. .
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, với vị trí là một quốc gia
đang phát triển, việc nhận trợ cấp từ nước ngoài để phát triển nền kinh tế còn lạc
hậu trong nước là một trong những giải pháp thiết yếu của Việt Nam. Trình bày hội
nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam ngày 6 -7/12/2006, đại diện chính
phủ Việt Nam khẳng định, trong 5 năm qua, vốn ODA đó trở thành nguồn vốn bổ
sung quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
Nguồn vốn ODA đó hỗ trợ đắc lực cho phát triển hạ tầng cơ sở ở Việt Nam,
đồng thời là sự phát triển về mặt xã hội trong thời kì xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bằng việc tiếp nhận và triển khai vốn ODA, nền kinh tế Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tích nổi bật, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Tuy nhiên do
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, việc thu hút và sử dụng vốn ODA vẫn
còn nhiều hạn chế và bất cập.
Theo nhận định của chính phủ, giai đoạn 2005 - 2009, trong bối cảnh ODA
thế giới có nhiều thuận lợi nhưng còn nhiều thách thức, Việt Nam tiếp tục có một số
lợi thế để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, song đi cung với nó là không ít những
khó khăn cần khắc phục để đạt được hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn trên,
tình trạng biến Việt Nam trở thành “ con nợ ” đồng thời thúc đẩy quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong tiểu luận dưới đây, dưới góc nhìn của học viên cùng với tài liệu tham
khảo, và những đánh giá của các chuyên gia kinh tế, nhóm xin trình bày một vài ý
kiến về vấn đề thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam, về thực trạng cũng như
giải pháp.
Do thời gian có hạn, cũng như khả năng nắm bắt vấn đề còn hạn chế, bài tiểu
luận không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, nhóm rất mong nhận được ý
kiến đóng góp, khắc phục từ các thầy cô và các bạn.
. 1 .
. .
1. Tình hình nguồn vốn ODA từ 2005 - 2009
1.1 Khái niệm và cách hiểu sơ lược về nguồn vốn “Hỗ trợ phát triển chính
thức” hay được biết đến với cụm từ viết tắt ODA (Official Development
Assistance) ODA một hình thức đầu tư nước ngoài.
Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi
suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát
triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng
cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước
vay. Vốn ODA được phân bổ theo dự án, chính phủ nhận viện trợ lên danh sách các
lĩnh vực kêu gọi vốn viện trợ phát triển, hàng năm chính phủ họp với nhà tài trợ
(hội nghị tư vấn các nhà tài trợ) để kêu gọi tài trợ, các nhà tài trợ sẽ xác định lĩnh
vực cần viện trợ, xây dựng dự án và tài trợ theo dự án.
Một vài điều kiện chủ yếu để một nguồn vốn được thừa nhận là vốn ODA.
- Lãi suất thấp (dưới 3%, trung bình từ 1-2%/năm).
- Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả
và thời gian ân hạn 8-10 năm).
- Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là
25% của tổng số vốn ODA.
1.2 Tình hình tiếp nhận ODA của Việt Nam từ 2005- 2009.
Năm 1993 được lấy làm mốc kể từ ngày Việt Nam bắt đầu tiếp nhận nguồn viện trợ
phát triển chính thức (ODA) từ các nhà tài trợ song phương, đa phương cũng như
các tổ chức phi chính phủ. Đa phần vốn vay ODA ưu đãi đều dùng cho công cuộc
xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn, giao thông vận tải và thông
tin liên lạc. Hiện nay, ngân hàng thế giới là cơ quan viện trợ đa phương lớn nhất,
Nhật Bản là quốc gia viện trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam. Xét về viện trợ
không hoàn lại thì Pháp là lớn nhất và Đan Mạch là thứ nhì. Ngoài ra theo số liệu
đến năm 2008, hiện có trên 50 Nhà tài trợ song phương và đa phương đã cung cấp
nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam với mức cam kết năm sau
cao hơn năm trước tổng cộng trên 42 tỷ USD.
Các ngành nghề được hưởng ODA nhiều nhất ở VN là các ngành thuộc hạ tầng:
Giao thông, đô thị, nước sạch và môi trường; thuộc lĩnh vực xoá đói giảm nghèo,
thuộc lĩnh vực phát triển con người (y tê/ giáo dục), nông nghiệp (thuỷ sản). Vốn
ODA đã có những đóng góp quan trọng trong xóa đói giảm nghèo và hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn tại Việt Nam. Điển hình như sau tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ
mức 58% vào năm 1983 xuống còn 37% năm 1998; 28,9% năm 2002 và ước dưới
10% năm 2004. Kết quả này cho thấy Việt Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ (MDGs) mà nước ta cam kết với thế giới.
