Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

lịch sử gia phả việt nam mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.33 KB, 17 trang )

A. MỞ ĐẦU
Gia phả là một ngành khoa học, nghiên cứu có từ rất lâu đời trên thế giới,
nhưng đối với Việt Nam môn Gia phả học thì đến thời điểm hiện nay mới được
nhiều người biết đến. Gia phả giúp chúng ta chúng ta biết đầy đủ những thông tin
về gia đình, cá nhân bên trong những gia đình ấy. Gia phả học nghiên cứu một cách
khách quan và toàn diện những tiền nhân và hậu duệ của các cá nhân, những mối
quan hệ thân tộc của họ. Gia phả học là môn học cổ xưa nhất thế giới. Nghiên cứu
gia phả giúp cung cấp thông tin phục vụ cho nhiều ngành khoa học khác như tâm lí
học, văn hóa học, nhân học, di truyền học đặc biệt là cung cấp những thông tin hữu
ích cho ngành nghiên cứu lịch sử đặc biệt là trong việc cung cấp chứng minh
những thông tin đáng tin tin cậy, khi nghiên cứu về các nhân vật lịch sử của xã hội.
Gia phả xuất hiện ở các nước châu Âu và trải qua nhiều thời kì phát triển khác
nhau: thời kì huyền phả, thời kì phôi thai, thời kì xuất hiện. Trải qua thời gian dài
ngành gia phả phát triển trên thế giới. Châu với sự phát triển của ngành gia phả, thì
ở châu Á một số nước ngành gia phả phát triển trên lâu đời điển hình như Trung
Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản. Còn ở Việt Nam ngành gia phả học cũng có nhiều
biến động thăng trầm cùng với lịch sử Việt Nam. Trong thời kì Bắc thuộc gia phả
đã xuất hiện nhưng đó chỉ là những ghi chép đơn giản như ghi chép tên cúng cơm,
ngày giỗ, nơi an tán của ông cha. Ở Việt Nam lúc đầu gia phả chỉ xuất hiện phổ
biến trong hoàng tộc có các loại như ngọc điệp, ngoc phả… trong thời kì phong
kiến độc lập có các bộ gia phả như Hoàng triều ngọc điệp, Hoàng tông ngọc điệp,
Hoàng triều ngọc phả. Trải qua các thời kì phát triển của gia phả học từ thời bắc
thuộc đến thời kì phong kiến độc lập đến thời kì hiện nay gia phả Việt Nam đã đạt
đươc nhiều thành tựu nhất định cùng với đó gia phả học cũng đã từng bước phát
triển cùng với các ngành khoa học khác. Và ngày nay nhiều bộ gia phả của các
dòng họ ra đời nhằm cung cấp thông tin cá nhân , cùng với thông tin của dòng họ
1
để phục vụ nghiên cứu. Việc nghiên cứu gia phả có những ý nghĩa nhất định bên
cạnh việc cung cấp thông tin cho ngành khoa học khác, các tác phẩm của ngành gia
phả giúp chúng ta gìn giữ những truyền thống dân tộc từ trong cấu trúc nhỏ của xã
hội đó chính là gia đình, lưu lại những giá trị quí báu để giáo dục thế hệ trẻ giữ gìn


những truyền thống dân tộc.
2
B. Nội dung
I. Tình hình gia phả thế giới
1. Nguồn gốc gia phả
Gia phả xuất hiện trên thế giới từ xa xưa. Không ai biết một các chính xác về
thời gian hình thành của gia phả, chỉ biết rằng gia phả được hình thành dựa trên ý
niệm tự nhiên là biết ơn tiên tổ của con người cả ở phương Đông và phương Tây.
Dựa theo trạng thái văn minh cao thấp khác nhau của mỗi một vùng lãnh thổ, một
quốc gia mà có cách làm gia phả khác nhau. Cũng do điều kiện tự nhiên, kinh tế và
xã hội có sự khác biệt nên gia phả ở phương Tây và phương Đông cũng có thời
gian ra đời và cách thức biểu hiện khác nhau. Do vậy, người ta thường chia ngành
gia phả thế giới ra làm hai khuynh hướng phương Đông và phương Tây.
2. Lịch sử ngành gia phả châu Âu
Lịch sử gia phả châu Âu có thể chia làm ba thời kỳ: thời kỳ huyền phả, thời
kỳ phôi thai và thời kỳ xuất hiện.
2.1. Thời kỳ huyền phả
Thời kỳ này ý thức hệ gia phả thường gắn với những điều huyền bí mang tính
chất thần thoại có chút hoang đường.
Trong những câu chuyện về đấng sáng tạo của những người phương Tây,
cũng như cách tôn sùng đấng sáng tạo của một bộ phận không nhỏ người thời đó
đã nói lên tâm lý biết ơn tổ tiên và biết nghĩ về nòi giống của họ. Ở Hy Lạp, có một
kho tàng văn học thần thoại phong phú và đa dạng về khai thiên lập địa, về các
thần thuộc, về các anh hùng dũng sĩ. Hay trong kinh Cựu Ước, những người Do
Thái xưa đã tôn một vị duy nhất làm Thượng đế, là đấng tối cao tạo ra thế giới. Ở
La Mã, người trưởng tộc bắt con cháu dòng họ phải thờ cúng tổ tiên. Có thể nói, ý
thức hệ gia phả đã bắt đầu từ thần thoại như vậy, nhưng xét về mặt thực tế không
thể coi đó là gia phả được, đo đó người ta gọi thời kỳ này là thời kỳ huyền phả.
2.2. Thời kỳ phôi thai
Thời kỳ huyền phả tuy không thể đóng góp cho ngành gia phả về mặt vật

