Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

đổi mới quản lý tài chính ở trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng đài truyền hình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (909.27 KB, 98 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
==========





BÙI THẾ HÙNG






ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở
TRUNG TÂM KỸ THUẬT TRUYỀN DẪN PHÁT SÓNG
ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM


Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60 34 05




LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH







NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐÀM VĂN HUỆ








Hà Nội - Năm 2010


i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn “Đổi mới quản lý tài chính ở Trung tâm
kỹ thuật truyền dẫn phát sóng - Đài Truyền hình Việt Nam” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu đƣợc sử dụng trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên
cứu trong luận văn này chƣa từng đƣợc công bố tại bất kỳ công trình nào
khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thày cô giáo trong trƣờng Đại học Kinh
tế- Đại học Quốc gia Hà Nội đã truyền thụ cho tôi kiến thực trong suốt thời
gian học tập, nghiên cứu tại trƣờng.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đàm Văn Huệ đã tận tình hƣớng
dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn này.


Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2010
Tác giả luận văn


Bùi Thế Hùng


ii
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CHỮ VIỆT TẮT i
DANH MỤC CÁC BẢNG ii
DANH MỤC CÁC HÌNH iii
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI QUẢN LÝ
TÀI CHÍNH CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU Ở VIỆT NAM 5
1.1 Cơ sở lý luận về quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu ở
Việt Nam 5
1.1.1 Hoạt động sự nghiệp 5
1.1.2 Đơn vị sự nghiệp. 10
1.2 Cơ sở pháp lý của đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam 15
1.2.1 Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng
cho đơn vị sự nghiệp có thu 15
1.2.2 Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công lập 18
1.2.3 Nội dung quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam 19
1.3 Các nhân tố ảnh hƣởng tới quản lý tài chính của các đơn vị sự
nghiệp có thu 23
1.3.1 Chế độ quản lý tài chính công 23

1.3.2 Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp 26
1.3.3 Năng lực quản lý nội tại của đơn vị sự nghiệp 27
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI TRUNG TÂM KỸ
THUẬT TRUYỀN DẪN PHÁT SÓNG - ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM 30
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn
phát sóng - Đài Truyền hình Việt Nam 30
2.1.1 Sự ra đời của Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng 30

iii
2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng 31
2.1.3 Cơ cấu tổ chức của Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng 33
2.1.4 Chức năng, nhiệm vụ của phòng Kế hoạch-Tài vụ thuộc Trung tâm kỹ thuật
truyền dẫn phát sóng 37
2.2 Thực trạng quản lý tài chính tại Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn
phát sóng. 38
2.2.1 Thực trạng quản lý tài chính của Đài Truyền hình Việt Nam 38
2.2.2 Thực trạng quản lý tài chính tại Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng.40
2.3 Đánh giá về quản lý tài chính của Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn
phát sóng 60
2.3.1 Kết quả đạt đƣợc 60
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 61
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI TRUNG
TÂM KỸ THUẬT TRUYỀN DẪN PHÁT SÓNG 65
3.1 Định hƣớng phát triển của Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng và
quan điểm đổi mới quản lý tài chính 65
3.1.1 Định hƣớng công nghệ và các mục tiêu phát triển đến năm 2015 65
3.1.2 Các mục tiêu cụ thể 66
3.1.3 Lộ trình đổi mới công nghệ kỹ thuật 69
3.1.4 Định hƣớng mô hình hoạt động và cơ chế quản lý tài chính 70
3.2 Đổi mới quản lý tài chính của Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng 76

3.2.1 Chủ động khai thác các nguồn thu để phục vụ chi thƣờng xuyên tại Trung tâm 76
3.2.2 Đổi mới quy chế chi tiêu nội bộ của Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng 80
3.2.3 Tích cực tuyên truyền và nâng cao trình độ về tự chủ tài chính cho cán bộ
Trung tâm 85
3.3 Một số kiến nghị 86
3.3.1 Kiến nghị đối với Đài Truyền hình Việt Nam 86
3.3.2 Kiến nghị đối với Nhà nƣớc 87
KẾT LUẬN 88

iv
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89

i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT
Từ viết tắt
Nguyên nghĩa
1.
BHTN
Bảo hiểm thất nghiệp
2.
BHXH
Bảo hiểm xã hội
3.
BHYT
Bảo hiểm y tế
4.
ĐHKS
Điều hành Kiểm soát

5.
ĐVSN
Đơn vị sự nghiệp
6.
GTGT
Giá trị gia tăng
7.
HCSN
Hành chính sự nghiệp
8.
HSMT
Hồ sơ mời thầu
9.
KHĐT
Kế hoạch đấu thầu
10.
KH-TV
Kế hoạch Tài vụ
11.
NSNN
Ngân sách Nhà nƣớc
12.
PSQG
Phát sóng Quốc gia
13.
PSTH
Phát sóng Truyền hình
14.
PTTH
Phát thanh Truyền hình

