Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

vấn đề kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức nho giáo trong tư tưởng đạo đức hồ chí minh (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.2 KB, 24 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh không chỉ để lại cho dân tộc ta một sự nghiệp cách mạng vẻ
vang, một sự nghiệp văn hoá đồ sộ mà qua cuộc đời đầy gian khổ hy sinh, vô cùng
cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ của mình, Người còn để
lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản lớn, đó là tư tưởng và tấm gương đạo đức
sáng ngời của người cách mạng, tượng trưng cho những gì cao đẹp nhất trong tâm
hồn, ý chí, nhân cách Việt Nam.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một vĩ nhân, không chỉ ở tầm dân tộc,
mà ở tầm thời đại, tầm nhân loại. Trong diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm 77 năm thành
lập Đảng cộng sản Việt Nam, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã đánh giá: Chủ tịch
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đẹp nhất, tiêu biểu cho phẩm chất và khí phách
của dân tộc ta, Đảng ta. Giáo dục đạo đức, xây dựng lối sống tốt đẹp theo tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh vừa là yêu cầu cấp bách hiện nay, vừa là nhiệm vụ cơ bản
lâu dài. Có thể nói rằng, cả cuộc đời Hồ Chí Minh là một bài học lớn về đạo đức
cách mạng mà ngày nay mỗi người Việt Nam nói chung và mỗi cán bộ, đảng viên
nói riêng cần học tập và noi theo.
Hiện nay, Đảng ta xác định: sự xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức ở một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên biểu hiện tập trung ở tình trạng tham nhũng
đang làm băng hoại nền đạo đức xã hội, băng hoại truyền thống nhân văn của dân
tộc, đang là thách thức lớn nhất của công cuộc đổi mới đất nước, là nguy cơ đe doạ
sự sống còn của chế độ ta, đang làm mất thanh danh uy tín của Đảng, Nhà nước,
làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ xã hội. Bên cạnh đó
những thang bậc đạo đức xã hội đang có chiều hướng suy thoái, lối sống theo chủ
nghĩa cá nhân chưa bị ngăn chặn , trong bối cảnh đó đạo đức trong sáng, thanh tao
của Hồ Chí Minh lại càng có ý nghĩa thực tiễn vô cùng sâu sắc. Làm theo lời Bác
dạy và việc Bác làm, hơn lúc nào hết cần lắm ở mỗi cán bộ, đảng viên những việc
làm gương mẫu dù là nhỏ còn gấp ngàn lần những lời nói suông.
Nho giáo được truyền nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc, trải qua hơn hai
ngàn năm tồn tại và phát triển, nó đã được Việt Nam hoá theo tinh thần của người


Việt. Nho giáo đã trở thành một học thuyết đạo đức - chính trị xã hội ăn sâu vào
tâm tưởng của người Việt Nam. Những thang bậc đạo đức của Nho giáo, cùng với
thời gian được lớp lớp các thế hệ người Việt Nam tiếp thu và phát triển.
Học thuyết Nho giáo đã đến với Hồ Chí Minh trong diện mạo hoàn chỉnh của
một hệ tư tưởng chính trị - đạo đức đã được Việt hoá. Hồ Chí Minh là người ý thức
hơn ai hết sự gắn bó của Nho giáo trong đời sống của người Việt. Sinh ra trong
một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, tư tưởng Nho giáo là hệ tư tưởng sâu sắc về
lòng nhân ái, đã thấm nhuần vào Hồ Chí Minh từ tấm bé, hình thành nên ở Hồ Chí
Minh một trật tự gia phong, một kỷ cương xã hội, một tinh thần thượng quốc,
thương dân. Những tư tưởng đạo đức về: Nhân, Nghĩa, Lễ , Trí, Tín, Trung, Hiếu,
Cần, Kiệm, Liêm, Chính đã được Hồ Chí Minh tiếp thu, phát triển và trở thành
chuẩn mực sống của Người.
2
Nghiên cứu về vấn đề này, chúng ta nhận thấy, trong nhiều tác phẩm, bài nói,
bài viết của Hồ Chí Minh, dấu ấn Nho giáo hiện lên rất đậm nét. Hồ Chí Minh đã
có thái độ như thế nào đối với Nho giáo? Với tinh thần Hồ Chí Minh, chúng ta có
thể tiếp thu được những nhân tố tích cực nào của đạo đức Nho giáo trong sự
nghiệp đổi mới hôm nay? Với tinh thần Hồ Chí Minh, những phạm trù đạo đức cơ
bản của Nho giáo có ý nghĩa lý luận và thực tiễn như thế nào đối với việc giáo dục
đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay?
Bản thân tác giả nhận thấy đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng, mang
tính thời sự cấp thiết trong việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Cũng
bởi ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề này nên tác giả chọn:
“Vấ n đề kế thừ a, phát triể n mộ t số phạ m trù cơ bả n củ a đạ o đứ c Nho giáo
trong tư tư ở ng đạ o đứ c Hồ Chí Minh” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mụ c đích nghiên cứ u
- Phân tích sự kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho
giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, từ đó rút ra ý nghĩa lý luận và thực tiễn
của việc kế thừa, phát triển đó đối với việc giáo dục đạo đức, lối sống cho đội ngũ

cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệ m vụ nghiên cứ u
- Tổng quan các công trình nghiên cứu về đạo đức Nho giáo; các công trình
nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và sự kế thừa, phát triển đạo đức
Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Phân tích, làm rõ một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo ở Trung
Quốc và Việt Nam.
- Phân tích, làm rõ những yếu tố ảnh hưởng và nội dung chủ yếu của việc kế
thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh.
- Phân tích ý nghĩa rút ra từ việc kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản
của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với việc giáo dục
đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đố i tư ợ ng nghiên cứ u
Sự kế thừa, phát triển số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
3.2. Phạ m vi nghiên cứ u
Đạo đức Nho giáo là một hệ thống đồ sộ và phong phú, trong luận án chỉ tập
trung phân tích những phạm trù đạo đức tiêu biểu được Hồ Chí Minh kế thừa, phát
triển như: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Trung, Hiếu, Cần, Kiệm, Liêm, Chính và ý
nghĩa của những phạm trù đó đối với việc giáo dục đạo đức, lối sống cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1 Cơ sở lý luậ n củ a luậ n án
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước về đạo
3
đức và về việc kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại cùng những giá trị
truyền thống của dân tộc; đồng thời luận án cũng kế thừa có chọn lọc kết quả các

công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã công bố liên quan tới đề tài.
4.2. Phư ơ ng pháp nghiên cứ u củ a luậ n án
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử mác xít, đặc biệt là các phương pháp
lịch sử - lôgic, so sánh - đối chiếu, phân tích - tổng hợp, khái quát hoá … để hoàn
thành mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án hệ thống hóa lại các phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo có ảnh
hưởng sâu sắc đến tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Luận án chỉ ra được sự kế thừa, phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với
đạo đức Nho giáo và cách cách tiếp cận khoa học của Người.
- Luận án nêu được ý nghĩa rút ra từ việc kế thừa, phát triển một số phạm trù
cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với việc
giáo dục đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Những vấn đề luận án đề cập, giải quyết góp phần làm sáng tỏ việc nghiên
cứu về tư tưởng đạo đức Nho giáo và sự ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Luận án sau khi hoàn thiện có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
công tác nghiên cứu và giảng dạy về đạo đức Nho giáo và đạo đức Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận án gồm 4 chương, 8 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Nh󰗰ng công trình nghiên c󰗪u v󰗂 󰖢o 󰗪c Nho giáo
Nho giáo ra đời trong bối cảnh đất nước Trung Hoa có nhiều biến động và tự
thân Nho giáo đã trải qua nhiều bước thăng trầm trong lịch sử. Mục đích của Nho
giáo là mong muốn xây dựng một xã hội thái bình, thịnh trị có trật tự kỷ cương, nề

nếp. Nho giáo chủ trương lấy Đức trị làm phương thức cai quản đất nước, vì vậy,
Nho giáo đã xây dựng được hệ thống các phạm trù đạo đức, đề cao việc tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức, xây dựng các mối quan hệ phù hợp với những chuẩn mực đạo
đức. Đạo đức Nho giáo, bên cạnh một số yếu tố tích cực, vẫn chứa đựng không ít
những yếu tố tiêu cực mà cho đến nay còn ảnh hưởng khá nặng nề trong nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội nước ta. Trong nhiều năm trở lại đây, Nho giáo và đạo đức
Nho giáo đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, được đánh dấu bởi các công
trình nghiên cứu sau: “Khổng học đăng” của Phan Bội Châu, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội, 1998; “Nho giáo” của Trần Trọng Kim, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
4
Nội, 2001; “Khổng giáo và phê bình tiểu luận” của Đào Duy Anh; “Tư tưởng
phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu” của Cao Xuân Huy, Nxb Văn học,
1995 (do Nguyễn Huệ Chi soạn, chú và giới thiệu); “Bàn về đạo Nho” của Nguyễn
Khắc Viện, Nxb Thế giới mới, 1993; “Các bài giảng về tư tưởng phương Đông”
của Trần Đình Hượu; “Nho giáo xưa và nay” của Vũ Khiêu (chủ biên), Nxb Khoa
học Xã hội, HN 1991; “Nho giáo tại Việt Nam” của Lê Sỹ Thắng (chủ biên), Nxb
Khoa học Xã hội, HN, 1994; “Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam” của GS. Phan
Đại Doãn (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1999,
Nhìn chung, các công trình đã luận giải về nguồn gốc, nội dung của Nho giáo
và hệ thống những yêu cầu đạo đức của Nho giáo; bên cạnh việc phê phán những
ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng, các
công trình trên đã đặt ra vấn đề kế thừa và phát triển những giá trị tích cực của nó
nhằm khắc phục những mặt tiêu cực, góp phần xây dựng đạo đức mới ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên nội dung của việc kế thừa đó mới chỉ dừng lại
ở những nghiên cứu bước đầu. Đây là những tư liệu có giá trị tham khảo để tác giả
kế thừa, khái quát, làm cơ sở về mặt lý luận cho việc triển khai, phân tích các nội
dung nghiên cứu của luận án.
1.2. Những công trình nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và
sự kế thừa, phát triển đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và ảnh hưởng của đạo đức

Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đã nhiều tác giả bàn luận đến, có
thể kể đến những công trình tiêu biểu sau đây: “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
truyền thống dân tộc và nhân loại”, của Vũ Khiêu (chủ biên), Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 1993; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, của Thành Duy (chủ
biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; “Nho giáo và phát triển ở Việt Nam”
của Vũ Khiêu, Nxb Khoa học Xã hội, HN, 1997; “Sự hình thành về cơ bản tư
tưởng Hồ Chí Minh”, của Trần Văn Giàu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 1997;
“Thử tìm mối quan hệ giữa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tư tưởng đạo đức
Nho giáo” của Nguyễn Bình Yên, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, Số 5, 1996; Luận
án tiến sĩ của Nguyễn Văn Bình (2001) với đề tài “Quan niệm Nho giáo về các
mối quan hệ xã hội. Ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay”;
“Nâng cao đạo đức cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân” của Nguyễn Khánh Bật
(chủ nhiệm), Hoàng Trang, Trần Minh Trưởng (2004), Báo cáo tổng quan đề tài
KX 03.01; -“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, của Ban Tư tưởng Văn hóa
Trung ương, HN, 2005,
Mỗi công trình đều được các tác giả truyền tải những nội dung khác nhau về:
nguồn gốc hình thành và đặc điểm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; về Hồ Chí
Minh với các giá trị và tinh hoa đạo đức của nhân loại; về sự tiếp thu và vận dụng
những kinh nghiệm đạo đức Nho giáo của Hồ Chí Minh vào việc giáo dục đạo đức
và phát động tinh thần của nhân dân; về giá trị trường tồn của tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh và vận dụng tư tưởng đạo đức, tấm gương đạo đức của Người trong bối
cảnh xã hội hiện nay; Trên cơ sở những nghiên cứu của các học giả, luận án sẽ
5
tiếp tục phân tích, lý giải dưới góc độ triết học về sự kế thừa có chọn lọc một số
phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Những vấn đề luận án sẽ tiếp tục triển khai nghiên cứu:
Tổng quan các công trình nghiên cứu có thể thấy, cho đến nay, dưới góc độ
triết học, không có nhiều công trình nghiên cứu sâu và toàn diện về mặt lý luận vấn
đề kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh. Đặc biệt, chưa có các công trình nghiên cứu toàn diện, hay

các luận văn, luận án hướng vào luận bàn trực tiếp, phân tích, tìm hiểu, làm rõ một
cách có hệ thống tính khác biệt trong sự kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản
của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Trong khi đó, nghiên
cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và thực hành theo đạo đức của Người đã trở
thành nhiệm vụ thường xuyên do Đảng ta phát động sâu rộng trong Đảng cũng như
trong nhân dân. Vì vậy, rất cần thiết phải có nhiều hơn nữa các công trình nghiên
cứu chuyên sâu về sự kế thừa có chọn lọc và phát triển sáng tạo những tinh hoa
văn hóa nhân loại trong tư tưởng đạo đức của Người, mà những phạm trù đạo đức
Nho giáo là một trong những tinh hoa đó.
Trên cơ sở kế thừa những giá trị của các công trình đã công bố, luận án sẽ tiếp
tục triển khai nghiên cứu các nội dung sau:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo ở
Trung Quốc và Việt Nam.
Thứ hai, phân tích, làm rõ những yếu tố ảnh hưởng và nội dung chủ yếu của
việc kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh. Từ đó chỉ ra sự khác biệt trong việc kế thừa, phát triển một số
phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức của Người.
Thứ ba, phân tích ý nghĩa rút ra từ việc kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ
bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với việc giáo
dục đức, lối sống cho cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay
Tiểu kết chương 1
Cho đến nay, dưới góc độ triết học, không có nhiều công trình nghiên cứu sâu
và toàn diện về mặt lý luận vấn đề kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của
đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đặc biệt, chưa có các
công trình nghiên cứu lớn, hay các luận văn, luận án hướng vào luận bàn trực tiếp,
phân tích, tìm hiểu, làm rõ một cách có hệ thống tính khác biệt trong sự kế thừa,
phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh. Trong khi đó, nghiên cứu về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và thực
hành theo đạo đức của Người đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên do Đảng ta phát
động sâu rộng trong Đảng cũng như trong nhân dân. Vì vậy, rất cần thiết phải có

nhiều hơn nữa các công trình nghiên cứu chuyên sâu về sự kế thừa có chọn lọc và
phát triển sáng tạo những tinh hoa văn hóa nhân loại trong tư tưởng đạo đức của
Người, mà những phạm trù đạo đức Nho giáo là một trong những tinh hoa đó.
6
Chương 2
MỘT SỐ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO
2.1. N󰗚i dung m󰗚t s󰗒 ph󰖢m trù c b󰖤n c󰗨a 󰖢o 󰗪c Nho giáo 󰗠 Trung Qu󰗒c
Nho giáo đã xây dựng được một cách có hệ thống các phạm trù đạo đức
rất đa dạng và tương đối hoàn chỉnh về Cương Thường, tam tòng tứ đức, tiết
hạnh Trong phạm vi luận án này, tác giả chỉ bàn đến một số phạm trù đạo đức
cơ bản sau:
2.1.1. Phạ m trù Nhân, Nghĩa , Lễ , Trí, Tín
Phạm trù Nhân: Trong đạo đức làm người, đức Nhân được Khổng Tử đặt lên
hàng đầu và coi là tiêu chuẩn cao nhất. Đức nhân hay con người có đức nhân được
biểu hiện bởi: Nhân cách: đó là phải xác định được chủ thể của mình trong mối
quan hệ xã hội, phát huy được phẩm chất chủ thể ấy đối với mọi người xung
quanh, đó là xác định tư cách của người có đức nhân; Nhân ái: Là lòng thương yêu
người. Thân ái yêu thương người như thể thương thân, mình thành công cũng giúp
cho người thành công, điều gì mình không muốn thì đừng bắt người khác phải
muốn; Nhân an: Là lòng yêu thương người phải tự nhiên không khiên cưỡng. Nhân
và an quan hệ mật thiết với nhau. An là cái đức tính tốt của người có nhân, lúc nào
cũng tự nhiên, làm việc gì cũng thung dung trúng đạo, ứng ra làm việc gì cũng phù
hợp với tính thiện. Có an mới nhân được; Nhân hậu: Là chung thuỷ, trước sau như
một, đã hứa là phải giúp, phải thực hiện.
Nho giáo dạy Nhân là gốc lớn của sự sinh hoá trong trời đất và lấy Nhân làm
cái tông chỉ duy nhất trong học thuyết của mình. Nho giáo dạy Nhân là gốc mở đầu
của đạo đức. Điều trọng yếu cốt ở đức nhân. Nhân là đích tu dưỡng quan trọng. Ai
đạt bậc nhân thì làm việc gì cũng được lòng người, có ích cho đời. Vì đức Nhân to
lớn và sâu xa như vậy, nên cái học của Nho giáo chủ yếu ở đức Nhân. Bởi bao
nhiêu hành vi đạo đức là căn bản ở Nhân cả.

Phạ m trù Nghĩa: Theo quan niệm của Nho giáo, Nghĩa là hợp lý, hợp với
đạo nghĩa. Nghĩa bao gồm sự trả nghĩa, trả cái ân huệ mà người khác đã vô tư giúp
đỡ mình qua hoạn nạn, không tiếc thân mình giữ lấy điều nghĩa với chủ tướng, với
bạn bè, với nghĩa cả. Nghĩa gắn liền với Nhân. Nhân thể hiện tình cảm sâu sắc, thì
Nghĩa là nghĩa vụ thực hiện tình cảm đó; Nghĩa gắn liền với lợi, người ta sinh ra
sống bằng nghĩa và lợi, lợi để nuôi thân thể, nghĩa để nuôi cái tâm. Những điều
cản trở làm việc nghĩa là phú quý, uy lực, bần tiện. Nên muốn thực hiện điều nghĩa
thì phải phú quý bất chính không ham muốn, uy vũ không khuất phục, không vì
nghèo khó mà bị chuyển lay.
Phạ m trù Lễ : Lễ đóng vai trò quan trọng trong việc đưa nhân nghĩa vào
trong cuộc sống hàng ngày, đưa nhân nghĩa trở thành quy tắc, đi sâu vào tâm lý
con người, giáo dục con người tự nguyện tuân theo để duy trì kỷ cương xã hội. Lễ
tiết là qui củ, chuẩn mực của con người. Không nên khiếm khuyết cũng không nên
thái quá; Lễ là toàn bộ những quy tắc ứng xử, mang tính nghi thức và nội dung văn
hoá mà Nho giáo đòi hỏi mọi người nhất thiết phải tuân theo. Trong xã hội Nho
7
giáo, những hoạt động lễ coi như những hành vi chính trị, vì thế gọi là Lễ trị. Lễ trị
có tác dụng nhiều mặt đối với con người: Lễ gây tình cảm thiện mỹ; Lễ tiết chế
sống có đức độ; Lễ giúp con người giữ đúng đạo phải trái, trật tự trên dưới; Lễ còn
dạy con người định rõ thân sơ, quyết sự hiềm nghi, làm sáng rõ phải trái, biện bạch
những điều bí ẩn đề phòng giữ cho dân, trên dưới có bậc, làm cho dân có lòng
khoan dung, nhường nhịn
Lễ của Nho giáo là đạo lý, là phép tắc, là hành vi chính trị, qua đó giúp con
người duy trì, phân rõ tôn ti trật tự trong gia đình, ngoài xã hội, quốc gia. Sự giáo
hoá của lễ có ý nghĩa rất lớn trong xã hội Nho giáo xưa, ngăn cấm điều lâm nguy
khi chưa xảy ra, giúp con người gần điều thiện. Xét về ý nghĩa tích cực, Lễ đã đạt
tới mức độ sâu sắc, đã trở thành tiêu chuẩn đánh giá và thước đo phẩm giá của con
người. Sự giáo dục con người theo Lễ của Nho giáo đã tạo thành hiệu ứng xã hội
rộng lớn, giúp con người biết quý trọng lễ và khinh ghét người vô lễ. Xét về ý
nghĩa tiêu cực, Lễ là sợi dây ràng buộc, làm cho suy nghĩ và hành động của con