chất, tức là những bộ gia phả thực sự, nhưng lại cung cấp cho thời kỳ sau này tiền
3
đề tư tưởng để người ta viết nên những bộ gia phả sơ khai. Thế kỷ V, ở châu Âu bắt
đầu phôi thai hình thành một loại văn mới lạ qua lối viết truyện ký hay tiểu sử của
các văn gia thời cổ như Xénophon, Hérodote, Thucydide. Thực chất của việc viết
tiểu sử hay truyện ký là một cách khắc học lại gia đình và gia tộc của họ. Do đó, có
thể cho rằng ngành gia phả ở châu Âu đã bắt nguồn từ lối viết truyện ký, tiểu sử
của các văn gia này.
2.3. Thời kỳ xuất hiện gia phả và sự phát triển ngành gia phả học
Sau hai giai đoạn trên, phải trải qua 6 thế kỷ nữa ngành gia phả mới bắt đầu
xuất hiện. Sự hình thành gia phả châu Âu khác với ở châu Á, gia phả chủ yếu được
hình thành dựa trên như cầu tìm hiểu nguồn gốc loài người, do ham muốn khoa
học và quan trọng do mục đích chính trị của họ.
Những bộ gia phả đầu tiên của châu Âu được Dã Lan Nguyễn Đức Dụ xác
định là xuất hiện sau cuộc khảo cứu của nhà học giả Are Le Savant 1067-1148.
Một nhà tu người Pháp tên là Etienne De Chypre đã cho xuất bản cuốn “Lịch sử
tổng quát các vương quốc Jérusalem, Chypre, Arménie từ năm 1572 đến năm
1579” khảo về nguồn gốc các vua chúa, thân vương và các nhà đại quý tộc. Gia
phả học châu Âu có thể xem chính thức ra đời với cuốn gia phả của 67 nhà quý
phái Pháp và ngoại quốc của sử gia Estienne de Lusignan, năm 1587.
Từ thế kỷ XVII, xuất hiện các phương pháp phê bình sử học, và đặc biệt
những sử gia đó đồng thời cũng là những phả gia nổi tiếng, nhất là Anselme,
Claude Francois Méneestrier và Jean De Laboureur đã xuất bản cuốn khái luận về
nguồn gốc và cách sử dụng các thời trong một dòng họ năm 1683, chỉ dẫn cho
người đọc sự quan trọng của toàn thể tổ tiên cụ kỵ nội ngoại. Trong thời kỳ đó
Claude Francois Méneestrier và Jean De Laboureur được cho là ông tổ của ngành
gia phả canh tân của châu Âu.
Tới thế kỷ XVIII, gia phả học châu Âu có sự phát triển khác biệt giữa một số
nước. ở Pháp, do ngành gia phả học dựa trên đạo luật La Mã nên chỉ chú trọng đến
giai cấp có quyền lực lúc bấy giờ là những quan lại, quý tộc. Tới nửa sau thế kỷ

4
XVIII, với sự suy thoái của giai cấp thống trị, các phả gia Pháp không chịu hoạt
động vì họ cho rằng việc viết gia phả đồng thời là một hình thức xua nịnh, khoe
khoan của những kẻ trên, cốt để duy trì một trật tự xã hội đã lỗi thời. Thậm chí hồi
cuối thế kỷ XVIII, có một số người tạo dựng những gia phả tưởng tượng với những
tổ tiên lẫy lừng để gạt dân chúng lấy tiền khiến cho ngành gia phả ở Pháp suy thoái
trầm trọng. Trong khi đó, ở Đức và nhiều nước châu Âu khác, ngành gia phả lại có
xu hướng phát triển mạnh.
Phải chờ tới mãi năm 1865, khi một giáo sĩ người Áo là Grégor Mendel
khám phá ra được định luật của sự di truyền thì từ đó ngành gia phả học châu Âu
mới thực sự tiến bộ. Nhiều nước châu Âu như Pháp, Anh, Đức, Áo, Bỉ, Tây Ban
Nha , môn gia phả học được coi như một môn khoa học thuần túy, một khoa học
khảo cứu về lịch sử của các dòng họ cũng như “Tính thị khảo” bên Trung Quốc.
“Người dân phương Tây quan niện rằng tất cả các dòng họ, gồm đủ thành phần
sang hèn tiện phú, là nền tảng của xã hội mà trong đó điều quan hệ là mọi người
phải được đối xử đồng đều, vì Họ nào cũng có người sang hèn”.
1
Năm 1909,
Edouard Heydebreuch xuất bản cuốn Nguồn gốc lịch sử dòng họ. Phả gia Séphane
Kekule Von Stradonitz đã để lại cho châu Âu một cuốn sách cùng với 32 dòng họ
của các vị lãnh tụ, những vua chúa của châu Âu.
Nhìn chung, ngành gia phả học châu Âu, từ đầu thế kỷ XVIII bắt đầu phát
triển, qua tới thế kỷ XIX là thời cực thịnh. Vào thời cực thịnh, nhiều cuốn gia phả
giá trị với những tài liệu phả học rất phong phú của nhiều nhà bác học, giáo sư
danh tiếng ở khắp các nước như Ý, Na Uy, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Pháp, Đức, Anh,
Mỹ, Canada Nói tóm lại, hầu hết trên thế giới, ngành gia phả đã lan truyền từ
châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, miền Bắc Âu, Trung Đông cho tới các nước Do Thái.
Trong đó, châu Âu là phát triển hơn cả vì quy tụ được nhiều nhà nhà bác học thông
thái và uyên bác. Có nghĩa là, trên bình diện quốc tế, ngành gia phả học chưa phát
1 Dã Lan Nguyễn Đức Dụ (1992), Gia phả khảo luận và thực hành, Nxb. Văn Hóa, Hà Nội.