15.
QLPS
Quản lý phát sóng
16.
TDPS
Truyền dẫn phát sóng
17.
TCTC
Tự chủ tài chính
18.
TDLĐ
Truyền dẫn lƣu động
19.
THQG
Truyền hình Quốc gia
20.
THVN
Truyền hình Việt Nam
21.
TNVN
Tiếng nói Việt Nam
22.
TSCĐ
Tài sản cố định
23.
VTV
Đài Truyền hình Việt nam


ii

DANH MỤC CÁC BẢNG

STT
Bảng
Nội dung
Trang
1
Bảng 2.1.
Nguồn kinh phí đƣợc cấp trong 3 năm 2007-2009
41
2
Bảng 2.2.
Nguồn thu từ các hợp đồng với bên ngoài trong 3
năm 2007-2009
42
4
Bảng 2.3.
Diễn biến chi tiêu trong 3 năm 2007-2009
60
3
Bảng 3.1.
Các dự án, công trình trọng điểm giai đoạn
2011-2015
69


iii
DANH MỤC CÁC HÌNH

STT

Hình
Nội dung
Trang
1
Hình 2.1.
Mô hình tổ chức hoạt động của Trung tâm
kỹ thuật truyền dẫn phát sóng.
34
2
Hình 2.2.
Cơ cấu tổ chức bộ máy tài chính kế toán
của Đài THVN.
38
3
Hình 3.1.
Mô hình tổ chức hoạt động của Trung tâm
kỹ thuật truyền dẫn phát sóng trong điều
kiện tự chủ.
71



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một đơn vị sự nghiệp có thu thuộc Chính phủ, Đài THVN thực hiện
chức năng thông tin, tuyên truyền đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nƣớc và cung ứng các dịch vụ công; góp phần giáo dục, nâng cao dân
trí, phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân bằng các chƣơng trình truyền hình.

Cùng với sự vƣơn mình đổi mới của đất nƣớc, chủ trƣơng xoá bỏ sự
bao cấp, từng bƣớc phân quyền và trao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp
có thu theo các nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ
về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu, nghị định
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính
đối với đơn vị sự nghiệp công lập, những năm vừa qua, Đài THVN đã không
ngừng đổi mới, phát triển, là một trong những đơn vị sự nghiệp đi đầu thực
hiện thí điểm tự chủ tài chính của Việt Nam. Để vận hành bộ máy quản lý
theo cơ chế mở, Đài THVN đã lần lƣợt ban hành cơ chế quản lý tài chính,
trong đó đã mạnh dạn phân cấp một số lĩnh vực quản lý thu, chi cho các đơn
vị dự toán cấp II trực thuộc, cho đến nay bƣớc đầu phát huy tinh chủ động
sáng tạo và tinh thần trách nhiệm cao của các đơn vị dự toán cấp II.
Khuyến khích thực hiện đổi mới, phát triển theo hƣớng tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, đảm bảo nhiệm vụ chính trị đƣợc giao, ngày 04/2/2008 Thủ
tƣớng chính phủ đã ban hành Nghị định số 18/2008/NĐ-CP quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Đài THVN trong đó có nêu
rõ: “…Đài THVN thực hiện cơ chế tài chính, lao động, tiền lƣơng nhƣ doanh
nghiệp nhà nƣớc. Hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính theo quy định của pháp luật…” và
đƣợc thể hiện rõ hơn ở thông tƣ 09/2009/TT-BTC về việc hƣớng dẫn cơ chế
quản lý tài chính đối với Đài THVN.

2
Để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị đƣợc giao, ngày càng đổi mới, phát
triển, vận dụng khéo léo và triệt để những chủ trƣơng chính sách của đảng,
nhà nƣớc và chính phủ về việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm thì việc
phân cấp quản lý tài chính rộng hơn, sâu hơn và đặc biệt là trao quyền tự chủ
cho các đơn vị cấp II của Đài THVN chính là một trong những bƣớc đi đúng
đắn và hiệu quả nhất.

Việc nghiên cứu cơ chế quản lý tài chính của Trung tâm kỹ thuật truyền
dẫn phát sóng - đơn vị dự toán cấp II của Đài THVN trong điều kiện tự chủ
tài chính là bƣớc đột biến, hết sức quan trọng và cấp bách, mang tính khách
quan, nhằm tạo ra hành lang pháp lý về kinh tế, tài chính cho Trung tâm thực
hiện quản lý thu, chi một cách hiệu quả, linh hoạt và đúng quy định của pháp
luật, góp phần làm tiền đề cho việc thực hiện chuyển sang hoạt động theo mô
hình doanh nghiệp ở Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng- Đài THVN.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, “Đổi mới quản lý tài chính ở Trung tâm
kỹ thuật truyền dẫn phát sóng- Đài THVN” đƣợc chọn làm đề tài của Luận
văn này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Đổi mới quản lý tài chính của Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng
trong điều kiện chuyển đổi hoạt đổi hoạt động sang tự chủ tài chính giai đoạn
2011-2015.
2.2. Nhiệm vụ
Nghiên cứu hành lang pháp lý các vấn đề tài chính liên quan tới chủ
trƣơng trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Đánh giá thực trạng quản lý tài chính của Trung tâm kỹ thuật truyền
dẫn phát sóng và của Đài THVN.
Đề xuất hƣớng đổi mới quản lý tài chính của Trung tâm kỹ thuật truyền
dẫn phát sóng giai đoạn 2011-2015.