người trở nên cứng nhắc theo một khuôn phép cũ, bất di bất dịch và do đó Lễ kìm
hãm sự phát triển của xã hội, làm cho xã hội trở nên trì trệ.
Phạ m trù Trí: Khổng Tử quan niệm: Trí là sự minh mẫn, sáng suốt trong con
người để phân biệt được kẻ chính, người tà. Muốn có Trí thì phải học vì Trí không
phải tự nhiên mà có, nó là một quá trình không ngừng học hỏi. Theo sự phát triển
sau này của Nho giáo, Trí đã có sự phân biệt rạch ròi giữa các tầng lớp người trong
xã hội. Sự phân biệt này mang màu sắc tiêu cực, nó nhằm trọng dụng cái trí của
tầng lớp có địa vị, quyền hành trong xã hội như bậc thánh nhân, người quân tử, kẻ
sĩ. Còn cái trí của những tầng lớp dưới mà Tuân Tử gọi là kẻ tiểu nhân, đứa dịch
phu là cái trí không được trọng dụng. Với nghĩa này, Trí của Nho giáo còn nhiều
hạn chế.
Phạ m trù Tín: Theo thứ tự thì phạm trù Tín được xếp xuống hàng thứ năm
trong đạo đức Nho giáo, song không phải vì thế mà hạ thấp chữ tín. Bởi đức tín là
hệ quả của bốn đức trên. Có nhân, nghĩa, lễ, trí mới gây được lòng tin, mới thực
hiện được chữ tín. Người không có đức tín thì mất hết đức nhân, nghĩa, lễ, trí, là
người bỏ đi. Nội dung của phạm trù Tín, theo Khổng Tử là phải có lòng tin tuyệt
đối vào chính đạo, vào đạo lý của thánh hiền, vào mối quan hệ giữa vua tôi, cha
con, chồng vợ, anh em, bằng hữu. Muốn thực hiện đức Tín phải giữ đúng lễ, chính
danh, đủ lợi. Đúng lễ là đủ hiểu biết để thực hiện điều nhân nghĩa. Chính danh là
quan hệ đối xử đúng phân vị.
2.1.2. Phạ m trù Trung, Hiế u
Phạ m trù Trung: Với nghĩa ban đầu của đạo đức Nho giáo, Trung là cái gốc
của trời đất, là cái gốc lớn nhất của thiên hạ, con người ta sinh ra ai cũng bẩm sinh
có cái “trung” để làm tính thường. Theo được đạo trung là rất khó, mỗi người phải
giữ cái tâm của mình cho tinh thuần và chuyên nhất thì mới có thể giữ được. Cùng
với sự phát triển của lịch sử, phạm trù Trung ngày càng được mở rộng. Nho giáo
coi “Tam cương, Ngũ thường” là nội dung cốt lõi của Trung. Từ quan niệm “đâu
cũng là đất của vua, ai cũng là dân của vua”, đất nước chỉ là vật sở hữu của vua.
8
Nho giáo cho rằng: trung với vua là yêu nước. Hay nói cách khác, muốn thể hiện

lòng yêu nước, trước hết phải trung với vua, phục tùng vua. Nhà vua và triều thần
đều cần đến người bề tôi tuyệt đối phục tùng vua, trung thành với vua một cách vô
điều kiện theo kiểu “quân vi thần cương” (nhà vua là cương lĩnh của bề tôi). Trung
ở đây là tuyệt đối nghe theo, phục tùng và trung thành với vua mà mình theo. Tính
chất trung đó được đạo đức và pháp luật xác nhận và trở thành cơ sở tư tưởng cho
việc đánh giá đạo đức và xây dựng pháp luật, đảm bảo sự trung thành với một ông
vua. Mục đích cao nhất của Trung là nhằm phục vụ cho lợi ích của triều đại phong
kiến, phục vụ cho quyền lợi của vua quan trong xã hội đó. Nó không mang lại
quyền lợi cho nhân dân và đất nước. Đó chính là hạn chế của Nho giáo về “trung”.
Bên cạnh nghĩa cơ bản trên, Trung của nho giáo còn được thể hiện ở nghĩa
trung thứ. Trung : là hết lòng hết dạ, thành tâm thật ý. Thứ: là suy lòng ta ra lòng
người, thương mình như thương người, việc gì mình không muốn chớ làm cho
người khác. Với nghĩa trên, Trung của nho giáo lại mang sắc thái tích cực, có đóng
góp nhất định cho xã hội sau này.
Phạ m trù Hiế u: Nho giáo quan niệm, cái gốc của đạo nhân là ái và kính, bởi
vậy Nho giáo lấy ái và kính làm cơ sở cho chữ Hiếu. Theo đạo đức Nho giáo, Hiếu
có nội dung nhiều mặt. Trước hết, trong gia đình con cái phải có trách nhiệm
phụng dưỡng bố mẹ khi về già và tế tự khi bố mẹ mất. Tiếp đến, người con trong
gia đình phải có khả năng và điều kiện để kế tục sự nghiệp của cha. Có như thế
mới là nhà có phúc. Cha có con trai thì con cũng phải có con trai, nghĩa là ông phải
có cháu trai, nếu không được như thế là nhà vô phúc và người con trai đó bị coi là
bất hiếu đối với cha mẹ. Điều này thể hiện, do quá chú trọng đến dòng dõi tông
tộc, cộng với sự quá kém cỏi trong việc hiểu biết sinh lý con người nên có nhận
định mang tính hà khắc, chủ quan.Thứ nữa, phận làm con trong gia đình không
được phép làm trái lời cha mẹ. Trong sự hiếu của đạo đức Nho giáo, có hai điều
được đặc biệt chú ý đó là vô vi và vô cải. Vô vi là xử cảnh thường, thờ cha mẹ
không trái lễ. Vô cải là xử cảnh biến, là không đổi ngay cái đạo của cha mẹ. Cả hai
điều ấy, đều hàm ý là phục tùng, nhưng là phục tùng theo đạo phải, chứ không
phục tùng một cách thụ động, không biết phân biệt điều hay, lẽ phải.
Như vậy, về cơ bản, nội dung phạm trù Hiếu trong đạo đức Nho giáo mang

một ý nghĩa tích cực, bắt nguồn từ tình cảm xa xưa nhất đó là phận làm con phải có
hiếu với cha mẹ. Đó cũng là truyền thống đạo đức phù hợp với mọi dân tộc, trước
hết là các dân tộc phương Đông trong đó có Việt Nam.
2.1.3. Phạ m trù Cầ n, Kiệ m, Liêm, Chính
Không giống như các phạm trù đạo đức Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Trung,
Hiếu, được Nho giáo đặc biệt bàn luận nhiều. Cụm phạm trù đạo đức Cần, Kiệm,
Liêm, Chính chỉ xuất hiện lẻ tẻ trong các tác phẩm của nhà nho.
Về Cầ n: được đề cập tới với hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là tận tâm, tận lực.
Nghĩa thứ hai là đối xử trọng hậu. Cần tức là “làm việc, làm lụng”, là chỉ sự siêng
năng, chăm chỉ, làm việc với năng suất cao. Cần là đặc tính cơ bản nhất, phổ biến
nhất của loài người. Những ai xa cách với cần, khinh thị chữ cần, quay lưng với
9
cần thì những kẻ ấy cũng sẽ đi ngược với đức tính căn bản của loài người. Cần
trong lao động sản xuất, xưa gọi là “cần lao”; Cần trong việc học hành xưa gọi là
“cần học”; Cần trong việc hành chính, cai trị, xưa gọi là “cần chính”; Cần trong
nghề nghiệp, chức trách, xưa gọi là “cần nghiệp”.
Về Kiệ m: phạm trù Kiệm trong thư tịch cổ vốn có nghĩa là “ước”, tiết chế để
không lãng phí. Sách “Nhan thị gia huấn” nói: kiệm là lấy dè sẻn làm điều lễ.
Người biết giữ mình cẩn trọng, tiết kiệm tiêu dùng để nuôi dưỡng cha mẹ, như thế
là biết đạo hiếu đễ, biết trọng lễ nghĩa. Nhìn chung, Nho giáo khi bàn về việc sử
dụng tiền của thường dạy cho con người phải kiệm, ước.
Về Liêm: Nho giáo quan niệm Liêm là một phẩm chất cần có của người làm
quan, không dựa vào quyền thế, địa vị để bòn rút của công và vơ vét của dân.
Về Chính: Chính nghĩa là thẳng, là chính trực, chính đáng, đúng với chức vụ,
không thiên lệch.
2.2. N󰗚i dung m󰗚t s󰗒 pham trù c b󰖤n c󰗨a 󰖢o 󰗪c Nho giáo 󰗠 Vi󰗈t Nam
2.2.1. Nhữ ng nhân tố chủ yế u làm biế n đổ i nộ i dung mộ t số phạ m trù cơ
bả n củ a đạ o đứ c Nho giáo ở Việ t Nam
Thứ nhất, truyền thống lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam thể hiện qua
lăng kính Tổ quốc và làng xã.

Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc, bằng con đường
xâm lược và giao lưu văn hoá, kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc. Khi được
truyền bá vào Việt Nam, Nho giáo không còn ở dạng nguyên sơ thuở ban đầu, nó
đã trải qua một quá trình biến đổi, được Đổng Trọng Thư đời Hán cải tạo cho thích
hợp với bộ máy Nhà nước quan liêu phong kiến tại Việt Nam lúc bấy giờ. Khi vào
tới Việt Nam, Nho giáo đã chịu sự chi phối bởi một loạt các yếu tố của nền văn hóa
cổ truyền Việt Nam với đặc trưng văn hóa xóm làng và văn hóa dân gian. Tất cả
những nét văn hóa truyền thống đó đã tạo nên một tinh thần dân tộc riêng biệt của
người Việt Nam. Tinh thần dân tộc của người Việt, đóng vai trò chủ yếu trong việc
bảo vệ dân tộc khỏi bị họa diệt vong, bảo vệ nền văn hóa dân tộc để nó giữ được
sắc thái riêng, không để cho nền văn hóa nào thay thế.
Xuất phát từ tinh thần dân tộc trên, trong quan hệ xã hội, cha ông ta có những
quan niệm riêng không hoàn toàn giống đạo lý của Nho giáo. Nếu bóc tách vỏ Nho
giáo phủ bên ngoài để tìm cái cốt lõi bên trong thì chúng ta dễ nhận thấy trong mối
quan hệ như cha me, anh em, vợ chồng, làng xóm… người Việt Nam chúng ta lấy
tình thương yêu làm cơ sở cho cách xử thế ở đời và coi đó là triết lý sống. Người
Việt thường khen ngợi và đề cao những tấm gương vì nghĩa, lên án những kẻ ác
nhân, không tha thứ cho kẻ bạc tình, bạc nghĩa. Tình thương yêu con người đã trở
thành nếp nghĩ, hành động phổ biến của người dân Việt.
Thứ hai, cơ tầng bản địa Đông Nam Á với nền văn minh nông nghiệp lúa
nước, trọng tĩnh, lấy gia đình là hạt nhân.
Nho giáo khi vào Việt Nam đã chịu sự tiếp biến của cơ tầng bản địa Đông
Nam Á của người Việt. Nếu làm phép so sánh nhỏ, ta sẽ nhận thấy: nước Việt Nam
xưa nằm ở lưu vực sông Hồng, khí hậu nhiệt đới gió mùa, đất phù sa nâu do sông
10
bồi, nông nghiệp tưới nước, ăn cơm xôi, ở nhà sàn, đi lại bằng thuyền bè…, với
đặc trưng là nền văn minh nông nghiệp lúa nước, trọng tĩnh, lấy gia đình là hạt
nhân và mang tinh thần nhân văn sâu sắc. Còn Trung Quốc nằm ở lưu vực sông
Hoàng Hà, khí hậu đại lục, mùa đông băng giá, đất hoàng thổ do gió cuốn, đất
nông nghiệp nửa khô hạn nên nông nghiệp trồng khô, ăn bánh cháo, ở nhà hầm, đi

