốc cho ngân hàng.
- Thứ tư: Việc giải quyết nợ xấu bị kéo dài sẽ làm suy giảm năng lực tài chính của các
NH, năng lực tài chính của các NH là xấu thì việc điều hành chính sách tiền tệ mới sẽ trở nên
khó khăn và hoạt động cung cấp tín dụng cho nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.
- Thứ năm: Việc tỷ lệ nợ xấu tăng đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động của các ngân
hàng. Bởi vì khi con số nợ xấu tăng cao sẽ làm tăng chi phí hoạt động, vì phải trích lập dự phòng
nhiều hơn đối với các khoản nợ nhóm 3, 4, 5. Trong trường hợp thu hồi được vốn nhưng lợi
nhuận thu được giảm so với tính toán khi ký kết hợp đồng tín dụng. Khi lợi nhuận giảm thì
những khoản đóng góp vào ngân sách cũng giảm đi, kéo theo việc đầu tư vào hiện đại hóa công

nghệ ngân hàng, đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ nhân viên cũng giảm sút.
Bên cạnh đó khi tỷ lệ nợ xấu tăng cao gấp 2 đến 4 lần tín dụng quốc tế thì uy tín và hệ số
tín nhiệm của ngân hàng bị sụt giảm nghiêm trọng. Một ngân hàng mà mang con số nợ xấu quá
cao thì dễ gây tâm lý hoang mang cho khách hàng lẫn nhân viên. Trong trường hợp ngân hàng
mất vốn, phải khoanh nợ, giảm nợ thậm chí là xóa nợ, ngoài phần lớn phần vốn do ngân sách cấp
bù đắp, chủ yếu do các ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro, phải giảm thu nhập, giảm lương, và
lại phải bắt đầu đối mặt với tình trạng cán bộ nghĩ việc, thiếu nhân viên có đủ năng lực làm việc,
mà nguồn nhân lực chất lượng cao thì rất quan trọng đối với hệ thống ngân hàng, dẫn đến kết quả
hoạt động kinh doanh càng đi xuống.
- Thứ sáu: Việc tăng cao của tỷ lệ nợ xấu có tác động gián tiếp đến nền kinh tế thông qua
mối quan hệ hữu cơ ngân hàng – khách hàng – nền kinh tế. Trước tiên nợ xấu sẽ ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh của ngân hàng, sau đó ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Bởi vì

khi nợ xấu phát sinh và tăng cao sẽ làm hạn chế khả năng khai thác và đáp ứng vốn, dịch vụ của
ngân hàng cho nền kinh tế. Mặt khác nếu nợ xấu phát sinh do khách hàng hoặc doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh kém hiệu quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế vì nguồn vốn bị ứ động và
việc sản xuất bị đình trệ làm cho nền kinh tế bị trì trệ, thậm chí là tuột dốc theo tác động dây
chuyền.
Bên cạnh đó nợ xấu cao sẽ dẫn đến rủi ro vỡ thanh khoản cao, vỡ cơ cấu kỳ hạn của ngân
hàng trong trường hợp không thu hồi được nợ. Do những mối liên hệ trên thị trường tài chính nói
chung và thị trường liên ngân hàng nói riêng, nên bất kỳ một ngân hàng nào gặp phải những rủi
ro trên thì đều có khả năng sẽ ảnh hưởng đến cả hệ thống. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tăng cao
không những ảnh hưởng tiêu cực đến bản thân các ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ nền
kinh tế.
CHƯƠNG 3

ĐỀ XUẤT CƠ CHẾ XỬ LÝ NỢ XẤU
3.1. Về phía các ngân hàng thương mại
Đối với khối nợ xấu cũ, các NHTM cần:
Xử lý từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro theo quy định. Tìm mọi biện pháp để thanh lý/phát mại
tài sản bảo đảm cho các khoản nợ xấu để thu hồi nợ.
Chủ động phối hợp khách hàng thực hiện cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả nợ đối với những
khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời nhưng có triển vọng kinh doanh khi giải quyết được
nợ xấu; Tiếp tục giảm lãi suất xuống để thực hiện các khoản cho vay mới, giúp DN giảm chi phí
đầu vào, bán được hàng, có điều kiện trả nợ ngân hàng.
Bán nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các NHTM, Công ty mua bán nợ trực
thuộc NHNN, Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) của Bộ Tài chính.
Cần phải thấy rằng, để xảy ra nợ xấu, trách nhiệm đầu tiên thuộc về ngân hàng (do nguyên nhân

khách quan và chủ quan mang lại) nhưng các ngân hàng không thể tự tạo ra nợ xấu. Nợ xấu là do
các con nợ - DN/cá nhân vay vốn đến hạn không trả được nợ, mà việc không trả được nợ cho các
ngân hàng có nguyên nhân cơ bản do yếu kém chủ quan của bản thân DN nhưng không thể bỏ
qua nguyên nhân từ cơ chế chính sách, từ quản lý vĩ mô. Vì vậy, xử lý nợ xấu lúc này không chỉ
là trách nhiệm đơn lẻ của các ngân hàng, DN mà cần có sự tham gia của Nhà nước với mục tiêu
phải đạt được trong việc xử lý nợ xấu là tạo điều kiện để các ngân hàng thiết lập quan hệ tín
dụng mới, giúp DN còn khả năng hoạt động vay vốn, đồng thời thanh lọc những DN, ngân hàng
yếu kém trong sản xuất kinh doanh; Thông qua xử lý nợ xấu, các ngân hàng mới có điều kiện
tiếp tục hạ lãi suất tiền vay.
Việc xử lý nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng cũng có điểm thuận lợi
là công ty con của ngân hàng nên có điều kiện hiểu rõ từng khoản vay đối với khách hàng. Khi
chuyển nợ xấu cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng, công ty có thể chủ