3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Những vấn đề lý luận về thực tiễn về cơ chế quản lý, thu, chi tài chính,
nền tảng pháp lý, các cơ chế, chính sách, các quy định của Nhà nƣớc về quản
lý tài chính của các ĐVSN có thu, nghiên cứu cơ chế tài chính của Trung tâm
kỹ thuật truyền dẫn phát sóng trong điều kiện tự chủ tài chính.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng quản lý tài chính giai đoạn 2007-2009 và cơ chế
quản lý tài chính của Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng trong điều kiện
tự chủ tài chính giai đoạn 2011-2015.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
- Các phƣơng pháp: Thống kê, sử dụng phƣơng pháp so sánh, tổng hợp,
phân tích, dự báo.
5. Đóng góp mới của Luận văn.
Từ một đơn vị sự nghiệp dự toán cấp II chuyên chi trực thuộc Đài
THVN, Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng đã biểu lộ tiềm lực nội tại và
nhiều tiềm năng phát triển nguồn thu; ngoài việc thực hiện tốt nhiệm vụ chính
trị do Đài THVN giao còn có khả năng tự duy trì và phát triển chuyên môn
cũng nhƣ cơ sở vật chất và bộ máy của Trung tâm.
Với tƣ cách là công trình nghiên cứu chính thức, đầu tiên, tác giả muốn
thông qua luận văn này mạnh dạn đề xuất trao quyền tự chủ tài chính và tự
chịu trách nhiệm cho Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát sóng đồng thời
nghiên cứu giải pháp đổi mới quản lý tài chính và quy chế quản lý tài chính
phù hợp nhất trong điều kiện tự chủ tài chính ở Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn
phát sóng.

4
6. Tình hình nghiên cứu.
Chủ trƣơng thực hiện giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với
các đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chính thức ban hành từ năm 2002 theo nghị
định 10/2002/NĐ-CP,… Tuy nhiên việc nghiên cứu cơ chế tài chính của đơn
vị cấp II trong điều kiện phân phân cấp tài chính tiến tới tự chủ tài chính cho
đơn vị cấp II thì còn hạn chế.
Đối với Đài THVN nói chung và Trung tâm kỹ thuật truyền dẫn phát
sóng nói riêng thì đây là đề tài nghiên cứu chính thức đầu tiên nhƣng có tính

cấp thiết và hết sức quan trọng, làm cơ sở cho việc trình Tổng giám đốc Đài
THVN xem xét và chính thức đƣa vào áp dụng trong những năm tới.
7. Bố cục của Luận Văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn có kết cấu thành các phần nhƣ sau:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý đối với quản lý tài chính của
các đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam
Chƣơng 2. Thực trạng quản lý tài chính tại Trung tâm kỹ thuật truyền
dẫn phát sóng- Đài Truyền hình Việt Nam
Chƣơng 3. Giải pháp đổi mới quản lý tài chính tại Trung tâm kỹ thuật
truyền dẫn phát sóng- Đài Truyền hình Việt Nam


5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐỐI VỚI QUẢN LÝ TÀI
CHÍNH CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU Ở VIỆT NAM

1.1 Cơ sở lý luận về quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp có
thu ở Việt Nam
1.1.1 Hoạt động sự nghiệp
1.1.1.1 Khái niệm hoạt động sự nghiệp
Khi xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực, các lý luận gia của
các nƣớc xã hội chủ nghĩa đã coi các hoạt động sản xuất là hoạt động kinh tế,
các hoạt động của bộ máy nhà nƣớc là hành chính và các hoạt động giáo dục,
nghiên cứu, y tế, văn hóa, nghệ thuật là hoạt động sự nghiệp. Hơn nữa, trong
mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa thời bao cấp, ngoài các cơ sở sản xuất và
thƣơng mại quốc doanh bao trùm quá trình tái sản xuất xã hội, Nhà nƣớc còn
thành lập các cơ sở cung cấp dịch vụ giáo dục, văn hóa, y tế, nghiên cứu…Để
phân biệt chức năng và cơ chế hoạt động của các loại hình đơn vị cơ sở nhƣ

thế, Nhà nƣớc gọi các hoạt động sản xuất và thƣơng mại là hoạt động kinh tế,
các hoạt động nghiên cứu, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, nghệ thuật… là các
hoạt động sự nghiệp. Từ đó cho đến nay thuật ngữ hoạt động sự nghiệp đƣợc
sử dụng thƣờng xuyên trong các văn bản pháp lý về quản lý của Nhà nƣớc.
Tuy nhiên, về mặt lý luận, chƣa có công trình nào đƣa ra định nghĩa về hoạt
động sự nghiệp.
Theo chúng tôi, hoạt động sự nghiệp là những hoạt động do Nhà nƣớc
thực hiện nhằm cung cấp những dịch vụ có lợi ích chung và lâu dài cho cộng
đồng xã hội. Hoạt động sự nghiệp không trực tiếp tham gia vào quá trình tái
sản xuất ra của cải vật chất, nhƣng nó tác động đến lực lƣợng sản xuất và xã
hội thông qua việc nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng lao động cho nhân

6
dân, cải thiện chất lƣợng sống của con ngƣời, duy trì, bảo tồn và phát triển các
giá trị văn hóa, nghệ thuật, tinh thần của dân tộc, phát triển khoa học… Kết
quả hoạt động sự nghiệp ảnh hƣởng đến không chỉ phát triển kinh tế mà còn
đến sự phát triển xã hội và đất nƣớc.
1.1.1.2 Đặc điểm hoạt động sự nghiệp
Thứ nhất, hoạt động sự nghiệp có xu hướng cung cấp các loại hàng
hóa, dịch vụ có tính chất của hàng hóa công cộng hoặc hàng hóa khuyến dụng:
Kết quả của hoạt động sự nghiệp chủ yếu là học vấn, kỹ năng lao động
của nhân dân, các giá trị văn hóa, khoa học, nghệ thuật khó đánh giá đƣợc giá
trị kinh tế bằng tiền, nhƣng có ý nghĩa tăng hiệu quả kinh tế xã hội chung,
tăng năng lực sản xuất của quốc gia, tăng chất lƣợng sống của nhân dân, tăng
phúc lợi xã hội, tạo hiệu ứng tích cực cho các lĩnh vực khác, lợi ích đem lại
không chỉ cho ngƣời hƣởng thụ trực tiếp mà còn cho những ngƣời khác ….
Nhiều sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp có giá trị sử dụng tăng thêm khi
tăng ngƣời sử dụng mà không tăng chi phí nhƣ phát thanh, truyền hình…
Nhờ sử dụng những hàng hóa công cộng do hoạt động sự nghiệp tạo ra
mà quá trình sản xuất của cải vật chất đƣợc thuận lợi và ngày càng đạt hiệu