Số liệu về tình hình cam kết ODA và thực hiện ODA của nước ta từ năm 2005 -
2008 (đơn vị: tỷ usd)
Năm 2005 2006 2007 2008
Cam kết 3.44 3.75 4.5 5.426
Thực hiện 1.853 1.8 2 2.2
%THiện 53.9 48 44.44 40.55
% tăg vốn CKết 21.55 9.01 20 20.58
Qua bảng trên ta nhận thấy tốc độ tăng trưởng khả năng thu hút vốn ODA của nước
. 2 .
. .
ta tăng với tốc độ khá nhanh và ổn định trong suốt giai đoạn từ 2005- 2008 mặc dù
có một giai đoạn ngắn tăng trưởng âm nhưng giai đoạn này trùng với cuộc khủng
hoảng kinh tế đặc biệt là sự mất giá của đồng yên Nhật mà Nhật là nước tài trợ
ODA lớn nhất của Việt Nam nên có thể chấp nhận được. Đặc biệt tăng cao vào giai
đoạn từ 2005- 2008 thời điểm này trùng với giai đoạn trước và sau khi Việt Nam
gia nhập WTO.
Tuy khả năng thu hút ODA của chúng ta tăng trưởng ở mức khá nhưng việc thực
hiện vốn cam kết hay nói cách khác là tốc độ giải ngân của Việt Nam còn chậm và
chưa đạt được hiệu quả cao và đang có xu hướng sút giảm trong thời gian 3 năm trở
lại đây. Tốc độ giải ngân chậm gây ra việc lãng phí, thất thoát vốn gây ra gánh nặng
nợ không cần thiết cho thế hệ sau và gây ảnh hưởng xấu cho khả năng thu hút các
nguồn đầu tư quốc tế khác.
2. Ưu ,nhược điểm có thể có khi sử dụng nguồn vốn ODA đối với Việt Nam
2.1 Ưu điểm:
Ta có thể dễ dàng nhận thấy những ưu điểm của nguồn vốn này qua nhưng đặc
điểm hay cũng như yêu cầu để một nguồn vốn đầu tư nước ngoài được gọi là ODA
đã được nêu ở trên.
• Thứ nhất: Đây là nguồn vốn viện trợ không hoàn lại hoặc với lãi suất rất thấp và
có thời hạn rất dài cho nên chúng ta có thể tận dụng để phát triển cơ sở hạ tầng qua
đó tạo môi trường thuận lợi thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác như FDI
hay các nguồn vốn tài trợ khác của các công ty, tổ chức kinh tế quốc tế khác. Điển
hình thông qua các dự án ODA, hệ thống đường bộ được phát triển đáng kể từ quốc
lộ 1A, 10, 18, 9, đường xuyên á (đoạn Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài), các cầu
lớn (Mỹ Thuận, Cần Thơ, Thanh Trì, Bính...); nâng cấp và mở rộng các cảng biển
như Cái Lân (Hải Phòng), Sài Gòn, Tiên Sa (Đà Nẵng), xây dựng cảng hàng không
quốc tế Tân Sơn Nhất, phát triển giao thông nông thôn ở hầu hết các tỉnh... Nguồn
vốn ODA đã đầu tư phát triển ngành điện bao gồm phát triển nguồn điện (các dự án
Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2-1, Ô Môn, Phả Lại 2, Hàm Thuận - Đa My, Đại Ninh, Đa
Nhim) và phát triển hệ thống đường dây 500 kV Plâyku - Nhà Bè, gần 50 trạm biến
áp của cả nước, cải tạo nâng cấp mạng lưới điện thành thị và nông thôn ở hơn các
tỉnh và thành phố.
• Thứ hai: Xoá đói giảm nghèo, phát triển xã hội.
• Thứ ba: Tăng cường bảo vệ môi trường và phát triển bền vững: Nhiều dự án ODA
hỗ trợ bảo vệ môi trường ở các thành phố lớn. Nhiều dự án ODA đã dành cho việc
tăng cường hệ thống cấp nước sạch ở đô thị và nông thôn; cải thiện hệ thống thoát
nước thải ở các thành phố lớn. Bảo tồn các di tích văn hóa hay cá danh lam thắng
cảnh.
• Thứ tư: tăng cường thể chế: ODA đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế
thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách
hành chính và xây dựng chính sách quản lý kinh tế theo lịch trình phù hợp với chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và lộ trình chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, tăng cường năng lực con người... Thông qua các dự án ODA, hàng ngàn
cán bộ Việt Nam được đào tạo và đào tạo lại; nhiều công nghệ sản xuất, kỹ năng
quản lý hiện đại được chuyển giao.