động, nhanh chóng tìm khách hàng để bán tài sản thu hồi vốn cho ngân hàng. Tuy nhiên, để công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng xử lý nợ xấu hiệu quả, cần xây dựng cơ chế mua
bán nợ rõ ràng, minh bạch, có sự tham gia giám sát chặt chẽ của NHNN, để tránh tình trạng nợ
xấu trên bảng cân đối của ngân hàng có thể giảm nhưng chất lượng nợ không thay đổi, do không
giải quyết tận gốc vấn đề.
Nếu bán nợ xấu cho DATC thuộc Bộ Tài chính thực hiện, rất cần một cơ chế mua bán rõ ràng thì
hoạt động mua bán các khoản nợ xấu của ngân hàng mới có hiệu quả.
Do tính phức tạp của các khoản nợ xấu trong ngân hàng, trong bối cảnh áp lực xã hội rất lớn về
vấn đề giải trình thì vấn đề đặt ra là thành lập công ty mua bán nợ trực thuộc NHNN hay công ty
mua bán nợ quốc gia (AMC) phải đủ quyền lực, được hỗ trợ bởi các chuyên gia giỏi về lĩnh vực
này, với những bước đi hợp lý, với sự phát triển của thị trường mua bán nợ Việt Nam.
Cùng với với việc xử lý nợ xấu cũ, các NHTM cần coi trọng đúng mức đến việc hạn chế nợ xấu

mới nảy sinh bằng cách:
Rà soát lại phân loại nợ, tiến tới việc phân loại nợ theo thông lệ quốc tế. Để làm được việc này
các ngân hàng cần phải (i) Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo chuẩn Basel II.
Việc xếp hạng tín dụng phải căn cứ trên các số liệu thống kê lịch sử của chính ngân hàng cho các
đối tượng khách hàng để tính toán các thước đo rủi ro xác suất/khả năng xảy ra vỡ nợ (PD); tổn
thất có thể xảy ra do vỡ nợ (LGD) và rủi ro vỡ nợ (EAD) cho các đối tượng này; đồng thời áp
dụng các điều chỉnh cần thiết trên cơ sở ý kiến của chuyên gia. Có như vậy, việc xếp hạng tín
dụng mới thực sự là công cụ hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng và là căn cứ để định giá
theo rủi ro của ngân hàng. (ii) Mặt khác chất lượng của xếp hạng khách hàng phụ thuộc lớn vào
mô hình tổ chức và đội ngũ nhân sự của chính ngân hàng. Vì thế, việc hoàn thiện mô hình tổ
chức theo hướng tuân thủ các nguyên tắc về quản trị DN, đảm bảo phân tách rõ trách nhiệm giữa
các bộ phận liên quan trong việc quản lý rủi ro; tránh xung đột lợi ích là vấn đề cốt lõi để giảm

thiểu nợ xấu nảy sinh trong hoạt động tín dụng.
Giám sát việc triển khai và ứng dụng xếp hạng tín dụng trong hoạt động để giảm thiểu rủi ro
nhằm đảm bảo hệ thống xếp hạng tín dụng không ngừng được hoàn thiện và nâng cao chất
lượng, đòi hỏi nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin để đảm bảo hệ thống vận hành có hiệu
quả. Định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra việc tuân thủ các quy định xếp hạng tín dụng, đảm bảo chất
lượng thông tin đầu vào nhằm ngăn ngừa những sai sót do vô tình hay cố ý đánh giá khách hàng
theo ý kiến chủ quan của một, hay nhóm người, làm sai lệch kết quả xếp hạng, dẫn đến các quyết
định cho vay không chuẩn.
3.2. Về phía doanh nghiệp vay vốn
Giải quyết hàng tồn kho là vấn đề cấp bách hiện nay. Để xử lý hàng tồn kho, ngoài việc hạ giá
bán (chấp nhận lỗ) để thu hồi vốn về quay vòng thì một hình thức liên kết giữa các DN, sử dụng
các sản phẩm của nhau cũng là cách làm hiện nay. Bên cạnh đó, việc minh bạch thông tin tài

chính, nâng cao khả năng quản trị DN, để tạo niền tin trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.
3.3. Về phía Ngân hàng Nhà nước
Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý để các ngân hàng có căn cứ thực hiện xếp hạng tín dụng
nội bộ, hướng theo thông lệ quốc tế. Song song với việc xây dựng, hoàn thiện xếp hạng tín dụng
nội bộ, cần có chính sách phát triển các đơn vị xếp hạng tín dụng độc lập làm cơ sở tham chiếu
chung trong công tác xếp hạng tín dụng. Kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực cho thấy,
việc phát triển các tổ chức xếp hạng tín dụng không do Nhà nước quản lý để hạn chế việc chi
phối của tổ chức hay cá nhân làm sai lệch kết quả xếp hạng là rất quan trọng trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng.
Nhanh chóng xử lý những bất ổn trong nội tại của một số ngân hàng, giám sát dòng tiền luân
chuyển trong nội bộ ngân hàng. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm hệ thống ngân
hàng luôn bất ổn, và tích tụ rủi ro hệ thống lớn. Khi giám sát được dòng vốn ra khỏi vòng luẩn

quẩn bởi một số ngân hàng, nợ xấu của các ngân hàng thương mại có điều kiện được xử lý, điểm
nghẽn về vốn sẽ được khắc phục, việc tiếp cận vốn của DN sẽ dễ dàng hơn.
KẾT LUẬN

×