lại trên bộ bằng ngựa…, với đặc trưng là văn minh du mục, trọng động và mang
tính quyết liệt hơn.
Nếu hiểu văn hóa là môi trường được con người thích nghi và biến đổi thì tính
sông nước được xem là một đặc trưng của văn hóa Việt Nam. Từ xa xưa, nơi ở của
người Việt là miền sông nước, gắn trồng trọt với chài lưới, thuyền bè đã trở thành
một phương tiện giao thông quan trọng trong nếp sinh hoạt hàng ngày. Làm ruộng,
trồng lúa thì mối quan tâm hàng đầu cũng là nước. Thế cho nên, tâm thức người
Việt, từ lâu đã không thể không bận lòng vì nước. Người Việt đã đồng nhất không
gian xã hội, cộng đồng lãnh thổ, Tổ quốc với nước. Nước, qua quá trình ‘‘nghiệm
sinh và nội tâm hóa” của người Việt đã trở thành lòng khoan dung, đại lượng như
cách ứng xử với kẻ thù của những vị vua lịch sử Việt Nam. Triết lý sống ‘‘nước
chảy đá mòn ” là lý giải biện chứng cho: nhu có thể thắng cương, yếu có thể chống
mạnh, ít có thể địch nhiều… đó chính là bản sắc văn hóa Việt. Bản sắc văn hóa này
là một trong những nhân tố làm thay đổi nội dung của những phạm trù đạo đức cơ
bản của Nho giáo mà tác giả sẽ trình bày ở phần sau.
Thứ ba, chủ nghĩa yêu nước (tư tưởng yêu nước) Việt Nam.
Đối với dân tộc Việt Nam, yêu nước là tư tưởng hàng đầu như sợi chỉ đỏ
xuyên suốt lịch sử dân tộc. Từ truyền thuyết Thánh Gióng đến phong trào Cần
Vương và các cuộc cách mạng sau này, tư tưởng yêu nước luôn chói sáng không
bao giờ tắt. Tư tưởng yêu nước Việt Nam luôn được bảo tồn, củng cố, không để bị
sát nhập hay đồng hoá bởi dân tộc nào, dù dân tộc đó có nền văn hoá lớn, từng xâm
lược Việt Nam nhiều lần và thống trị rất lâu dài nhiều thế kỷ. Tư tưởng yêu nước
Việt Nam là tư tưởng chiến đấu hết sức kiên trì, lấy yếu thắng mạnh, lấy ít thắng
nhiều, lấy nhân nghĩa thắng hung tàn Tư tưởng yêu nước Việt Nam là hiếu sinh
không hiếu sát, kiên quyết chiến tranh để nhằm mục đích hoà bình, xây dựng đất
nước. Tư tưởng yêu nước Việt Nam là “lấy dân làm gốc”, thời chiến thì nhờ vào
nhân dân để bảo vệ nền độc lập, thời bình thì nuôi dưỡng sức dân, làm cho thôn
cùng xóm vắng không có tiếng oán hờn. Tình yêu nước của nhân dân Việt Nam
giản dị như không khí và ánh sáng. Nó thấm vào máu thịt của mỗi người. Suốt mấy
nghìn năm lịch sử, tinh thần yêu nước được coi là tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá

đạo đức của con người.
Bởi vậy, khi Nho giáo vào Việt Nam, văn hoá Việt Nam đã tiếp biến Nho
giáo Trung Quốc, kết hợp với văn hoá Việt hình thành một loại Nho giáo lấy
“Nghĩa” làm trọng. Chính vì được sinh ra trong một hoàn cảnh như vậy, cho nên
người Việt đề cao chữ Nghĩa, là một phạm trù đạo đức của Nho giáo, trong đó
nhấn mạnh sự đoàn kết tương thân tương ái và nhấn mạnh cả kỷ cương trong quan
hệ giữa cộng đồng và cá nhân.
11
2.2.2. Biể u hiệ n đặ c thù củ a mộ t số phạ m trù cơ bả n trong đạ o đứ c Nho
giáo ở Việ t Nam
Lễ giáo của phong kiến nước ngoài cùng với những lời răn dạy của Khổng
Tử khi đi vào đời sống của nhân dân không thể không gặp những phản ứng gay gắt
ban đầu. Với những truyền thống lâu đời của mình trong dựng nước và giữ nước,
nhân dân ta đã chống lại Nho giáo, đặc biệt là ở tinh thần nô dịch, tính chất phản
nhân đạo của nó.
Luận án đi vào phân tích những quan điểm về Nhân, Nghĩa, Trung, Hiếu…
của ba nhà nho đại diện cho tầng lớp nho sĩ Việt xưa: Nguyễn Trãi, Bùi Huy Bích,
Nguyễn Đình Chiểu:
Nếu Nhân, Nghĩa của Khổng Tử được thể hiện trong mối quan hệ vua tôi,
cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè, ở nghĩa vụ trung thành tuyệt đối trong quan hệ
vua tôi, ở nghĩa vụ tôn thờ một cách mù quáng vị Hoàng đế của mình - người thay
trời mà thống trị nhân dân cả nước trong thiên hạ, thì dân tộc Việt Nam không thừa
nhận nhân nghĩa theo kiểu ấy. Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh yêu cầu đầu tiên của
nhân nghĩa là yên dân, là thương dân và giúp dân trừ bạo. Nhân nghĩa của Nho
giáo là đạo đức nhân nghĩa chung chung (nhân là yêu người, nghĩa là điều nên
làm). Nhân nghĩa khi vào Việt Nam đã được Nguyễn Trãi xác định rõ đối tượng và
yêu cầu. Đối tượng của ‘‘nhân” ở đây là quần chúng dân đen, con đỏ đang quằn
quại trong cảnh nước mất nhà tan. Yêu cầu của ‘‘nghĩa” ở đây là hành động chiến
đấu để giải phóng đất nước đang bị quân thù giày xéo để trả nợ nước đền ơn dân.
Bên cạnh quan niệm về nhân nghĩa, Nguyễn Trãi cũng nói rất nhiều về trung

hiếu, về nghĩa quân thần và đạo phụ tử. Trung hiếu là lẽ sống của Nguyễn Trãi, là
phẩm chất ‘‘mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen”. Ở Khổng giáo, trung là trung
với ông vua của mình, trung với dòng họ nhà vua ấy. Nguyễn Trãi với truyền thống
dân tộc không bao giờ quan niệm trung là trung với một dòng họ. Tổ quốc theo
ông không phải của riêng một triều đại mà của toàn thể nhân dân.
Đến Bùi Huy Bích - một nhà Nho của thế kỷ 18, được bồi dưỡng về Nho
giáo từ thủa lọt lòng, quan niệm về Hiếu là nghĩa vụ của con cháu đối với việc thờ
cúng và giữ gìn mồ mả của tổ tiên. Khi đã thờ cúng là phải có lòng thành kính.
Trong các tác phẩm của mình ông nói nhiều về đạo Hiếu trong gia đình để răn dạy
con cháu những đức tính tốt đẹp, những tấm gương Trung Hiếu ,Tiết Nghĩa của tổ
tiên; về Trung: Ông giữ trọn vẹn tấm lòng thần tử với vua Lê chúa Trịnh thời bấy
giờ. Cũng như hầu hết các nhà Nho thời bấy giờ, Bùi Huy Bích luôn một lòng thờ
vua và kính chúa. Suốt cuộc đời mình ông một lòng giữ trọn chữ Trung với chúa
và lo cho đất nước được thanh bình, nhân dân được ấm no.
Ở Nguyễn Đình Chiểu lại quan niệm: Nhân là lòng thương người, là tinh
thần vị tha, là sự quan tâm đến đời sống của nhân dân. Còn Nghĩa được hiểu có
liên hệ với vấn đề trách nhiệm và hành vi đạo đức nhằm bảo vệ trật tự xã hội đã
được xác định để duy trì cuộc sống yên lành của mọi người. Nguyễn Đình Chiểu
đã nhào nặn lại khái niệm nhân nghĩa của Nho giáo và gạt bỏ đi những thành phần
tiêu cực. Ông đã làm cho những khái niệm ấy biến đổi về mặt nội dung cho phù
12
hợp với yêu cầu vận dụng của mình. Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào khái niệm
nhân, nghĩa những yếu tố lành mạnh từ trong cuộc sống của nhân dân. Đối với
Nguyễn Đình Chiểu, khái niệm nhân không chỉ được giới hạn trong một số đẳng
cấp bên trên như Khổng Tử. Nhân ở ông đề cập đến tất cả các tầng lớp nhân dân
trong xã hội.
Ngoài khái niệm nhân nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu còn đề cập đến các phạm
trù khác của Nho giáo như Trung, Hiếu, tiết hạnh… Trung trong quan niệm của
Nguyễn Đình Chiểu đã có những cải biến nhằm đáp ứng trước yêu cầu dân chủ và
dân tộc của nhân dân Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ 19. Ông cho rằng đạo trung quân