. 3 .
. .
• Thứ năm: quan hệ đối tác chặt chẽ: Quan hệ giữa phía Việt Nam và các nhà tài trợ
đã được thiết lập trên cơ sở quan hệ đối tác, đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp
nhận ODA thông qua các hoạt động hài hoà và tuân thủ các quy trình và thủ tục
ODA. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như phát triển các quan hệ đối tác
trong nông nghiệp, lâm nghiệp, hiệu quả viện trợ... nghiên cứu áp dụng các mô hình
viện trợ mới (hỗ trợ ngân sách, tiếp cận ngành,...), hài hoà quá trình chuẩn bị dự án,
thống nhất hệ thống báo cáo, hài hoà hoá quá trình mua sắm, tăng cường năng lực
toàn diện về quản lý ODA. Nước ta được lựa chọn là nước điển hình về tiến hành
hài hoà quy trình thủ tục ODA, tuân thủ hệ thống quản lý quốc gia về nâng cao hiệu
quả viện trợ. Các nhà tài trợ và Chính Phủ đã có nhiều hợp tác để nâng cao hiệu quả
viện trợ theo tuyên bố Hà Nội.
2.2 Nhược điểm:
• Do ODA có một phần là vốn vay với lãi suất thấp và thời hạn vay dài. Mặc dù ta
thừa nhận đây là 1 ưu điểm nổi trội của ODA tuy nhiên ta phải thừa nhận thực tế
vay thì phải đi kèm với nghĩa vụ trả nợ do thời hạn vay dài cho nên sẽ dẫn tới gánh
nặng nợ cho tương lai. Đây là 1 sự rủi ro tiềm ẩn đối với khả năng thanh toán của
một quốc gia và Việt Nam chúng ta cũng nằm trong tình trạng này.
• Điều thứ hai về nhược điểm của ODA và các nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận
khi sử dụng nguồn vốn này chính là những điều kiện của các nước cho ODA. Đó là
những điều kiện về mở rộng hàng rào thuế quan, sự phụ thuộc về thương mại quốc
tế. Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt
nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp
nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường,
các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù
không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức
nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia......
3. Tình hình thu hút và giải ngân vốn ODA ở các tỉnh Miền Đông Nam Bộ từ
năm 2005 – 2009
3.1 Tình hình thu hút vốn ODA
3.1.1 Định hướng ưu tiên kêu gọi và thu hút vốn ODA
Tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực sau đây:
• Chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp nông thôn bao gồm giống, thuỷ lợi, hỗ
trợ phát triển ngành nghề và phát triển năng lượng trong nông thôn.
• Xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp với quy mô 50 ha (giai đoạn 1
nhằm tạo điều kiện thu hút các nguồn lực bên ngoài để phát triển sản xuất
công nghiệp.
• Xây dựng hệ thống giao thông vận tải gồm các tuyến đường tỉnh lớn và giao
thông nông thôn.
• Đầu tư mua sắm trang thiết bị y tế để đảm bảo chất lượng khám chữa bênh
cho bệnh nhân dân.
• Nâng cấp các trường tiểu học và trung học cơ sở, mở rộng và nâng cao chất
lượng các trường dạy nghề., quan tâm dạy nghề phục vụ xuất khẩu lao động.
• Đầu tư các lĩnh vực công cộng và bảo vệ môi trường gồm xử lý thoát nước
khu trung tâm, một số công trình công cộng khu trung tâm tỉnh, cấp nước và
các khu dân cư.
. 4 .
. .
Kêu gọi vốn ODA cho các dự án sau:
1. Phát triển lưới điện nông thôn của 23 xã trong tỉnh: Cải tạo lưới điện hạ thế,
bao gồm khoảng 250 km đường dây và các trạm biến áp, nâng cao chất lượng
nguồn cấp. Khái toán vốn đầu tư: 42 tỷ đồng (35 triệu USD), đề nghị vốn ODA: 32
tỷ đồng (2,2 triệu USD).
2. Phát triển giao thông nông thôn: Nâng cấp đường giao thông nông thôn. Khái
toán vốn đầu tư: 140 tỷ đồng (9,6 triệu USD), đề nghị vốn ODA: 110 tỷ đồng (7,5
triệu USD).