5
triển đồng đều. Do đó năm 1929, một hội nghị Gia phả quốc tế đầu tiên đã họp ở
Barcelone với nhiều nhà chuyên môn. Hội nghị Gia phả thứ hai họp ở Naples năm
1953. Hội nghị gia phả thứ ba họp ở Mairid năm 1955 là hội nghị rất lớn, gồm 408
hội viên thuộc 76 đoàn thể của 31 quốc gia tham dự. Từ sau hội nghị, bộ môn gia
phả học chính thức được đưa vào học và giảng dạy tại các trường đại học.
Như vậy, trải qua thời gian dài, môn gia phả học châu Âu dựa vào những
truyền thống cổ xưa phát triển ngày càng mạnh mẽ và trở thành một ngành khoa
học quan trọng.
3. Lịch sử ngành gia phả châu Á
Gia phả ở châu Á xuất hiện sớm hơn các nước châu Âu, sớm nhất là ở Trung
Quốc với bộ gia phả mang tên Thế bản được soạn xong năm 722 BC. Còn ở châu
Âu mãi đến năm 753 tại Hy Lạp chữ viết mới hình thành nên việc ghi chép gia phả
chắc chắn diễn ra muộn hơn phương Đông. Ngay từ thời Xuân Thu, Trung Quốc đã
là một nền văn minh lớn của thế giới, người ta đã biết đặt ra tông pháp, điền chế,
binh chế, pháp chế, học thuật. Trong khi nền văn minh Ai cập phát triển rực rỡ
khắp thế giới thì châu Âu mới ở giai đoạn tiền sử phát minh ra văn tự. Một số nước
châu Á có lịch sử gia phả lâu đời và mang nhiều giá trị lịch sử cũng như giá trị văn
hóa là Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Ấn Độ mà trước hết là Trung Quốc.
Trung Quốc là nơi xuất hiện gia phả sớm nhất trong các nước châu Á, gia phả đã
hình thành từ thời nhà Chu (1382 – 1112 BC), và chính hệ cùng bàng hệ là những
thành phần chính của nó. Chu công là người đầu tiên lập ra tông pháp mà theo Sử
gia Phan Khang thì chế độ tông pháp thời nhà đó được tổ chức như sau:
Thứ nhất: ngành trưởng
Thứ hai: Các Đại tông, gồm tất cả những người con thức tức là em của ngành
trưởng.
Ngoại trừ hai ngành trên, còn hết thảy các con thứ của các đại tông, kể từ
người con trai thứ hai trở đi đều gọi là thiếu tông. Các tông nhơn có bổn phận phải
giúp đỡ lẫn nhau và ngàng trưởng cũng có bổn phận phải thu dụng các tông nhơn.
6