quả cao hơn. Hoạt động sự nghiệp giáo dục, văn hóa, đào tạo, y tế, thể dục thể
thao đem đến tri thức và bảo đảm sức khỏe cho lực lƣợng lao động, tạo điều
kiện cho lao động có chất lƣợng ngày càng tốt hơn; hoạt động sự nghiệp khoa
học, văn hóa thông tin mang lại những hiểu biết của con ngƣời về tự nhiên, xã
hội, tạo ra những công nghệ mới phục vụ sản xuất và đời sống
Thứ hai, hoạt động sự nghiệp không nhằm mục đích thu lợi nhuận trực tiếp:
Trong nền kinh tế thị trƣờng, một số sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự
nghiệp tạo ra có thể trở thành hàng hóa đem lại thu nhập cho đơn vị cung cấp.
Song do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn nhƣ nếu trao đổi theo nguyên tắc thị
trƣờng thì nhiều ngƣời không có khả năng tiêu dùng hoặc không khuyến

7
khích tiêu dùng đủ mức…, trong khi đó mở rộng tối đa sự tiêu dùng các loại
hàng hóa đó có ý nghĩa vừa làm tăng năng lực sản xuất của đất nƣớc, vừa có
giá trị tiến bộ và công bằng. Chính vì thế, Nhà nƣớc cần tổ chức cung ứng
hoặc duy trì các tài trợ để các hoạt động sự nghiệp cung cấp những sản phẩm,
dịch vụ không thu tiền hoặc thu tiền chỉ để hoàn một phần chi phí, không
nhằm thu lợi nhuận. Ngoài ra, khi cung cấp các dịch vụ sự nghiệp không theo
nguyên tắc thƣơng mại bình thƣờng, Nhà nƣớc hƣớng đến mục tiêu phân phối
lại thu nhập và tăng phúc lợi công cộng.
Tuy nhiên, xét về mặt quản lý vi mô, Nhà nƣớc mong muốn các đơn vị
cung cấp hàng hóa, dịch vụ sự nghiệp phải hoạt động có hiệu quả, có nghĩa là
hoạt động với chi phí tối thiểu. Do đó, các biện pháp khoán kinh phí hay buộc
các đơn vị sự nghiệp phải hạch toán thu chi không phải là giải pháp tăng thu
lợi nhuận nhƣ các biện pháp quản lý doanh nghiệp, mà đơn thuần chỉ là giải
pháp quản lý khuyến khích đơn vị sự nghiệp chủ động phát huy hết mọi năng
lực của mình để tiết kiệm chi phí.
Thứ ba, hoạt động sự nghiệp luôn gắn liền và bị chi phối bởi các
chương trình phát triển kinh tế xã hội và ngân sách của Nhà nước:
Trong kinh tế thị trƣờng, các hoạt động sự nghiệp cũng là công cụ để

Nhà nƣớc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, nhất là các chƣơng
trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chƣơng trình dân số, kế hoạch hóa gia
đình, chƣơng trình phát triển giáo dục, chƣơng trình phát triển văn hóa
Những chƣơng trình mục tiêu quốc gia chi phối hoạt động sự nghiệp nằm
trong tổng thể chiến lƣợc, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Hơn nữa, nhu cầu về các sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp của xã hội thì
nhiều vô hạn, trong khi đó nguồn tài chính của Nhà nƣớc giành cho các hoạt
động này lại bị hạn chế bởi ngân sách nhà nƣớc cũng nhƣ mối quan hệ với các
nhu cầu chi tiêu khác của Nhà nƣớc. Chính vì thế, cung sản phẩm, dịch vụ sự

8
nghiệp luôn thấp hơn nhu cầu và việc xác định phải cung cấp các loại sản
phẩm, dịch vụ sự nghiệp với quy mô bao nhiêu luôn là vấn đề hóc búa của các
Nhà nƣớc.
Thứ tư, sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp có tính ích lợi chung và
lâu dài:
Sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra chủ yếu là những giá
trị về tri thức, văn hóa, phát minh, sức khỏe, đạo đức, các giá trị về xã hội
Đây là những sản phẩm thƣờng mang lại lợi ích cho nhiều ngƣời, cho nhiều
đối tƣợng trên phạm vi rộng. Nhiều sản phẩm sự nghiệp có tác dụng lâu dài
nhƣ các phát minh khoa học, các giá trị văn hóa, trình độ học vấn, kỹ
năng lao động…
Nhìn chung, đại bộ phận các sản phẩm do hoạt động sự nghiệp tạo ra là
sản phẩm có tính phục vụ không chỉ bó hẹp trong một ngành hoặc một lĩnh
vực nhất định, những sản phẩm đó khi tiêu dùng thƣờng có tác dụng lan toả
và đƣợc sử dụng đi, sử dụng lại nhiều lần.
1.1.1.3 Phân loại hoạt động sự nghiệp
Hoạt động sự nghiệp trong xã hội rất đa dạng, phong phú và có thể
phân loại chúng theo nhiều tiêu thức khác nhau.
- Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, các hoạt động sự nghiệp đƣợc chia thành:

+ Sự nghiệp kinh tế: Là hoạt động sự nghiệp nhằm phục vụ trực tiếp
hoặc gián tiếp cho yêu cầu sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho các ngành kinh
tế hoạt động bình thƣờng, thuận lợi.
+ Sự nghiệp văn hóa xã hội (gọi tắt là sự nghiệp văn xã): Là các hoạt
động phục vụ cho các yêu cầu phát triển của xã hội về văn hóa, sức khỏe và
các nhu cầu về đời sống tinh thần của nhân dân.
- Căn cứ vào đặc điểm nguồn tài chính đảm bảo cho hoạt động sự
nghiệp, hoạt động sự nghiệp đƣợc chia thành:
+ Hoạt động sự nghiệp không có thu: Là hoạt động do Nhà nƣớc đảm

9
bảo hoàn toàn nhu cầu tài chính. Những hoạt động này thƣờng là những hoạt
động cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho xã hội, phạm vi tiêu dùng rộng rãi và
chỉ có Nhà nƣớc mới có thể thực hiện một cách hiệu quả nhất. Thuộc về
những hoạt động này gồm có các hoạt động về văn hóa tuyên truyền, giáo dục
tiểu học, đào tạo, khoa học, y tế cho ngƣời nghèo, đảm bảo xã hội,
+ Hoạt động sự nghiệp có thu: Là những hoạt động mà nguồn tài chính
đảm bảo vừa do Nhà nƣớc cung cấp, vừa do ngƣời tiêu dùng đóng góp một
phần dƣới dạng phí, lệ phí. Những hoạt động này thƣờng là những hoạt động
cung cấp các dịch vụ có tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất và đời sống
mà ngƣời tiêu dùng có thể trả tiền do họ thấy ngay hiệu quả sử dụng dịch vụ,
hoặc là họ muốn nhận đƣợc những dịch vụ có phí phân biệt theo chất lƣợng.
- Căn cứ vào tính chất hoạt động của chúng, hoạt động sự nghiệp đƣợc
chia thành:
+ Hoạt động sự nghiệp thƣờng xuyên: Là những hoạt động đƣợc tổ
chức và duy trì hoạt động liên tục và xã hội luôn luôn có nhu cầu tiêu dùng
sản phẩm dịch vụ của nó, bất luận điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai
đoạn nhƣ thế nào. Thuộc về hoạt động sự nghiệp thƣờng xuyên là các hoạt
động về giáo dục tiểu học, đào tạo, khoa học, y tế, văn hóa …
+ Hoạt động sự nghiệp không thƣờng xuyên: Là những hoạt động sự

nghiệp để thực hiện các chƣơng trình cụ thể của Nhà nƣớc trong một giai
đoạn nhất định.
1.1.1.4 Vai trò của hoạt động sự nghiệp trong nền kinh tế thị trƣờng
Trong thời đại ngày nay, một nƣớc giầu hay nghèo, lạc hậu hay phát
triển không phải chỉ phụ thuộc vào khối lƣợng hàng hóa tƣ nhân mà ngƣời
dân có đƣợc do trao đổi trên thị trƣờng, mà còn phụ thuộc vào khối lƣợng
phúc lợi xã hội mà họ đƣợc hƣởng, trong đó có các sản phẩm, dịch vụ do hoạt
động sự nghiệp cung cấp. Hơn nữa, tiềm năng phát triển nhanh hay chậm

10
trong tƣơng lai của một nƣớc không những do số lƣợng lao động, tài nguyên
thiên nhiên và vốn đã tích lũy đƣợc quyết định, mà chủ yếu là do khả năng
phát huy tiềm năng sáng tạo của con ngƣời chi phối. Tiềm năng sáng tạo này
nằm trong các yếu tố cấu thành con ngƣời về trình độ văn hóa, tri thức khoa
học, thể lực, tâm hồn, đạo đức lối sống, thị hiếu, thẩm mỹ, giao tiếp của mỗi
cá nhân và của cả cộng đồng… Đa phần yếu tố cấu thành tiềm năng sáng tạo
của con ngƣời do hoạt động sự nghiệp cung cấp trong quá khứ, hiện tại và
tƣơng lai.
Hoạt động sự nghiệp là động lực to lớn giúp dân tộc bảo tồn và phát
triển văn hóa, truyền thống, các giá trị đạo đức.
Hoạt động sự nghiệp đóng vai trò động lực cải cách, đổi mới, phát triển
giáo dục - đào tạo. Đảng ta đã khẳng định quan điểm khoa học công nghệ
cùng với giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu trong phát triển đất nƣớc.
Thể dục - thể thao là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát
triển khoa học xã hội của Đảng và Nhà nƣớc ta nhằm bồi dƣỡng và phát huy
nhân tố con ngƣời, góp phần tích cực nâng cao sức khoẻ, thể lực, giáo dục
nhân cách, đạo đức lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa, tinh
thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu của
các lực lƣợng vũ trang. Đảng ta đã khẳng định “Sức khỏe là vốn quý của mỗi
con ngƣời và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc”. Hoạt động sự nghiệp có vai trò quan trọng trong lĩnh vực này.
1.1.2 Đơn vị sự nghiệp
1.1.2.1 Khái niệm
Trong nền kinh tế-xã hội, để thực hiện các hoạt động sự nghiệp cần có
các tổ chức tiến hành các hoạt động đó, các tổ chức này đƣợc gọi là đơn vị sự
nghiệp (ĐVSN). Tuy nhiên, theo ngôn ngữ quen dùng ở Việt Nam, ĐVSN
thƣờng phải là các cơ quan của Nhà nƣớc.