là cần thiết cho mọi người. Nhưng ông đòi hỏi một ông vua được mọi người tôn
thờ phải là ông vua hiền tài, thương dân và yêu nước. Ông vua ấy phải tượng trưng
cho hạnh phúc của nhân dân và nền tự chủ của đất nước. Nguyễn Đình Chiểu xuất
phát từ yêu cầu và khát vọng của nhân dân được sống hạnh phúc trong hòa bình và
độc lập để quy định vai trò và chức năng của một ông vua trong xã hội. Đó là điều
mà các nhà kinh điển của Nho giáo không thể có được. Trung theo quan niệm của
Nguyễn Đình Chiểu còn gắn liền với hiếu để cùng nêu lên những phẩm chất có liên
hệ với nhau của một con người. Qua sự vận dụng của ông, phạm trù Hiếu của Nho
giáo đã đỡ cứng nhắc và trở lên gần gũi với nhân dân. Hiếu ở ông là lòng biết ơn,
tôn kính cha mẹ, là trách nhiệm trông nom, chăm sóc cha mẹ với tất cả tình cảm
sâu nặng của người con.
Chịu ảnh hưởng của Nho giáo là một tất yếu đối với mọi người trí thức dưới
chế độ phong kiến, nhưng ở Nguyễn Đình Chiểu sự gắn bó thường xuyên với nhân
dân và truyền thống yêu nước của dân tộc đã đưa vào những phạm trù đạo đức Nho
giáo mà ông sử dụng một nội dung tích cực, thể hiện đạo lý làm người và những
giá trị đạo đức tốt đẹp của nhân dân ta.
Bên cạnh Nhân, Nghĩa, Trung, Hiếu, những phạm trù Lễ, Trí, Tín cũng được
các nhà nho Việt Nam tiếp thu và phát triển. Khi vào Việt Nam, Lễ của nho giáo
đã được các nhà nho Việt Nam hiểu: một mặt là để tổ chức xã hội, tổ chức cuộc
sống, một mặt là đạo đức, là ý thức, thái độ giữ gìn, tôn trọng nếp sống, kỷ cương,
những quy định lễ nghi, trật tự của xã hội.
Về Trí: Các nhà nho Việt Nam hiểu, gắn liền với Trí là sự hiểu biết. Đầu mối
của Trí ở bên trong con người là lòng thị phi, làm cho con người phân rõ phải trái,
đúng sai, qua đó xác định cho mình cách ứng xử cho phải đường đạo. Con người
phải có Trí mới đạt được Nhân vì vậy không thể là người nhân mà lại thiếu trí, cho
nên để thành người có nhân, thành con người hoàn thiện thì phải học.
Về Tín: Trên cơ sở nội dung của nho giáo về Tín, các nhà nho Việt Nam khi
tiếp nhận và hiểu, Tín có nghĩa là lòng tin, sự tín nhiệm, đức hạnh của một con
người được xã hội thừa nhận. Nhân dân ta chấp nhận chữ Tín như một đức tính cần
thiết của con người trong cách xử thế giao dịch, làm ăn, nên mới có câu: ‘‘một sự

bất tín vạn sự bất tín” là xuất phát từ quan niệm trên.
Ngoài ra, nhân dân Việt Nam còn có truyền thống quý báu lâu đời đó là đức
tính cần cù và tiết kiệm. Nhờ cần cù trong lao động và tiết kiệm trong chi tiêu mà
13
tổ tiên ta đã xây dựng được một cái nôi dân tộc, tạo thành nơi sinh tụ của giống
nòi. Trên quê hương đó, các cộng đồng dân cư nương tựa vào nhau, đoàn kết một
lòng bám đất, bám làng cùng nhau xây dựng đất nước, tiếp tục cần cù lao động trên
mảnh đất của cha ông. Như vậy, chữ Cần đã tạo thành nơi sinh tụ của dân tộc Việt
Nam, đồng thời cũng là cái gốc để duy trì chiếc nôi chung trước áp lực to lớn, lâu
dài và liên tục của quân xâm lược.
Qua tìm hiểu quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam và đạo đức Nho giáo
ở Việt Nam, có thể nêu một số nét riêng của đạo đức Nho giáo Việt Nam so với
đạo đức Nho giáo Trung Quốc như sau:
Thứ nhất, các nhà tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu đạo đức Nho giáo thời Hán
và thời Tống, nhưng đạo đức Nho giáo Việt Nam không mang tính khắt khe,
nghiêm ngặt như Hán Nho. Người Việt tiếp thu đạo đức Nho giáo trên nền tảng
đạo đức truyền thống vốn có của dân tộc. Đạo đức Nho giáo đã trở thành một nhân
tố của đạo đức truyền thống Việt Nam. Khi vào Việt Nam, Nho giáo đã hòa quyện
vào truyền thống đạo đức vốn có của dân tộc, nó bổ sung và làm cho diện mạo tư
tưởng đạo đức Việt Nam có thêm sắc thái mới.
Thứ hai, song song với việc tiếp nhận Nho giáo, người Việt còn tiếp nhận
cả những tư tưởng đạo đức hướng thiện của Phật giáo với những nguyên tắc ‘‘từ
bi, hỷ xả”. Vì vậy, trong đạo đức của Việt Nam có sự giao thoa của các quan
niệm đạo đức Nho - Phật - Đạo. Sự tác động qua lại này đã làm cho mỗi hệ tư
tưởng cũng có sự thay đổi. Nội dung của hệ tư tưởng này cũng mang dáng dấp
của hệ tư tưởng kia.
Thứ ba, đạo đức Nho giáo Việt Nam là sự kế thừa biện chứng đạo đức Nho
giáo Trung Quốc, đồng thời vận dụng nó dựa theo yêu cầu của thực tiễn lịch sử xã
hội. Đó là sự tiếp nhận có cải biến, vì vậy ở Việt Nam có Nho giáo của Việt Nam.
Thứ tư, các nhà Nho Việt Nam không luận bàn và xây dựng hệ thống lý

thuyết về đạo đức, mà chỉ nêu những yêu cầu đạo đức cụ thể để mọi người thực
hiện, nhằm củng cố sự ổn định của gia đình và xã hội. Do đó, đạo đức Nho giáo
Việt Nam là đạo đức thực hành, nó chú ý đến thực tiễn hơn là học thuật.
Đó chính là những khác biệt căn bản chúng ta có thể rút ra khi nghiên cứu về
vấn đề này.
Tiểu kết chương 2
Trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, Nho giáo là một trong những học thuyết
chính trị - đạo đức tiêu biểu nhất. Học thuyết này ra đời nhằm mục đích ổn định
trật tự xã hội. Vì vậy, nội dung cơ bản của Nho giáo là luận bàn về đạo đức và đề
cao vai trò và sức mạnh của đạo đức đối với xã hội. Rõ ràng trong bất cứ xã hội
nào, thời đại nào thì đạo đức luôn giữ vị trí quan trọng, là cái để điều chỉnh hành vi
của con người trong các mối quan hệ xã hội. Tuy vậy, Nho giáo cũng vấp phải
những hạn chế là quá đề cao đạo đức và cho rằng đạo đức là nhân tố duy nhất
quyết định sự hưng vong, thịnh suy của triều đại mà quên mất vai trò quyết định
của kinh tế, của tồn tại xã hội.
14
Đạo đức Nho giáo Trung Quốc có ảnh hưởng sâu rộng ở Việt Nam. Tuy
nhiên, khi truyền nhập vào Việt Nam, nó đã được ‘‘Việt hóa” cho phù hợp với
truyền thống văn hóa của dân tộc. Các phạm trù đạo đức Nho giáo không còn giữ
nguyên bản như lúc ban đầu. Đó cũng chính là điểm khác biệt giữa Nho giáo
Trung Quốc và Nho giáo Việt Nam.
Chương 3
NH󰗯NG Y󰖿U T󰗑 󰖣NH H󰗟NG VÀ N󰗙I DUNG CH󰗧 Y󰖿U C󰗧A VI󰗇C
K󰖿 TH󰗫A, PHÁT TRI󰗃N M󰗙T S󰗑 PH󰖡M TRÙ C B󰖣N C󰗧A 󰖡O 󰗩C
NHO GIÁO TRONG T T󰗟NG 󰖡O 󰗩C
H󰗓 CHÍ MINH
3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc kế thừa, phát triển một số phạm
trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
3.1.1. Môi trư ờ ng gia đình - quê hư ơ ng
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo có truyền thống yêu

nước. Tư tưởng đạo đức của quê hương (nết đất) và của gia đình (nếp nhà) đã có
ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng đạo đức của bản thân Người. Những tấm gương
gia đình xứ Nghệ và đặc biệt ở ngay trong gia đình Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng
sâu sắc đến tâm hồn, lý tưởng của Người từ lúc sinh thời đến khi trưởng thành. Cụ
tú Hoàng Xuân Đường, ông ngoại của Người là một nhà Nho thanh bạch, dạy học
tại gia và có nhiều trò đỗ cao. Thân phụ của Người là ông Nguyễn Sinh Sắc đã đỗ
cử nhân và phó bảng, vốn nổi tiếng là một bậc túc nho, có học vấn uyên thâm và
đạo đức cao thượng. Mẹ của Người là bà Hoàng Thị Loan, khi còn trẻ đã được cha
mẹ trực tiếp dạy cho học sách Nho. Chị cả của Người là Nguyễn Thị Thanh tức
Bạch Liên, tuy không được học nhiều như hai em trai, nhưng cũng rất thông hiểu
chữ Nho và đạo Nho do bà ngoại và mẹ dạy bảo. Anh trai của Người là Nguyễn
Sinh Khiêm tức Nguyễn Tất Đạt đã được học một lớp với em do chính người cha
ngồi dạy tại gia ngay giữa kinh đô Huế, và cũng đã học đủ cả Tứ thư và Ngũ kinh
tuy không đi theo đường khoa bảng.
Như vậy, trong những năm ấu thơ, Người đã được nuôi dưỡng theo truyền
thống gia thế tốt đẹp. Sống bên cạnh người cha làm nghề dạy học, Người được
cha giảng dạy những sách kinh điển của Nho giáo, được nghe cha và bạn bè của
cha bàn luận về những tư tưởng triết học và đạo đức trong các sách vở thời xưa.
Trong thời gian và môi trường ấy, Người nắm được những quan điểm cơ bản
của Nho giáo.
Đối với quê hương Hồ Chí Minh, tỉnh Nghệ An, trước hết đó là vùng đất nổi
tiếng Nho học, sau thì nổi tiếng là vùng cách mạng. Quê hương đã trang bị cho
Người một vốn tri thức Hán học, Quốc học và tấm lòng yêu nước nồng nhiệt. Quê
hương của Người cũng là nơi tập trung nhiều di tích lịch sử gắn liền với truyền
thống cứu nước của dân tộc.
15
3.1.2. Môi trư ờ ng Hán họ c - Quố c họ c
Hồ Chí Minh thời trẻ, trước khi đi Tây Âu tìm đường cứu nước đã có đủ mười
năm đèn sách và đã đạt trình độ cao về Nho học. Chính vì học không phải để đi thi,
đi thi để làm quan, cho nên Người đã học Nho giáo một cách phóng khoáng, sâu