Tới thời nhà Tống, một đại chính chị gia uyên bác đặc ra thể thức ngũ đại thì
phần lớn các dòng họ đều theo thể thức ấy mà soạn gia phả cho họ mình. Thể thức
này gọi là Âu thị văn thể.
Bắt đầu đời vua Thế Tôn (1552 – 1556) đời nhà Minh, do lệnh của nhà vua
nên rất nhiều từ đường đã được xây dựng. Nhiều từ đường không chỉ là nơi tổ chức
cúng giỗ tổ tiên cho một gia đình, dòng họ mà cho cả một làng, một huyện. Tuy gia
phả Trung Quốc có từ thời nhà Chu nhưng phải đến đời nhà Ngụy (220 - 265) thì
phạm vi gia phả mới được mở rộng. Trải qua nhiều thế kỷ, mỗi gia đình gia tộc ở
Trung Quốc đều có một cuốn gia phả. Trung Quốc là một nước đứng hàng đầu
chiếm số lượng gia phả nhiều nhất thế giới.
Nhật Bản cũng như các quốc gia khác, vào thời thượng cổ chưa có chữ viết,
nên lịch sử quốc gia, gia phả, tộc thư và truyện kể thường được truyền miệng. Mặt
khác vào thời thượng cổ, dân tộc Nhật Bản chưa ý thức được rõ rệt việc chép tên
tuổi, dòng họ, tức là chép gia phả. Sau này do tiếp xúc với các nước liên lục địa,
chữ viết ra đời, lúc đó các truyện kể, truyền thuyết mới được ghi chép bằng chữ.
Các bản tộc phả, tộc thư khi đó phần lớn là chép về các vua chúa Nhật Bản, trong
phạm vi hoàng gia như các tập Đế ký, Hoàng đế thực lục, Quốc gia ký lục, trong đó
có cuấn Kojiki là bộ phả lớn từ thời hoàng sơ đến triều vua Suiko (539 – 628). Trải
qua thời gian dài, việc chép phả được phổ biến, hầu hết các gia đình Nhật Bản đều
có phả riêng chép sự phát triển lịch sử và thành tích của tổ tiên, các gia đình
thường dựng bia tưởng niệm ông tổ sáng lập dòng họ và rước vào thờ trong một
đền thờ đạo. Bên cạnh Trung Quốc, Nhật Bản còn nhiều quốc gia khác ở châu Á có
một nền gia phả lâu đời và đặc sắc như Hàn Quốc, Triều Tiên và trong đó có cả
Việt Nam.
II. Gia phả Việt Nam qua các thời kỳ
• Quan niệm về việc lập phả của Việt Nam
Quan niệm lập phả của người Việt Nam dựa trên nếp sống, sinh hoạt gia đình
của con người từ thời xa xưa. Nếu ở phương Tây, con người luôn dựa vào khoa
7
học, lấy khoa học kỹ thuật làm nền tảng, thì ở Việt Nam thời lại dựa trên nông

nghiệp, lấy nông nghiệp làm gốc. Do đó, nếp sinh hoạt của ta khác hẳn với người
phương Tây. Người Việt Nam ta luôn hiếu tĩnh, quanh năm sống với đồng ruộng,
tâm hồn luôn luôn hòa hợp với thiên nhiên còn người phương Tây thì ngược lại.
Người phương Tây làm gia phả chủ yếu để biết gốc tích loài người do đâu mà có,
đó cũng là một tất yếu cho tính tò mò, ham muốn nghiên cứu khoa học của họ,
thực chất là để nhắm vào mục đích chính trị. Trong khi tư tưởng làm gia phả Việt
Nam lại bao hàm một tư tưởng rất sâu sắc bắt nguồn từ trong gia đình, gia tộc.
Nói về gia đình tổ tiên, người Việt Nam từ xưa tới nay vẫn coi gia đình là cái
gốc của người ta và bất luận thế nào, đối với cá nhân hay tập thể, gia đình vẫn có
mối liên hệ mật thiết, đồng thời là nơi trung gian giữa người chết (tổ tiên) và người
sống (con cháu). Người xưa nặng về quan niệm sống trọn nghĩa “báo bản tông tổ”
thì gia đình phải có trách nhiệm hun đúc nuôi dưỡng con cháu để duy trì cái gốc ấy,
đồng thời gia đình cũng phải tích cực bảo vệ những tính tốt đẹp cũng với những
phong tục tập quán tốt để hướng con cháu theo.
Theo người xưa, gia phả ngoài việc nhắc nhở con cháu nhớ phần mộ, giỗ
chạp ông bà tổ tiên còn phản ánh cả tư tưởng, đạo đức của tiền nhân cùng nền nếp
sinh hoạt của toàn tộc, hay nói cách khác thì gia phả phản ánh nếp sinh hoạt của
một người trong một gia đình gia tộc, cho nên gia phả phải được xây dựng trên căn
bản ấy, mà trong đó cổ nhân chú trọng nhất đến “Phần người chết và nhiệm vụ của
người són”". Do đó, gia phả cũng phải quy định những ước thúc để chỉ rõ nhiệm
vụ của người sống (tức con cháu) phải bảo tồn dòng dõi để luôn có người giữ gìn
hương khói cho người chết (là tổ tiên).
1. Gia phả Việt Nam thời kỳ trước độc lập
Sau hàng chục ngàn năm lao động gian khổ kể từ khi xuất hiện, quốc gia đầu
tiên ở nước ta mang tên Văn Lang được thành lập. Họ Hồng Bàng được biết là họ
đầu tiên làm vua ở nước ta. Tới đời vua Hùng Vương, trong nước ta đã có một thể
chế khá rõ ràng: trong mỗi nóc nhà có gia tộc, gia trưởng, ngoài làng mạc có chế
8
độ Lạc hầu, Lạc tưởng cai quản các thái ấp. Dân Lạc Việt khi đó sống định cư từ
miền cao nguyên cho tới miền trung châu trên lưu vực sông Nhị Hà và sông Mã.