11
“Chƣơng trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan
hành chính nhà nƣớc và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2004-2005”, ban
hành theo Quyết định số 08/2004/QĐ-TTg ngày 15/01/2004 của Thủ tƣớng
Chính phủ đã xác định: ĐVSN là một loại hình đơn vị đƣợc Nhà nƣớc ra
quyết định thành lập, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhất định nhằm thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nƣớc giao trên lĩnh vực quản lý,
thực hiện các hoạt động sự nghiệp. Đó là đơn vị thuộc sở hữu nhà nƣớc, hoạt
động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hóa, thông tin, nghiên cứu
khoa học, y tế, không theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh [24].
ĐVSN thuộc khu vực phi lợi nhuận, sự chi tiêu của các đơn vị này,
theo con mắt của các nhà quản lý tài chính nhà nƣớc, mất đi, không thu hồi lại
đƣợc vốn gốc, mặc dù các đơn vị này vẫn tính khấu hao tài sản cố định. Trong
quá trình hoạt động, các ĐVSN đƣợc Nhà nƣớc trang trải kinh phí đáp ứng
nhu cầu chi tiêu từ ngân sách nhà nƣớc hoặc đƣợc bổ sung từ các nguồn khác.
Đặc điểm hoạt động của các ĐVSN là rất đa dạng, bắt nguồn từ nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội và vai trò của Nhà nƣớc trong nền kinh tế thị
trƣờng. Mục đích hoạt động của các ĐVSN là phục vụ lợi ích cộng đồng, xã
hội, đất nƣớc. Trong quá trình cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cho xã hội,
các ĐVSN đƣợc phép tạo lập nguồn thu nhập nhất định thông qua các khoản
thu phí và các khoản thu từ cung ứng dịch vụ do Nhà nƣớc quy định để trang
trải các khoản chi tiêu. Quản lý tài chính ĐVSN phải tuân thủ theo những quy

định pháp lý của Nhà nƣớc. Tùy theo đặc điểm tạo lập nguồn thu của các
ĐVSN, Nhà nƣớc áp dụng cơ chế tài chính thích hợp để các ĐVSN thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Phù hợp với xu hƣớng cải cách khu vực
công trong bối cảnh hội nhập, Nhà nƣớc thực hiện chính sách đổi mới cơ chế
quản lý tài chính đối với các ĐVSN theo hƣớng nâng cao quyền tự chủ tài
chính nhằm nâng cao chất lƣợng dịch vụ công phục vụ xã hội.

12
ĐVSN có những đặc điểm khác với cơ quan hành chính. Cơ quan hành
chính là những tổ chức cung cấp trực tiếp các dịch vụ hành chính công cho
ngƣời dân khi thực hiện chức năng quản lý Nhà nƣớc của mình. Các dịch vụ
hành chính công đƣợc cung cấp theo luật định, với chất lƣợng đồng nhất cho
mọi ngƣời tiêu dùng và đƣợc chi trả trực tiếp bằng ngân sách nhà nƣớc. Dịch
vụ hành chính công là chức năng của cơ quan hành chính Nhà nƣớc, là trách
nhiệm và nghĩa vụ của bộ máy Nhà nƣớc với nhân dân và chỉ có Nhà nƣớc
(chứ không có một tổ chức tƣ nhân nào khác) có đủ thẩm quyền thực hiện
chức năng đó. Nhà nƣớc với tƣ cách là một tổ chức công quyền phải có nghĩa
vụ cung cấp các dịch vụ này cho nhân dân, còn ngƣời dân có nghĩa vụ đóng
góp cho Nhà nƣớc dƣới hình thức thuế. Nhƣ vậy, quan hệ trao đổi các dịch vụ
hành chính công không phản ánh quan hệ thị trƣờng, mà phản ánh quan hệ
nghĩa vụ của Nhà nƣớc và phƣơng tiện thực hiện nghĩa vụ do xã hội công dân
cung cấp. Ngƣời sử dụng dịch vụ có thể trả một phần hoặc không phải trả tiền
cho việc sử dụng dịch vụ đó, nhƣng phải đóng thuế để chi trả cho chúng.
Chính vì vậy cơ quan hành chính chỉ đƣợc tự chủ tài chính trong phần kinh
phí ngân sách nhà nƣớc cấp (cơ chế khoán chi), không đƣợc tự do mở rộng
dịch vụ và nguồn thu. Dịch vụ và nguồn thu là cố định theo luật.Trong khi đó,
dịch vụ của ĐVSN cung ứng có thể cạnh tranh với khu vực tƣ nhân và cung
ứng theo nhu cầu nên các đơn vị này đƣợc phép khai thác và mở rộng nguồn
thu từ các hoạt động sự nghiệp của mình. Đặc điểm khác biệt này cho phép
ĐVSN có thể hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính.

ĐVSN có những điểm khác với loại hình doanh nghiệp. Trong kinh tế
thị trƣờng, các doanh nghiệp phải tuân thủ nguyên tắc hạch toán kinh doanh,
hƣớng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận bằng cách tự bù đắp đủ chi phí và có
lãi. Doanh nghiệp phải hoạt động theo quy luật thị trƣờng. ĐVSN không hoàn
toàn hoạt động theo cơ chế thị trƣờng và không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng
đầu của mình.