sắc. Do yêu cầu của cách mạng, Hồ Chí Minh từng sống và làm việc ở Trung Quốc
nhiều thời kỳ. Trong thời gian đó, Người vẫn tiếp xúc với văn hoá Trung Quốc,
vẫn bổ sung thêm vốn văn hoá Trung Quốc như dịch và viết báo bằng tiếng
Trung , sự am hiểu sâu sắc Nho học ở Hồ Chí Minh lại được bắt nguồn từ trí tuệ
thông minh siêu việt: học ít, hiểu nhiều, biết kế thừa có chọn lọc. Vì hiểu Nho rất
sâu, rất rộng nên Người biết rõ những nhược điểm, những sai lầm của Nho giáo để
loại bỏ và chọn lọc lấy những ưu điểm của nó.
Bên cạnh Hán học, nền quốc học Việt Nam đã trang bị cho tuổi trẻ Hồ Chí
Minh một căn bản truyền thống yêu nước, thương dân và niềm tự hào dân tộc.
Quốc học bao gồm lịch sử dân tộc, văn học nghệ thuật dân tộc, địa lý nước nhà,
phong tục tín ngưỡng, tư tưởng của đồng bào được lưu truyền bằng những tài
liệu thành văn hay không thành văn (truyền miệng), bằng chữ Hán hay chữ Nôm,
bằng sách vở hay bằng đền đài di tích. Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một
thời kỳ lịch sử mà Quốc học đã được kẻ sĩ và cả triều đình nhận thấy rõ tầm quan
trọng như là một công cụ không có gì thay thế để cho “đạo học sáng tỏ”, như là
một vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh một mất một còn với đế quốc phương Tây
xâm lược. Sinh ra trong một gia đình nhà Nho, từ tuổi thơ ấu Hồ Chí Minh đã được
nuôi dưỡng trong một môi trường Nho giáo, lại lớn lên trên một vùng quê mà dấu
ấn Nho giáo từ lâu đã trở thành nét khu biệt. Điều này đã tác động mạnh mẽ đến sự
hình thành và phát triển tư tưởng đạo đức của Người về sau.
3.1.3. Truyề n thố ng văn hóa dân tộ c và yế u tố chủ quan Hồ Chí Minh
Dựa vào tiêu chí xác định giá trị, giá trị văn hóa và từ quan điểm của Đảng ta
cũng như của các nhà khoa học, có thể khẳng định các giá trị văn hóa truyền thống
cơ bản của dân tộc ta bao gồm: Chủ nghĩa yêu nước; lòng thương yêu, quý trọng
con người; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng; đức tính cần kiệm; lòng dũng
cảm, bất khuất; đức tính khiêm tốn giản dị, trung thực, thủy chung, lạc quan .
Là người ý thức được vai trò quan trọng của Nho giáo trong đời sống tinh
thần người Việt, từng chứng kiến những hành vi yêu nước và chống giặc đầy nhiệt
tình và khí phách của nhân dân. Hồ Chí Minh với đầu óc thông minh sáng suốt,
năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, học vấn uyên bác, năng lực phân tích, so sánh,

đối chiếu, tổng hợp sâu sắc; có sự khổ công rèn luyện nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức
đồ sộ của nhân loại; có tấm lòng yêu nước, thương dân và tự hào về truyền thống
lịch sử, văn hóa của dân tộc kết hợp với ý chí nghị lực phi thường đã quyết định
việc Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc, chuyển hóa, phát triển những tinh hoa của
dân tộc và nhân loại thành tư tưởng đặc sắc, độc đáo của mình, mà đạo đức Nho
giáo là một trong những tinh hoa đã được chuyển hóa đầy sáng tạo.
16
3.1.4. Yêu cầ u giáo dụ c đạ o đứ c cách mạ ng cho cán bộ , đả ng viên
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến giáo dục đạo đức cho mọi đối tượng, trên
mọi lĩnh vực của hoạt động của con người, trong các mối quan hệ, ở mọi phạm vi,
trong đó, Người đặc biệt quan tâm đến giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên. Ngay từ những ngày đầu giữ cương vị lãnh đạo cao nhất, Hồ Chí Minh
đã nhận thấy những nguy cơ sa sút về đạo đức của đội ngũ này nên Người đã
thường xuyên nêu những lời răn dạy về đạo đức và phương pháp để rèn luyện đạo
đức. Hồ Chí Minh đã khái quát một cách khá đầy đủ những biểu hiện của chủ
nghĩa cá nhân và chỉ rõ rằng, chủ nghĩa cá nhân đang tấn công vào không ít cán
bộ, đảng viên, đang gây ra những tác hại to lớn cản trở sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Trước thực trạng đó, tư tưởng về đạo đức cách mạng và giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Trong
quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là nền tảng, là gốc, là nguồn lực
của người cách mạng, là cơ sở để cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ. Hồ Chí
Minh rất coi trọng việc giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quan niệm, trong giáo dục đạo đức cho
cán bộ, đảng viên nếu buông lỏng một mặt nào đó hoặc tách rời các mặt đó với
nhau thì công tác giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên không thể có chất lượng, hiệu quả cao được. Xuất phát từ thực tiễn, từ
yêu cầu cấp bách phải xây dựng, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa và phát triển những phạm trù cơ
bản của đạo đức Nho giáo, kết hợp với sự sáng tạo cho phù hợp với hoàn cảnh Việt

Nam để xây dựng nên một nền đạo đức cách mạng - nhằm mục đích giáo dục và
rèn luyện đạo đức cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân các tầng lớp trong xã hội
phù hợp với yêu cầu mới của phong trào cách mạng Việt Nam.
3.2. Nh󰗰ng n󰗚i dung ch󰗨 y󰗀u c󰗨a vi󰗈c k󰗀 th󰗬a, phát tri󰗄n m󰗚t s󰗒 ph󰖢m
trù c b󰖤n c󰗨a 󰖢o 󰗪c Nho giáo trong t t󰗠ng 󰖢o 󰗪c Hô Chí Minh
3.2.1. Kế thừ a, phát triể n phạ m trù Nhân, Nghĩa , Lễ , Trí, Tín
Cũng như các phạm trù đạo đức Nho giáo khác, Hồ Chí Minh đã khai thác
những mặt tích cực làm thay đổi chất của phạm trù này. Theo quan điểm của Hồ
Chí Minh, Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì
thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân
dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên
hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. Những
người đã không ham, không e, không sợ gì thì việc gì là việc phải họ đều làm
được. Trong thời đại ngày nay, nhân là yêu thương con người, là yêu thương đồng
chí, đồng bào; Nghĩa là là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không
có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo
toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc
phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình
người khác cũng luôn luôn đúng đắn; Lễ là lễ phép với nhân dân, với đất nước; Trí
17
là không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt, dễ
hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng, biết xem người, biết xét việc. Vì vậy mà biết
làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề
phòng người gian; Trí là sáng suốt biết địch biết mình, biết người tốt thì nâng đỡ,
biết người xấu thì không dùng, biết cái tốt của mình mà phát triển lên, biết cái xấu
của mình mà tránh; Tín là không lừa dối, thưởng phạt công bình, tài chính phân
minh, là nói cái gì phải cho tin - nói và làm cho nhất trí - làm thế nào cho dân tin -
cho bộ đội tin ở mình
Tùy theo từng đối tượng, Hồ Chí Minh đều có cách giáo dục khác nhau về
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

3.2.2. Kế thừ a, phát triể n phạ m trù Trung, Hiế u
Trung và Hiếu là hai phạm trù đạo đức được Hồ Chí Minh sử dụng cặp đôi
với nhau và coi như chuẩn mực cao nhất trong hành vi của con người. “Trung với
nước, hiếu với dân”, “Trung với Đảng, hiếu với dân”. Hồ Chí Minh đã sử dụng
phạm trù Trung trong đạo đức Nho giáo để thể hiện tư tưởng đạo đức trung với
nước, trung với Đảng. Người phát triển một cách sáng tạo phạm trù Trung để đưa
vào đó một nội dung hoàn toàn mới: yêu nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội.
Người đã phát triển truyền thống yêu nước của dân tộc, nâng chủ nghĩa yêu nước
truyền thống lên và tạo cho nó một nội dung mới phù hợp với yêu cầu của thời đại,
tiếp cận với thế giới quan Mác - Lênin.
Hiếu ở Hồ Chí Minh là hiếu thảo với nhân dân, tôn trọng nhân dân, vì nhân
dân mà phục vụ, là không chỉ thương yêu cha mẹ mình mà còn phải thương yêu
cha mẹ người, là làm đầy tớ của dân, là lấy dân làm gốc, là “hiếu thảo” vẫn gắn
liền với “hiếu trung”. Tuỳ theo từng đối tượng, Hồ Chí Minh xác định nội dung
trung, hiếu cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng.
Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh khi kế thừa phạm trù Trung, Hiếu của đạo đức
Nho giáo là ở chỗ: Thứ nhất, trong khi nói “trung với nước”, Hồ Chí Minh đã thực
hiện sự chuyển hoá phạm trù Trung, làm mất đi ý nghĩa mà hàng nghìn năm chế độ
phong kiến đã sử dụng như một công cụ để cai trị đất nước trong mối quan hệ nô
lệ, bị áp bức và hoàn toàn không có tự do, bình đẳng. Thứ hai, với tư tưởng đạo
đức “trung với nước”, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cuộc cách mạng trong quan
hệ về đạo đức nói chung, về chủ nghĩa yêu nước nói riêng. Thứ ba, là tính mục
đích của nội dung tư tưởng đạo đức trung với nước. Ở đây, Hồ Chí Minh đã hiện
thực hoá phạm trù trung với nước, gắn lý luận với thực tiễn, chuyển hoá đạo đức
cũ thành tư tưởng đạo đức mới - đạo đức cách mạng mà bản thân Người là tấm
gương tiêu biểu cho tư tưởng đạo đức trung với nước đó. Cũng như với phạm trù
Trung, đến Hồ Chí Minh, phạm trù Hiếu đã được chuyển đổi mang tính cách
mạng. Hiếu với dân không còn bó hẹp trong phạm vi hiếu với cha mẹ mình như
nội dung của đạo đức Nho giáo, mà rộng hơn là hiếu với nhân dân. Hiếu với dân là
lấy dân làm gốc, là làm đầy tớ phục vụ nhân dân (mà ý nghĩa cách mạng sâu sắc

của nó chính là thực hành dân chủ).
18
3.2.3. Kế thừ a, phát triể n phạ m trù Cầ n, Kiệ m, Liêm, Chính
Hồ Chí Minh, khi tiếp thu phạm trù Cần của đạo đức Nho giáo, đã bổ sung
thêm vào đó nội dung và mở rộng thêm đối tượng thực hiện, dùng vào dạy cán bộ
và nhân dân của mình. Người giải thích: Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo
dai, là thi đua sản xuất cho mau, cho tốt, cho nhiều, là phải tìm mọi cách để ít
người mà làm được nhiều việc, là chớ lười biếng; chớ ăn thật làm dối, Cần và
Chuyên phải đi đôi với nhau; Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí,
không bừa bãi, không phải chỉ là tiết kiệm tiền của mà còn tiết kiệm thời gian,
không phải là bủn xỉn, Kiệm muốn có kết quả thì phải đi liền với “cần”, Cần và
Kiệm phải đi đôi với nhau như tay phải và tay trái của một con người. Hai tay
không thể thiếu một; Liêm là: trong sạch, không tham lam, là không tham ô và
luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của nhân dân. Hồ Chí Minh đã mở rộng
phạm trù Liêm, gắn Liêm với Kiệm, xem Kiệm là điều kiện để thực hiện Liêm;
Chính là: không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, Hồ Chí Minh cho rằng phạm trù
Chính phải được thực hiện trên cả ba mặt xử thế là: mình đối với mình, mình đối
với người, và mình đối với công việc
Điều khác biệt ở Hồ Chí Minh khi kế thừa những phạm trù trên của đạo đức
Nho giáo là chỗ: trong khi kế thừa, phát triển những nhân tố hợp lý, ở mỗi một đối
tượng thuộc các tầng lớp nhân dân, Hồ Chí Minh đều căn cứ vào yêu cầu thực tiễn,
vào đặc điểm của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực công tác mà có cách quan niệm và giáo
dục khác nhau về những phạm trù đạo đức đó. Đó chính là sự sáng tạo vượt bậc
của Người.
3.2.4. Hồ Chí Minh đã hiệ n thự c hóa mộ t số phạ m trù cơ bả n củ a đạ o đứ c
Nho giáo đư ợ c Ngư ờ i kế thừ a, phát triể n vào trong hoạ t độ ng thự c tiễ n cách
mạ ng củ a mình
Tiếp thu những yếu tố tích cực của đạo đức Nho giáo, kết hợp với truyền
thống đạo đức của dân tộc được thể hiện qua các gương đạo đức của các bậc nho sĩ
xưa, Hồ Chí Minh đã mặc nhiên thấm nhuần những truyền thống đạo đức tốt đẹp