Người Việt luôn coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, cho đó là một việc làm linh thiêng
vô cùng quan trọng trong đời sống. Những câu truyện cổ tích như Sơn Tinh, Thủy
Tinh hay sự tích bánh trưng bánh dày cho ta thấy, rõ ràng trong thời Văn Lang,
nước Việt Nam ta tuy chưa có gia phả (vì lúc đó chưa có văn tự) nhưng người Việt
Nam đã có một ý niệm nhất quán về gia phả, tổ tông, tộc hệ, dòng dõi. Có thể
những ý niệm đó đã nảy mầm và bắt rễ từ trong dân gian, sau dần lớn lên thành ý
thức phả hệ. Vì thế có thể coi giai đoạn Hùng Vương là chặng đầu của ngành Gia
phả Việt Nam, nhưng lại là một giai đoạn vô cùng quan trọng để mở đường cho
công cuộc làm gia phả của nước ta sau này.
Đến năm 179 BC, nước ta rơi vào tay nhà Tây Hán, trải qua hơn 1000 năm bị
đô hộ, văn hóa Trung Quốc truyền bá sang nước ta dễ dàng hơn thời kỳ trước và
sâu đậm hơn thời kỳ trước. Có thời gian, nhà Hán bắt dân ta phải làm theo mọi
phong tục, lễ nghi, tôn giáo, nghệ thuật, văn tự, học thuật, mà trong đó điều đáng
chú ý là chế độ tông pháp nhà Chu, vì chính chế độ này đã có tác dụng bồi dưỡng
cho cái gốc gia phả Việt Nam lớn mạnh thêm. Như vậy, dân ta đồng thời học tập
được nền văn hóa Trung Quốc mà vấn đề gia phả (dưới hình thức thờ cúng tổ tiên)
được vun đắp ngày càng sâu sắc. Bên cạnh việc truyền bá văn hóa Trung Quốc vào
nước ta, người Hán cũng mang theo chữ viết tới nước ta. Những người Việt thông
thạo chữ Hán thời đó được qua Trung Quốc thi cử làm quan. Một số người đã làm
quan cho nhà Hán như Lý Tiến, Lý Cầm, Trương Trọng. Theo Dã Lan Nguyễn Đức
Dụ, có thể những người này đã được tiếp xúc với nền gia phả Trung Quốc, đặc biệt
có thể đã được biết đến các cuốn gia phả đầu tiên của Trung Quốc là Thế gia, Thế
bản, Thể biểu. Đó ông cho rằng rất có thể gia phả Việt Nam đã có từ thời này, tức
là không những ngành gia phả xuất hiện trước thời Lý, Trần mà còn xuất hiện
trước châu Âu nhiều thế kỷ.
9
2. Gia phả Việt Nam thời kỳ độc lập
Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán, giành lại độc lập tự
chủ cho dân tộc. Tuy nhiên phải đến thời nhà Lý nước ta mới có bộ gia phả đầu
tiên mang tên Hoàng triều ngọc điệp. Nguyên nhân có thể là, trong các thời Ngô,

Đinh – Tiền Lê, nước ta tuy có độc lập nhưng khó khăn về mọi mặt, kinh tế thì
nghèo khó lại đứng trước nguy cơ trở lại xâm lược của phương Bắc. Có nghĩa thời
kỳ này nước ta vẫn trong giai đoạn bảo vệ tổ quốc, chưa có điều kiện quan tâm tới
vấn đề văn hóa và đặc biệt là việc lập phả. Tới thời nhà Lý, đất nước được ổn định,
kinh tế có bước phát triển hơn trước, quân sự đất nước cũng vững mạnh hơn có thể
chống lại sự xâm lược của phương Bắc. Do đó các vị vua đã quan tâm tới việc lập
phả, năm Thuận Thiên thứ 17 (1026), vua Lý Thái Tổ lệnh cho biên soạn Hoàng
triều ngọc điệp, năm 1267, vua Trần Thánh Tông cho biên soạn Hoàng tông ngọc
điệp. Đời Cảnh Hưng (1740 – 1786), vua Lê Hiền Tông sai bọn gia thần là Trịnh
Viêm và Nguyễn Hải biê soạn Hoàng Lê ngọc phả. Nhà vua làm bài tựa rằng: “ Ta
nghĩ xưa kia Thánh Tổ tích đức làm điều nghĩa nối nhau nhiều đời nên mới dọn
dẹp giặc giã để có nước nhà. Các triều vua sau nhờ có công nghiệp sẵn, sửa sang
mọi việc, khôi phục đất xưa để có ngày nay là nhờ công đức ấy. Ta nối nghiệp ông
cha, nghĩ đến việc nghĩa của các triều trước, không ngày nào quên, đã từng biên
chép thành sách, để hàng ngày xem đọc.”
2