13
Lĩnh vực sự nghiệp tạo ra những sản phẩm đặc biệt vừa mang tính phục
vụ chính trị-xã hội, vừa mang tính hàng hóa đòi hỏi phải bù đắp chi phí. Với
chức năng phục vụ xã hội, sản phẩm của hoạt động sự nghiệp không thể đo
bằng giá trị tiền tệ hữu hình. Những đơn vị tạo ra sản phẩm đó không thể và
càng không hạch toán đƣợc lỗ lãi đơn thuần bởi sản phẩm của nó thuộc chức
năng phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. Mặt khác, mỗi sản phẩm này đều
mang trong nó giá trị đã hao phí để tạo ra nó. Để tái sản xuất giản đơn, các
ĐVSN phải thu lại từ ngân sách nhà nƣớc và từ chi trả của ngƣời hƣởng thụ.
Hiệu quả hoạt động của ĐVSN không đơn thuần đo đếm bằng tiền, mà
thƣờng đƣợc tính bằng các giá trị phi tiền tệ. Chính vì thế, việc đánh giá hiệu
quả hoạt động của các ĐVSN thƣờng khó khăn.
1.1.2.2 Các loại hình đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam
* Căn cứ vào vị trí
- ĐVSN ở Trung ƣơng là những ĐVSN trực thuộc Chính phủ nhƣ
TTXVN, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, các bệnh viện,
trƣờng học, các nhà xuất bản quốc gia…
- ĐVSN ở địa phƣơng nhƣ đài phát thanh truyền hình ở địa phƣơng,
các bệnh viện, trƣờng học, do địa phƣơng quản lý,
* Căn cứ vào từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp cụ thể
- ĐVSN giáo dục, đào tạo.
- ĐVSN y tế (Bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân)
- ĐVSN văn hóa, thông tin

- ĐVSN phát thanh, truyền hình
- ĐVSN dân số-trẻ em, kế hoạch hóa gia đình
- ĐVSN thể dục, thể thao
- ĐVSN khoa học công nghệ, môi trƣờng
- ĐVSN kinh tế (Duy tu, sửa chữa đê điều, trạm trại, )
- Đơn vị sự nghiệp khác.

14
* Căn cứ vào nguồn thu
- Đơn vị sự nghiệp không có thu: Là đơn vị đƣợc Nhà nƣớc cấp toàn bộ
kinh phí để đảm bảo hoạt động của đơn vị và kinh phí đƣợc cấp theo nguyên
tắc không hoàn lại trực tiếp.
- ĐVSN có thu gồm hai loại:
+ ĐVSN có thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thƣờng xuyên:
Là đơn vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp ổn định, bảo đảm đƣợc toàn
bộ chi phí hoạt động thƣờng xuyên, ngân sách nhà nƣớc không phải cấp kinh
phí cho hoạt động thƣờng xuyên cho đơn vị.
+ ĐVSN có thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thƣờng xuyên:
Là đơn vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp nhƣng chƣa tự trang trải toàn
bộ chi phí hoạt động thƣờng xuyên, ngân sách nhà nƣớc phải cấp một phần
chi phí cho hoạt động thƣờng xuyên của đơn vị.
1.1.2.3 Quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp trong nền kinh tế thị trƣờng
Quản lý là yêu cầu tất yếu để đảm bảo sự hoạt động bình thƣờng của
mọi quá trình và hệ thống kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị có sự tham gia tự
giác của nhiều ngƣời. Thực chất của quản lý là thiết lập và thực hiện hệ
thốngcác phƣơng pháp và biện pháp khác nhau của chủ thể quản lý để tác
động một cách có ý thức tới đối tƣợng quản lý nhằm đạt tới kết quả nhất định.
Quản lý bao gồm nhiều phƣơng diện nhƣ quản lý công nghệ, quản lý
thƣơng mại, quản lý nhân sự, quản lý tài chính…Quản lý tài chính là hoạt
động của chủ thể quản lý trong lĩnh vực tài chính nhằm sử dụng nguồn tài sản

dƣới hình thái tiền, giấy tờ có giá của một đơn vị, tổ chức vừa đảm bảo cho
đơn vị, tổ chức hoạt động bình thƣờng, vừa đảm bảo cho nguồn tài chính sử
dụng tiết kiệm và sinh lợi nhiều nhất.
Chủ thể quản lý tài chính ĐVSN gồm cơ quan nhà nƣớc chuyên trách,
bộ phận quản lý tài chính trong ĐVSN.

15
* Quản lý tài chính ĐVSN từ phía Nhà nước
Tùy theo tổ chức bộ máy nhà nƣớc trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể,
có các cơ quan nhà nƣớc trực tiếp quản lý tài chính ĐVSN khác nhau. Hiện
nay, cơ quan chuyên trách quản lý tài chính các ĐVSN ở trung ƣơng là Bộ
Tài Chính, Bộ chủ quản, ở địa phƣơng là Sở Tài chính và Sở chủ quản.
Mục tiêu của Nhà nƣớc trong quản lý tài chính các ĐVSN là đề ra
chính sách, chế độ, quy chế hoạt động tài chính phù hợp với luật pháp và chức
năng, nhiệm vụ của ĐVSN.
* Quản lý tài chính ở ĐVSN
Chủ thể quản lý tài chính là các bộ phận chuyên trách về tài chính trong
các ĐVSN. Thông thƣờng, đó là bộ phận kế toán-tài vụ. Nếu trong ĐVSN còn
có các đơn vị độc lập có tƣ cách pháp nhân thì đơn vị trực thuộc đó cũng tiến
hành quản lý tài chính trong đơn vị mình. Mục tiêu quản lý tài chính của
ĐVSN là sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ nhà nƣớc và tiết kiệm nguồn
tài chính của mình.
1.2 Cơ sở pháp lý của đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam
1.2.1 Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài
chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu
Cơ chế tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu ra đời trong quá trình
thực hiện tách chức năng quản lý nhà nƣớc với chức năng điều hành các đơn
vị sự nghiệp dịch vụ công để hoạt động theo các cơ chế riêng, phù hợp, có
hiệu quả; xóa bỏ cơ chế cấp phát tài chính theo kiểu “xin-cho”, ban hành các
cơ chế, chính sách thực hiện chế độ tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp

có điều kiện nhƣ trƣờng đại học, bệnh viện, viên nghiên cứu v.v Ngày
16/01/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về cơ chế
tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu đã đƣợc hƣớng dẫn tại thông tƣ
05/TT-BTC ngày 21/3/2002 với một số nội dung chính nhƣ sau:

16
Thứ nhất: Đơn vị sự nghiệp có thu tự chủ tài chính, chủ động bố trí
kinh phí để thực hiện nhiệm vụ, đƣợc ổn định kinh phí hoạt động thƣờng
xuyên theo định kỳ 3 năm và hàng năm đƣợc tăng thêm theo tỷ lệ do Thủ
tƣớng Chính phủ quyết định.
Thứ hai: Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc vay tín dụng để mở rộng và
nâng cao chất lƣợng hoạt động sự nghiệp và tự chịu trách nhiệm trả nợ vay
theo qui định của pháp luật.
Thứ ba: Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc giữ lại khấu hao cơ bản và tiền
thu thanh lý tài sản để tăng cƣờng cơ sở vật chất cho đơn vị.
Thứ tư: Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc chủ động sử dụng số biên chế
đƣợc cấp có thẩm quyền giao, thực hiện chế độ hợp đồng lao động theo qui
định của Bộ Luật lao động.
Thứ năm: Thủ trƣởng đơn vị đƣợc quyết định mức chi quản lý, chi
nghiệp vụ cao hoặc thấp hơn mức chi do Nhà nƣớc qui định.
Thứ sáu: Đơn vị sự nghiệp có thu đƣợc tính quĩ tiền lƣơng để trả cho
ngƣời lao động trên cơ sở tiền lƣơng tối thiểu tăng không quá 2,5 lần (đối với
đơn vị tự bảo đảm chi phí hoạt động) và không quá 2 lần (đối với đơn vị tự
đảm bảo một phần chi phí) tiền lƣơng tối thiểu chung do Nhà nƣớc qui định.
Thứ bảy: Kinh phí ngân sách nhà nƣớc bảo đảm hoạt động thƣờng
xuyên và các khoản thu sự nghiệp, cuối năm chƣa chi hết đơn vị đƣợc chuyển
sang năm sau để tiếp tục chi.
Thứ tám: Hàng năm, căn cứ vào kết quả hoạt động tài chính, đơn vị
đƣợc trích lập 4 quĩ: Quĩ dự phòng ổn định thu nhập, Quĩ khen thƣởng, Quĩ
phúc lợi, Quĩ phát triển hoạt động sự nghiệp.

Thứ chín: Khi Nhà nƣớc điều chỉnh mức tiền lƣơng tối thiểu hoặc thay
đổi định mức chi, chế độ, tiêu chuẩn chi ngân sách nhà nƣớc, đơn vị sự
nghiệp có thu tự bảo đảm trang trải các khoản chi tăng thêm, từ các nguồn:

17
Thu sự nghiệp, các khoản tiết kiệm chi, các quỹ của đơn vị và kinh phí ngân
sách nhà nƣớc cấp tăng thêm hàng năm (đối với các đơn vị tự bảo đảm một
phần chi phí).
Nhìn chung, sau khi chuyển sang thực hiện cơ chế tự chủ tài chính theo
Nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ, quan hệ giữa đơn vị sự nghiệp
và các cơ quan quản lý nhà nƣớc đã có sự thay đổi cơ bản, đơn vị sự nghiệp
đã chủ động sắp xếp tổ chức, bộ máy, lao động theo yêu cầu công việc, chủ
động xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, chủ động phân bổ nguồn tài chính của
đơn vị theo nhu cầu chi tiêu của từng lĩnh vực trên tinh thần tiết kiệm, thiết
thực hiệu quả, giảm sự can thiệp trực tiếp của cơ quan chủ quản, cơ quan tài
chính. Một số đơn vị đã thực hiện vay tín dụng để đầu tƣ mở rộng hoạt động.
Yêu cầu về công khai, minh bạch trong tổ chức sắp xếp công việc, nhân sự và
chi tiêu tài chính đã đƣợc thực hiện, tạo không khí đoàn kết, phấn khởi, tin
tƣởng trong nội bộ đơn vị. Qua thời gian thực hiện, đã đạt đƣợc một số kết
quả nhƣ sau:
- Việc giao quyền tự chủ cho đơn vị sự nghiệp có thu là bƣớc quan
trọng nhằm phân biệt rõ chức năng nhiệm vụ của cơ quan hành chính và đơn
vị sự nghiệp;
- Thay đổi phƣơng thức quản lý theo hƣớng trao quyền tự chủ về
quản lý biên chế, lao động, hoạt động chuyên môn, quản lý tài chính cho
đơn vị sự nghiệp.
- Các đơn vị sự nghiệp đã chủ động linh hoạt tổ chức hoạt động dịch vụ
để thu hút đƣợc nhiều ngƣời tham gia hƣởng thụ các dịch vụ công cộng với
chất lƣợng cao và chi phí hợp lý.
- Sắp xếp tổ chức bộ máy, biên chế và thực hiện hợp đồng lao động

theo hƣớng tinh gọn, hiệu quả; giảm dần áp lực về biên chế, tháo gỡ khó khăn
cho đơn vị do có nhu cầu lao động lớn, nhƣng đƣợc giao biên chế thấp.

×