đó. Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo lên ở tính chất thực hành đạo đức. Người đặc
biệt khai thác những chuyện người thật, việc thật, người tốt, việc tốt rất phong phú
trong cuộc sống đời thường. Điều cốt yếu nhất là Hồ Chí Minh rất chú trọng thực
hành đạo đức, nêu một tấm gương sinh hoạt chính tâm, khắc kỷ, đó là điều hiếm
thấy trong các nhà đạo đức gia.
Thực hành đạo đức cách mạng được thể hiện trên ba nguyên tắc: nói đi đôi
với làm, xây đi cùng với chống và tu dưỡng đạo đức suốt đời đã được Hồ Chí
Minh quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh
đã thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ thực hành đạo đức cách mạng nói đi
đôi với làm. Ở Hồ Chí Minh, lý luận đi cùng thực tiễn, nói là để làm, làm phải
đúng như điều đã nghĩ, đã nói. Người thường nói ít làm nhiều, có những vấn đề
đạo đức Người không nói mà chỉ làm. Người quan niệm, muốn hướng dẫn nhân
dân, mình phải làm gương cho người ta bắt chước. Từ chính cuộc đời của Hồ Chí
Minh đã có rất nhiều câu chuyện cảm động về việc nêu gương trong thực hành đạo
19
đức cách mạng nói đi đôi với làm. Có thể nói rằng, cả cuộc đời Hồ Chí Minh là
một tấm gương sáng ngời về thực hành đạo đức cách mạng. Tấm gương đó còn
sáng mãi cho muôn đời con cháu học tập và noi theo.
Qua phân tích việc kế thừa và phát triển một số phạm trù cơ bản trên của đạo
đức Nho giáo trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, có thể rút ra những điểm
chung nổi bật sau: Thứ nhất, trong hệ thống quan điểm đạo đức của Nho giáo và
đạo đức Hồ Chí Minh đều coi đạo đức là gốc của con người và đều xem trọng tu
dưỡng đạo đức. Thứ hai, trong tư tưởng đạo đức Nho giáo và tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh đều coi tu dưỡng đạo đức là một quá trình khó khăn, gian khổ.
Bên cạnh những điểm chung nổi bật trên, khi tiếp thu tinh hoa, hạt nhân hợp
lý trong tư tưởng đạo đức Nho giáo, Hồ Chí Minh đã vạch ra những hạn chế của tư
tưởng này: tư tưởng đạo đức Nho giáo là phụng sự nhà vua, coi dân chỉ là phương
tiện để đạt được sự thống trị của bậc quân tử. Ở Hồ Chí Minh, quan hệ vua - tôi
được thay thế bằng quan hệ thiêng liêng, đích thực: quan hệ giữa cá nhân với Tổ
quốc, với nhân dân. Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm xuất phát điểm của tư tưởng và

hành động, thể hiện lý tưởng đạo đức, tính nhân văn cao nhất. Quan niệm này khác
hẳn quan niệm tiêu cực của Nho giáo khi giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích cá
nhân với lợi ích cộng đồng, cá nhân với cá nhân. Điểm khác biệt và đồng thời là
cái mới trong quan niệm đạo đức của Hồ Chí Minh so với đạo đức Nho giáo còn ở
chỗ, Người luôn xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mà chỉ ra những
đức tính cần thiết cho từng đối tượng cụ thể.
Tiểu kết chương 3
Khi sử dụng những phạm trù đạo đức Nho giáo, Hồ Chí Minh đã giữ lại
những gì tốt đẹp nhất trong đó, lọc bỏ những điều không phù hợp và đưa vào
những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước. Mỗi phạm trù đạo đức Nho giáo, qua lăng kính chọn lọc của Hồ
Chí Minh đều được Người giải thích rất cụ thể và dễ hiểu với mọi người.
Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã thực hiện đúng điều mà các nhà
Nho đã nói, giữ trọn chữ Nhân, Nghĩa, Trung, Hiếu như những nhà Nho, nhưng
khác với các nhà Nho là Hồ Chí Minh đã hướng nội dung Trung, Hiếu, Nhân,
Nghĩa, Trí, Dũng về với dân, với nước, với sự nghiệp cách mạng. Cho nên, từ
những nội dung đạo đức cũ, Hồ Chí Minh đã chuyển hoá thành nội dung đạo đức
mới, đạo đức phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Chương 4
Ý NGHĨA RÚT RA TỪ VIỆC KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN MỘT SỐ
PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO TRONG
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
4.1. Ý ngha lý lu󰖮n rút ra t󰗬 vi󰗈c k󰗀 th󰗬a, phát tri󰗄n m󰗚t s󰗒 ph󰖢m trù c
b󰖤n c󰗨a 󰖢o 󰗪c Nho giáo trong t t󰗠ng 󰖢o 󰗪c H󰗔 Chí Minh
4.1.1. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển một số phạm trù đạo đức Nho giáo
điển hình, quen thuộc, phổ biến; quá trình kế thừa, phát triển là quá trình chọn lọc,
20
gìn giữ những giá trị cốt lõi, bổ sung làm mới những nội dung cụ thể cho phù hợp
với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
4.1.2. Trong quá trình kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức

Nho giáo, Hồ Chí Minh luôn gắn liền với các đối tượng cụ thể để xác định nội
dung cho phù hợp.
4.1.3. Xuyên suốt quá trình kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của
đạo đức Nho giáo, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề lợi ích cá nhân và lợi ích
cộng đồng, đặc biệt nhấn mạnh đến lợi ích cộng đồng.
4.1.4. Kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo ở Hồ
Chí Minh là bài học mẫu mực về sự kết hợp giữa cái cũ và cái mới, truyền thống
và hiện đại.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn của một số phạm trù cơ bản trong đạo đức Nho
giáo được Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển đối với việc giáo dục đạo đức, lối
sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay
4.2.1. Mộ t số vấ n đề đặ t ra về đạ o đứ c, lố i số ng củ a độ i ngũ cán bộ , đả ng
viên ở nư ớ c ta hiệ n nay
Trong những năm đổi mới, về thực trạng đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên đang phát triển theo hai xu hướng. Xu hướng thứ nhất: Xuất phát từ công
cuộc đổi mới của đất nước đang đi vào chiều sâu với nhiều cơ hội và thách thức;
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra sâu sắc, do chuyển sang nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa… một nền đạo đức mới đang được hình thành. Một
nền đạo đức vừa phát huy những giá trị truyền thống như yêu nước, sống có tình
nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với những yêu cầu mới, những phẩm
chất đạo đức mới do yêu cầu của thời đại: ham học hỏi, làm việc hết sức mình vì
lợi ích của bản thân gia đình, tập thể và xã hội, tính năng động sáng tạo, bản lĩnh
và quyết tâm làm giàu, hành vi đền ơn đáp nghĩa, ý thức bảo vệ môi trường. Nền
đạo đức mới đang hình thành trên cơ sở kết quả của công cuộc đổi mới đã đem lại
sự thay đổi trển nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó về đạo đức, lối sống
có cả sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, sự tiếp thu những tinh
hoa văn hóa của thế giới, đồng thời có cả những tồn tại, ảnh hưởng của phong kiến,
thực dân còn sót lại cùng với những ảnh hưởng của văn hóa, đạo đức lai căng được
du nhập từ bên ngoài vào. Xu hướng thứ hai: Đó là hiện tượng xuống cấp về đạo

đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên với những biểu hiện rõ nét: tình
trạng tham nhũng của một bộ phận cán bộ, công chức ngày càng gia tăng. Có
những hành vi vi phạm đạo đức chưa được pháp luật bao quát, mới chỉ bị dư luận
xã hội lên án.
Thực trạng suy thoái đạo đức, lối sống hiện nay trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có thể kể đến những nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: Sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường.
Thứ hai: Sự buông lỏng quản lý và thiếu đồng bộ về luật pháp, cơ chế, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
21
Thứ ba: Tác động từ những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và
sự thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Thứ tư: Các hình thức, phương pháp giáo dục chưa phù hợp, hiệu quả công
tác giáo dục đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên chưa cao; công tác cán bộ
còn yếu kém và nhiều bất cập.
4.2.2. Ý nghĩa mộ t số phạ m trù cơ bả n củ a đạ o đứ c Nho giáo đã đư ợ c Hồ
Chí Minh kế thừ a, phát triể n trong việ c giáo dụ c đạ o đứ c, lố i số ng cho độ i ngũ
cán bộ , đả ng viên ở nư ớ c ta hiệ n nay
Trong điều kiện mới hiện nay, khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị
trường, trước thực trạng đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên đang ngày càng suy thoái, chúng ta càng nhận thấy những chuẩn mực
giá trị đạo đức “trung với nước, hiếu với dân”, nhân, nghĩa, lễ, tín, cần, kiệm, liêm
chính… mà Hồ Chí Minh đã xác định trong thế kỷ XX đến nay, nội dung của nó
đã không ngừng phát triển.
Nếu như trước đây “trung với nước, hiếu với dân” nhấn mạnh đến sự hy
sinh, chiến đấu để giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, giải phóng nhân dân, thì ngày
nay, mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức được rằng nội dung tư tưởng ấy được
nhấn mạnh ở quyết tâm sắt đá bảo vệ vững chắc nền độc lập chủ quyền thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ thành quả của
sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ lợi

ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn
hóa, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
“Trung với nước, Hiếu với dân” trong thời kỳ đổi mới hiện nay được thể
hiện ở người cán bộ, đảng viên phải trung thành tuyệt đối với sự nghiệp của Đảng
và Nhà nước; kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta
đã lựa chọn, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh.
“Trung với nước, Hiếu với dân” là tích cực đấu tranh chống tham nhũng
trong tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên
để họ thực sự xứng đáng là người đấy tớ trung thành của nhân dân.
“Trung với nước, Hiếu với dân” là người cán bộ, đảng viên phải trung thành
với lợi ích của nhân dân. Mọi chủ trương chính sách đề ra và thực hiện đều phải
xuất phát từ lợi ích của dân, phục vụ dân. Vừa phải tuyên truyền, giáo dục, hướng
dẫn nhân dân thực hiện thắng lợi của các đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước, vừa phải lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, học tập dân, dựa vào
dân, phải được dân tin yêu, kính trọng. Người cán bộ, đảng viên phải hình thành
được phong cách thống nhất giữa lời nói và việc làm, nghiên cứu, xem xét, nắm
chắc tình hình, gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi,
nêu gương, dũng cảm, quyết đoán, kịp thời, nhạy bén, dám làm và dám chịu trách
nhiệm trước Đảng, trước nhân dân.
22
Nhân, Nghĩa đối với người cán bộ, đảng viên phải được thể hiện ở trách
nhiệm giải phóng con người, đem lại quyền tự do, bình đẳng cho mọi người,
nhất là những người khuyết tật, những gia đình thương binh, liệt sĩ đã hy sinh
xương máu trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, những trẻ em mồ côi, cơ
nhỡ, những người già không nơi nương tựa . Phải thường xuyên quan tâm,
đóng góp tích cực vào các công tác xã hội mang tính chất nhân đạo, phải luôn
biết thể hiện lòng nhân ái, yêu thương quý trọng con người từ trong chính quan
hệ gia đình của mình.

Để năng động, sáng tạo trong hoạt động, người cán bộ, đảng viên cần có tri
thức, sự hiểu biết (Trí). Tri thức đó có thể do quá trình giáo dục, đào tạo, kế thừa
của các thế hệ trước thông qua sách vở. Nhưng tri thức đó cũng có thể có được do
quá trình tổng kết từ hoạt động thực tiễn, từ việc tự nghiên cứu học hỏi ở bạn bè,
đồng nghiệp và mọi người trong xã hội. Sự sáng tạo và tri thức không chỉ là yêu
cầu đạo đức trong cuộc chiến tranh chống kẻ thù giải phóng dân tộc, mà trong nền
kinh tế thị trường hiện nay nó càng phải được đề cao, bởi vì công cuộc đổi mới nói
chung và việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định xã hội chủ nghĩa nói riêng
phụ thuộc vào lòng dũng cảm và trí sáng tạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa
“hồng” vừa “chuyên” như mong muốn của Bác Hồ kính yêu.
Cùng với Trung với nước, Hiếu với dân, Nhân, Nghĩa, Trí, người cán bộ,
đảng viên phải biết cụ thể hóa những nội dung của các phạm trù Cần, Kiệm, Liêm,
Chính cho phù hợp với công cuộc đổi mới. Trong giai đoạn hiện nay, người cán
bộ, đảng viên phải hiểu nói tới Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nói tới ý thức và hành vi
quan trọng nhất chính là lao động và lao động sáng tạo.
Lao động ở thời đại ngày nay là lao động không ngừng phát triển trên cơ sở
tiếp thu những kiến thức ngày một cao của nhân loại và tạo ra một trình độ lao
động phù hợp với trí tuệ. Là trong hoàn cảnh đất nước còn nghèo, đời sống nhân
dân còn gặp nhiều khó khăn, là thù trong giặc ngoài… nên trong sản xuất và chi
tiêu phải tiết kiệm, tránh làm thất thoát của công, có lối sống giản dị, liêm khiết;
phải biết động lòng trắc ẩn, phải thấy xót xa khi tài sản của Nhà nước bị thất thoát.
Cùng với việc hoạch định các đường lối, chủ trương, chính sách đúng, sự cần
cù, sáng tạo trong lao động của cán bộ, đảng viên phải thể hiện ở tính cụ thể, sâu
sát và linh hoạt trong việc tổ chức, quản lý điều hành hoạt động xã hội. Tính cần
cù, sáng tạo trong lao động của cán bộ, đảng viên còn phải thể hiện ở chiến lược
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên kế cận.
Hơn lúc nào hết, ý nghĩa một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo đã
được Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay còn nguyên tính thời sự cấp thiết. Nếu
như những tác động tiêu cực từ nhiều mặt do cuộc sống hiện đại mang đến đang

gặm nhấm dần những giá trị tốt đẹp của dân tộc, làm khô héo lòng nhân ái giữa
con người với con người, giữa nghĩa vụ của con người với Tổ quốc thì việc khơi
23
dậy tình người, lòng yêu thương, khơi dậy ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm với đất
nước, gia đình, người thân đối với mỗi cán bộ, đảng viên lại càng có ý nghĩa giáo
dục vô cùng to lớn và cần thiết.
Tiểu kết chương 4
Đạo đức cách mạng mà nền tảng là “Trung với nước, Hiếu với dân”, là
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín , là Cần, Kiệm, Liêm, Chính, mà Hồ Chí Minh đã xây
dựng, kết tinh từ truyền thống đạo đức của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại
trong đó có Nho giáo, đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Trước thực trạng suy
thoái đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đòi hỏi việc
thực hành đạo đức cách mạng trong thời kỳ đổi mới hiện nay, mỗi cán bộ, đảng
viên phải nắm vững những tiêu chí mới của đạo đức; vận dụng sát hợp vào từng
lĩnh vực của đời sống, kinh tế - xã hội, gắn chặt với đường lối đổi mới của Đảng,
động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế, trong đó đội ngũ cán bộ,
đảng viên phải là lực lượng nòng cốt đi tiên phong trong việc tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức cách mạng và gương mẫu hành động. Việc gì có lợi cho nước, cho dân thì
phải gắng làm cho tốt, việc gì có hại cho nước, cho dân thì kiên quyết tránh.
KẾT LUẬN
Được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm bằng con đường xâm lược và giao
lưu văn hoá, Nho giáo đã có một “số phận” đặc biệt, lúc phát triển cực thịnh, lúc lại
suy vong, nhường chỗ cho Phật giáo. Dù có phát triển thế nào, thì Nho giáo khi
vào Việt Nam không còn nguyên nghĩa nữa. Văn hoá Việt Nam đã tiếp biến Nho
giáo, kết hợp với văn hoá Việt, hình thành nên một loại Nho giáo lấy “Nghĩa” làm
trọng. Dân tộc Việt Nam đã không tiếp thu trọn vẹn nội dung của học thuyết Nho
giáo, mà kế thừa, phát triển để biến thành Nho giáo Việt Nam. Những phạm trù
đạo đức cơ bản của Nho giáo (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Trung, Hiếu, Cần, Kiệm,
Liêm, Chính) bên cạnh mặt tích cực, vẫn còn những hạn chế mang tính hà khắc,
cần loại bỏ.

Xuất thân từ gia đình nhà Nho, lại am hiểu Nho giáo sâu sắc, sau này trên
con đường cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn vận dụng những phạm trù đạo
đức của Nho giáo vào việc giáo dục đạo đức cho cán bộ và nhân dân. Sử dụng các
khái niệm, phạm trù đạo đức Nho giáo, nhưng không sử dụng hệ thống tư tưởng
của nó, đó là điều chúng ta thấy rất rõ ở Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh khai thác mặt
tích cực nhất làm thay đổi về bản chất khái niệm khác với cách hiểu của nhà Nho
trong xã hội phong kiến, khiến cho những phạm trù đạo đức của Nho giáo trở nên
thích hợp với nội dung đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Cũng có những vấn đề
như vấn đề tu thân, giữ mình “tự mình phải chính trước mới giúp người khác
chính” là vấn đề không khác với quan niệm của Khổng Tử, Mạnh Tử, nhưng Hồ
Chí Minh thường nhấn mạnh khía cạnh nêu gương là điều mà không dễ thực hiện
24
trong các xã hội cũ. Qua việc phân tích những phạm trù cơ bản của đạo đức Nho
giáo và qua lăng kính chọn lọc của Hồ Chí Minh chúng ta hiểu một cách sâu sắc
rằng, đạo đức Nho giáo đã có ảnh hưởng rất lớn tới Người nhưng qua một phương
cách tiếp cận khoa học và cách mạng.
Hiện nay, tình trạng tham nhũng đang ngày một gia tăng, những chuẩn mực
đạo đức trong xã hội ngày một suy giảm. Trong điều kiện đó, ta càng nhận thức
được những phạm trù đạo đức, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Trung, Hiếu, Cần, Kiệm,
Liêm, Chính của Nho giáo qua lăng kính chọn lọc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý
luận và ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn. Vận dụng, phát triển quan điểm Hồ Chí
Minh trong việc tiếp thu những hiểu biết quý báu do các đời trước để lại, đó chính
là sự gìn giữ và kế tục tư tưởng đạo đức của Người trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá hôm nay.
Trong giai đoạn cách mạng mới, trước sự tấn công của mặt trái cơ chế thị
trường, với sự tác động của nhiều nhân tố phức tạp đan xen, tư tưởng đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị phân hóa nghiêm trọng… thì chuẩn
mực giá trị đạo đức Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Cần, Kiệm, Liêm,
Chính có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với người cán bộ, đảng viên. Hơn lúc nào
hết, những chuẩn mực giá trị đạo đức trên của Hồ Chí Minh chính là gạch nối biện

chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, luôn sống mãi trong sự nghiệp đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trước xu thế mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế,
chúng ta cần làm cho các cấp, các ngành, mỗi người dân nắm vững đường lối đổi
mới của Đảng, thực hiện các bước đi thích hợp, hội nhập mạnh mẽ và sâu rộng
kinh tế quốc tế nhưng vẫn giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Mỗi cán bộ, đảng
viên phải luôn phấn đấu, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện những phẩm chất đạo
đức nêu trên, biết đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, tiếp
tục phát huy những phẩm chất anh hùng cách mạng trước đây trong điều kiện mới,
gương mẫu trước nhân dân, được nhân dân tin yêu, đồng tình và ủng hộ. Làm tốt
điều đó, nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

×