Dưới triều vua Gia Long (1802 – 1820), nhiều cuốn phả họ Nguyễn Phúc
được dâng lên như: Hoàng triều đại tông dồ, Hoàng gia phả hệ, Hoàng triều ngọc
phả. Thời vua Minh Mạng (1820 – 1840), việc biên soạn gia phả có quy củ hơn.
Nhà vua giao cho Quốc sử quán soạn bộ Luật thánh thực lục và ngọc phả. Năm
1836, nhà vua còn lập bộ phận “Tôn thân phủ” chuyên lo việc gi chép Hoàng triều
tôn phả và quản lý những người trong họ. Hoàng triều tôn phả cứ 5 năm bổ sung
một lần. Phòng nào có con cháu sinh thêm hoặc có người tạ thế, có thêm dâu, rể
2 Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loạn chí, Nxb. Đại học khoa học xã hội, Hà Nội.
10
hoặc có những thay đổi quan trọng về nghề nghiệp đều phải trình với Tư giáo của
Hệ mình để ghi vào sổ, chuẩn bị cho kỹ bổ sung kế tiếp. Theo tổ chức của Nguyễn
Phúc Tộ thì một vị chúa hay một vị vua đứng đầu một Hệ lập thành một đời, mỗi
Hệ gồm nhiều phòng. Đứng đầu mỗi phòng là một Hoàng Tử. Mỗi phòng lại có

nhiều Chi. Chép người đại diện cho mỗi đời trước tiên có phần thân thế và sự
nghiệp bao gồm: tên húy, tên thân phụ, thân mẫu, ngày giờ sinh, sự nghiệp. Tiếp
đến là ngày giờ mất, lăng, miếu thờ, cùng các tước hiệu. Sau đó mới chép về gia
đình bao gồm: phần hậu, phi, phu nhân, phần con cái thường chép con trai riêng,
con gái riêng.
Theo Chín đời Chúa mười ba đời Vua Nguyễn - Nguyễn Đắc Xuân Dòng họ
Nguyễn làm Chúa, làm Vua trong một thời gian khá lâu (từ 1558 đến 1945), con
cháu rất đông. để khỏi nhầm lẫn về thế, thứ, thân, sơ và người trong họ, các Chúa
và các Vua Nguyễn đã ban những nguyên tắc đặt tên và tên đệm cho con cháu
trong dòng họ mình. Việc đặt tên đệm do vua Minh Mạng chủ trương để áp dụng
cho 20 đời tính từ vua Thiệu Trị về sau. Theo lời văn khắc trên đồng sách (bài ngự
chế tự) thì việc này làm theo ý vua Gia Long.
Những con cháu thuộc các thế hệ từ vua Minh Mạng trở về trước: Gồm con
cháu chín đời Chúa, anh em vua Gia Long và anh em vua Minh Mạng. Chúa
Tiên (1558 – 1613) từ ngoài Bắc vào mang họ Nguyễn, tức Nguyễn Hoàng. Tương
truyền rằng, khi bà vợ ông nằm mơ thấy thần nhân cho tờ giấy viết đầy cả
chữ Phúc, nhiều người đề nghị lấy chữ Phúc đặt tên cho con thì bà cho rằng: Nếu
đặt tên cho con thì chỉ một người được hưởng Phúc, chi bằng lấy chữ Phúc đặt làm
tên đệm thì mọi người đều được hưởng Phúc. Bà đặt tên cho con là Nguyễn Phúc
Nguyên, nhánh họ Nguyễn vào Nam làm Chúa đổi thành Nguyễn Phúc bắt đầu từ
đó. Từ Nguyễn Phúc Nguyên xuống đến vua Minh Mạng đều mang họ Nguyễn
Phúc (Vua Minh Mạng là Nguyễn Phúc Đảm). Những hậu duệ của chín đời Chúa
11
cùng họ Nguyễn Phúc với vua Minh Mạng được nhà vua đặt là Tôn Thất. Con gái
của Tôn thất là Tôn nữ, một số thân tộc thuộc dòng những con trai khác của
Nguyễn Hoàng còn ở lại đất Bắc (như dạng làm con tin) thì đổi ra họ Nguyễn Hựu.
Những con cháu của vua Minh Mạng. Vua Minh Mạng cho làm riêng cho con
cháu bài Đế hệ thi 20 chữ dành cho 20 đời. Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh, Bảo Quí
Định Long Trường, Hiền Năng Kham Kế Thuật, Thế Thụy Quốc Gia Xương.
Con vua Minh Mạng có tên đệm là Miên như Miên Tông (Vua Thiệu Trị), Miên

Thẩm (Tùng Thiện Vương), Miên Trinh(Tuy Lý Vương).
Cháu nội vua Minh Mạng có tên đệm là Hường như Hường Nhậm (Vua Tự Đức).
Chắt nội tên đệm là Ưng như Ưng Chân (Vua Dục Đức).
Chỉ có những người trong Đế hệ thi mới được làm vua: Miên Tông (Thiệu
Trị), Hồng Nhậm (Tự Đức), Ưng Chân (Dục Đức), Bửu Lân (Thành Thái), Bửu
Đảo (Khải Định), Vĩnh San (Duy Tân), Vĩnh Thụy (Bảo Đại).
Con gái, cháu gái của vua Minh Mạng cũng có một cách đặt tên riêng.
Nói chung, con gái của vua Minh Mạng hay của các vua con cháu của vua Minh
Mạng cũng đều áp dụng theo một cách đặt chữ lót sau đây:
Con gái của vua là Hoàng nữ, khi được sắc phong thì trở thành Công chúa và có
tên hiệu riêng. Ví dụ Hoàng nữ Trinh Thận (em ruột Miên Thẩm) được sắc phong
là Lại Đức Công chúa.
Công chúa về sau có anh hay em làm vua thì được gọi là Trưởng Công chúa (để
phân biệt với Công chúa con vua đang trị vì), có cháu làm vua (vua gọi bằng cô)
thì được gọi là Thái trưởng công chúa (trở thành cô của vua tại vị).
Con, cháu gái các Hoàng tử tức cháu nội của vua thì phải căn cứ vào thứ bậc của
anh hoặc em trai mà đặt.
Con trai của Hoàng tử là Công tử, chị em gái của Công tử là Công nữ, con trai, con
gái của Công tử là Công tôn nữ (tôn đây có nghĩa là cháu), con gái Công tôn
12
là Công tằng tôn nữ, xuống một bậc nữa là Cung huyền tôn nữ, xuống nữa là Lai
tôn… Nhưng để đơn giản các đời kế tiếp chỉ gọi là Tôn nữ với ý nghĩa là cháu gái.
Cùng với sự xuất hiện các gia phả của Hoàng tộc là gia phả của các danh gia,
quan lại và cứ thế lan rộng, phổ biến ghi chép gia phả trong nhân dân. Giai đoạn
phát triển mạnh qua các đời vua chúa Lý, Trần, Lê, Trịnh, Nguyễn cho tới gần cuối
đời nhà Nguyễn, khi các khoa thi chữ Hán chấm dứt (1919) thì môn gia phả cũng
suy sụp theo.
3. Gia phả Việt Nam thế kỷ XX
Trước đây, gia phả chủ yếu được ghi chép bằng chữ Hán – chữ Nôm, nhưng
qua nhiều năm chiến tranh, nhiều bộ phận gia phả của các dòng họ bị mất dần. Sau

ngày đất nước thống nhất và nhất là từ khi tiến hành đổi mới đất nước đến nay, xu
hướng trở về cội nguồn, phục hưng các sinh hoạt dòng họ diễn ra sôi nổi. Thể hiện
rõ nhất của xu hướng này trước hết là việc sửa chữa, trùng tu, xây mới nhà thờ, mồ
mả tổ tiên, tiếp đến là việc dịch ra tiếng Việt, sưu tầm viết lại các gia phả, truy tìm
gốc tích tổ tiên ở các nơi. Tuy nhiên, phần lớn những người quan tâm thực hiện
những việc trên lại là những cụ già sức tàn lực kiệt hoặc đã nghỉ hưu; trong khi lớp
người trẻ tuổi ngày càng rời xa gia đình, dòng họ chạy theo cơn lốc kinh tế thị
trường mà ít quan tâm đến cội nguồn. Gia phả nước ta có nhiều nhất ở miền Bắc và
miền Trung. Sách “Di dản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu đã tập hợp được
286 bộ Ngọc phả, Thàn phả, Thánh phả và Gia phả của các dòng họ Lê, Nguyễn,
Trần, Vũ, Đinh, Phạm Hồ trong đó có bộ gia phả rất quý là Hùng Vương, sự tích
Ngọc phả cổ truyền”.
3
Ở Nam Bộ, vùng đât mới trên 300 năm, đầu thể kỷ XIX
cũng đã có những bộ gia phả của các họ làm quan triều Nguyễn như: gia phả họ
Trịnh (Trịnh Hoài Đức) ở Biên Hòa, năm 1825. Gia phả họ Phạm (Phạm Đăng
Hưng) ở Định Tường, năm 1825,
3 Trung tâm nghiên cứu thực hành gia phả thành phố Hồ Chí Minh (2013), Gia phả học đại cương, Nxb. Tổng hợp.
TP. Hồ Chí Minh.
13
Dù người Việt Nam đã biết chép phả từ sớm nhưng người Việt Nam đầu tiền
hoàn thành một công trình về gia phả học là cụ Dã Lan Nguyễn Đức Dụ (1919 –
2001) với cuốn Gia phả khảo luận và thực hành được xuất bản năm 1972. Cuốn
sách đã trình bày một cách có căn cứ khoa học, lịch sử ra đời và phát triển của
ngành khảo cổ học trên thế giới cũng như trong nước. Từ đó nhận xét cái chung và
cái riêng và đưa gia phả Việt Nam vào guồng quay của gia phả thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc lập gia phả đối với dòng họ cũng
như đất nước, năm 1992, Trung tâm nghiên cứu và thực hành gia phả thành phố Hồ
Chí Minh đã được thành lập, lúc đầu mang tên Nhóm nghiên cứu và Thực hành gia
phả thành phổ Hồ Chí Minh với trưởng nhóm là Võ Ngọc An. Trải qua nhiều năm

hoạt động, Trung tâm nghiên cứu và thực hành gia phả thành phố Hồ Chí Minh đã
đóng góp nhiều bộ gia phả có tầm quan trọng to lớn trong lịch sử nói chung và lịch
sử gia phả Việt Nam nói riêng.
III. Gia phả Việt Nam ngày nay
Hiện nay, gia phả học Việt Nam đang được quan tâm rộng rãi hơn. Rất nhiều
Trung tâm gia phả, các trang mạng được thành lập với mục đích giới thiệu cũng
như hướng dẫn mỗi người lập một bản gia phả cụ thể cho dòng họ của mình. Mươi
năm gần đây, việc nghiên cứu gia phả theo phương pháp khoa học trở thành những
chương trình có tổ chức liên ngành, liên quốc gia như “Chương trình nghiên cứu
gia phả Việt Nam” do Đại học Quốc gia Hà Nội đề xuất và chủ trì, cộng tác với các
nơi như Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO), Đại học Paris VII (Pháp), Đại học
Alberta (Canada). Với sự đóng góp kinh phí của EFEO, của Quỹ Ford và tổ chức
Đại học khối Pháp ngữ (AUF), nhiều bộ gia phả cổ có giá trị lần lượt được biên
dịch và xuất bản như Đinh tộc gia phả, Danh sách tổ tiên họ Lò Cầm ở Mai Sơn,
Lê thị gia phả, Vũ tộc thế hệ sự tích, Nguyễn gia phả ký, Mạc thị gia phả
Ở Sài Gòn, Trung tâm Nghiên cứu và thực hành gia phả thuộc Hội Khoa học
lịch sử thành phố sau nhiều năm lăn lộn cũng đã làm được nhiều công trình mang
14
tính chất phục hồi, truy tìm, xây dựng gia phả. Miền Nam đất mới, ít nhà có phả
hoặc giữ được gia phả, hiếm hoi có được thì cũng chỉ là bảng “Tông chi tông đồ”
ghi vắn tắt tên tuổi, ngày giỗ, nơi chôn cất ông bà vài đời, việc dựng phả cho
những dòng họ có nhân vật quan hệ với lịch sử vùng đất này là một mục tiêu được
lưu tâm.
Trong gần hai chục bộ gia phả mà Trung tâm Nghiên cứu và thực hành gia
phả đã thực hiện, có vài bộ đáng lưu ý như gia phả dòng họ danh tướng Nguyễn
Huỳnh Đức, gia phả dòng họ chí sĩ Nguyễn An Ninh và bà Trương Thị Sáu (vợ ông
Ninh), dịch và soạn tiếp tộc phả danh tướng Trương Minh Giảng, dịch bộ tộc phả
danh thần triều Nguyễn Trần Tiễn Thành
“Thấy người sang bắt quàng làm họ” không chỉ là thói nết ở bàn tiệc lễ đám,
mà thi thoảng còn chen vào công việc dựng lập gia phả, nhiều người quyền thế phú

hào thời nay chuộng mốt dòng dõi cao sang, sẵn sàng gắn danh thần, danh tướng
vô hàng tiên tổ. Thú chơi dối lòng này trước mắt tuy không gây thiệt hại gì cho
người khác nhưng về sau sử sách có cơ rối loạn.
15
C. Kết luận
Việc vấn tổ tầm tông là một nhu cầu tâm linh truyền đời của người Việt. Xét
về căn nguyên thì ghi chép gia phả là chuyện riêng của từng tộc họ, vì nhiều lý do,
người xưa kiêng kỵ việc cho người ngoài xem gia phả của dòng họ mình. Giữ gìn
gia phả là trách nhiệm thiêng liêng, nhiều cụ già kể rằng vào thời chiến tranh loạn
lạc Nam Bắc phân ly, người trưởng tộc, người con cả giữ gia phả ở đầu giường,
trong tay nải, ngộ cơ bất trắc thì quyển phả là một trong những món phải chịu rời
bỏ sau cùng.
Trong cảnh lưu lạc tha hương, quyển phả như là một báu vật của niềm mong
mỏi thân thích trùng phùng, quyển gia phả bên mình, người ta như còn được tinh
thần tổ tiên phù trợ, như được gần chốn quê hương nguồn cội.
Ngày nay, khi đời sống được cải thiện, “phú quý sinh lễ nghĩa”, mọi người đã
có nhiều điều kiện để nhìn lại dòng tộc mình hằng mong tìm lại cội nguồn – cái nôi
đã sản sinh ra mình ra gia tộc của mình. Và gia phả chính là phương tiện để ghi lại
dòng tộc đang hiện hữu trong tâm thức của mỗi chúng ta. Đó cũng là những nét
đẹp trong văn hoá truyền thống của người Việt Nam.
16
D. Tài liệu tham khảo
1. Trung tâm nghiên cứu và thực hành gia phả (2013), Gia phả học đại cương, Nxb.
Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh.
2. Dã Lan Nguyễn Đức Dụ (1972), Gia phả khảo luận và thực hành, Nxb. Văn hóa,
Hà Nội.
3. Ninh Quang Thăng, “Gia phả học và việc nghiên cứu gia phả ở Việt Nam”, xem
tại: />go/184/gia-pha-hoc-va-viec-nghien-cuu-gia-pha-o-viet-nam.html.
4. Văn Minh, “viết gia phả thế nào?”, xem tại: />dong-ho-ninh-la-xuyen-cham-khac-go/184/gia-pha-hoc-va-viec-nghien-cuu-gia-
pha-o-viet-nam.html.

5. TS. Nguyễn Văn Hoa, “Bước đầu giải mã gia phả khắc đá ở Việt Nam”, xem tại:
/>17

×