3. Cung cấp nước sạch nông thôn: Phát triển hệ thống cấp nước sạch cho nhân
dân với mục tiêu 80% dân số được cấp nước sạch vào năm 2005. Khái toán vốn đầu
tư: 94,5 tỷ đồng (6,,5 triệu USD), đề nghị vốn ODA: 30 tỷ đồng (2 triệu USD).
4. Phát triển hệ thống vệ sinh môi trường nông thôn toàn tỉnh: Phát triển hệ
thống vệ sinh môi trường với mục tiêu 70% số hộ gia đình có công trình vệ sinh
đảm bảo và 50% hộ gia đình được xử lý chất thải vào năm 2005. Khái toán vốn đầu
tư: 150 tỷ đồng (10,3 triệu USD), đề nghị vốn ODA: 45 tỷ đồng (3,1 triệu USD).
5. Nâng cấp hệ thống kênh tưới cấp II+III: Xây dựng hệ thống kênh tưới cho
47000 ha đất nông nghiệp, đến năm 2005 cơ bản kênh cấp II và hơn 70% kênh cấp
III được kiên cố hóa. Khái toán vốn đầu tư: 250 tỷ đồng (17,2 triệu USD), đề nghị
vốn ODA: 110 tỷ đồng (7,5 triệu USD).
6. Xây dựng các trạm bơm đầu mối phục vụ tưới tiêu: Xây dựng các trạm bơm
đầu mối để đạt hệ số tưới tiêu 5,5–6 ha-s. Khái toán vốn đầu tư: 60 tỷ đồng (4,1
triệu USD), đề nghị vốn ODA: 45 tỷ đồng (3,1 triệu USD).
7. Nâng cấp các trường trung học: Cải tạo và nâng cấp 1400 phòng học từ các
nhà tạm cấp, cấp 4 lên kiên cố và cao tầng. Khái toán vốn đầu tư: 125 tỷ đồng (8,5
triệu USD), đề nghị vốn ODA: 40 tỷ đồng (2,7 triệu USD).
8. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo nghề: Mở rộng các trường dạy nghề
trên địa bàn tỉnh và các cơ sở dạy nghề theo hướng tăng số học sinh, lớp học, tăng
cường trang thiết bị vào các nghề cơ khí, vật liệu xây dựng, dệt, may... và các nghề
phục vụ xuất khẩu lao động. Khái toán vốn đầu tư: 30 tỷ đồng (2 triệu USD), đề
nghị vốn ODA: 25 tỷ đồng (1,7 triệu USD).
9. Nâng cấp các cơ sở y tế: Tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị cho bệnh
viện đa khoa và các trung tâm y tế. Khái toán vốn đầu tư: 45 tỷ đồng (3,1 triệu
USD), đề nghị vốn ODA: 30 tỷ đồng (2 triệu USD).
10. Xây dựng các tuyến đường: Cải tạo và nâng cấp 50% tuyến đường tỉnh thành
cấp III đồng bằng, xây dựng đường vành đai nối với các trung tâm huyện. Khái
. 5 .
. .
toán vốn đầu tư: 150 tỷ đồng (10,3 triệu USD), đề nghị vốn ODA: 120 tỷ đồng (8,3
triệu USD).
11. Dự án xây dựng các cầu qua sông: Xây dựng hệ thống các cầu trên tuyến
đường. Khái toán vốn đầu tư: 150 tỷ đồng (10,3 triệu USD), đề nghị vốn ODA: 100
tỷ đồng (6,9 triệu USD).
12. Cải tạo và phát triển hệ thống thoát nước: Cải tạo, xây dựng mới hệ thống
thoát nước và vệ sinh môi trường thị xã theo quy hoạch phát triển thị xã đến 2020
có 60.000 dân, gồm hệ thống thoát nước, trạm bơm, khu xử lý nước thải. Khái toán
vốn đầu tư: 45 tỷ đồng (3,1 triệu USD), đề nghị vốn ODA: 36 tỷ đồng (2,4 triệu
USD).
13. Xây dựng hệ thống xử lý chất thải: Xây dựng hệ thống xử lý chất thải. Khái
toán vốn đầu tư: 30 tỷ đồng (2 triệu USD), đề nghị vốn ODA: 20 tỷ đồng (1,4 triệu
USD).
14. Phát triển công trình công cộng: Xây dựng hệ thống các công trình công cộng
thị xã bao gồm đường nội bộ, khu vui chơi (vườn hoa, công viên...). Khái toán vốn
đầu tư: 35 tỷ đồng (2,4 triệu USD), đề nghị vốn ODA: 25 tỷ đồng (1,7 triệu USD).
15. Nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các trung tâm phục vụ xã
hội: Nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các trung tâm bảo trợ xã hội,
phòng chống tệ nạn xã hội. Khái toán vốn đầu tư: 43,5 tỷ đồng (3 triệu USD), đề
nghị vốn ODA: 30 tỷ đồng (2 triệu USD).
3.1.2 Thu hút vốn ODA năm 2009 (dự kiến sẽ đạt trên 5 tỉ USD)
Tổng lượng vốn ODA hiện thực hoá thành các dự án đã ký với các nhà tài trợ từ đầu
năm đến hết tháng 10 đạt 3,85 tỉ USD và dự kiến cả năm, tổng vốn ODA ký kết sẽ
đạt ở mức 5,056 tỉ USD, cho thấy các nhà tài trợ đặt khá nhiều kỳ vọng vào những
bước phát triển của kinh tế VN.
Trong tổng số vốn 5,914 tỉ USD mà các nhà tài trợ cam kết tại CG-2008, tổng lượng
vốn đã được ký kết đạt 3,85 tỉ USD (tính đến hết tháng 10.2009). Nguồn vốn ODA
đã được sử dụng đúng mục đích với những chương trình, dự án quan trọng được ký
kết tập trung chủ yếu vào lĩnh vực giao thông, cấp thoát nước và phát triển đô thị
như khoản vay hỗ trợ khắc phục tác động của khủng hoảng trị giá 500 triệu USD;
đường cao tốc TPHCM- Long Thành - Dầu Giây 410,20 triệu USD; dự án thoát
nước TP.Hà Nội giai đoạn 2.299,97 triệu USD...
Năm 2009, các nhà đầu tư đánh giá VN là quốc gia đối phó tốt với khủng hoảng
kinh tế và đang phục hồi nhanh chóng, sẽ sớm lấy lại đà tăng trưởng. Việt Nam là
quốc gia đang phát triển có mức thu nhập trung bình với GDP bình quân đầu người
đạt khoảng 1.200USD. Đây là tiền đề quan trọng để các nhà tài trợ tiếp tục đặt niềm
tin vào nền kinh tế VN.
. 6 .
. .
Tổng vốn ODA cung cấp cho VN năm 2010 dự kiến sẽ không giảm mà có thể tăng
lên, do sự xuất hiện của các kênh tín dụng mới với điều kiện kém ưu đãi hơn. Dự
kiến, tổng giá trị ODA ký kết tại hội nghị CG năm nay sẽ đạt khoảng 5,07 tỉ USD.
Các nhà tài trợ có khả năng ký các hiệp định giá trị lớn vẫn là các đối tác truyền
thống như WB, ADB và Nhật Bản, với giá trị khoảng 70 – 80%.
Bộ KHĐT dự kiến, nếu không có biến động lớn, tổng vốn ODA ký kết cho cả thời
kỳ 2006-2009 đạt khoảng 20 tỉ USD. Đây là mức vượt xa so với mục tiêu 12,35-
15,75 tỉ USD ký kết mới trong đề án của bộ trước đó về thu hút khoản viện trợ này.
Riêng lượng vốn ODA dự kiến giải ngân năm 2010 dự kiến đạt 2,47 tỉ USD - tăng
30% so với kế hoạch giải ngân 2009.
3.1.3 Thu hút nguồn vốn ODA trong thời kỳ 2006 – 2009
Trong thời kỳ 2006 - 2009, chủ trương thu hút và sử dụng ODA là tiếp tục
tranh thủ đi đôi với việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA,
bảo đảm khả năng trả nợ để hỗ trợ thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội từ năm 2006 - 2009.
Chính sách thu hút và quản lý ODA trong thời gian tới cần tập trung cải thiện
mạnh mẽ tình hình giải ngân các chương trình và dự án ODA đã ký kết, sớm đưa
các công trình vào khai thác và sử dụng, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ODA.
Đồng thời, xây dựng các chương trình, dự án ODA gối đầu cho giai đoạn sau năm
2010, đặt trọng tâm vào chất lượng và hiệu quả.
Để thực hiện chủ trương và chính sách sử dụng ODA nêu trên, các lĩnh vực ưu
tiên sử dụng nguồn vốn này là:
a) Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm
nghiệp, thủy sản) kết hợp xoá đói, giảm nghèo;
b) Xây dựng hạ tầng kinh tế đồng bộ theo hướng hiện đại;
c) Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục đào tạo, dân số phát triển và
một số lĩnh vực khác);
d) Bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên;
đ) Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao
công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
Cơ cấu sử dụng ODA theo ngành, lĩnh vực:
. 7 .
. .
Ngành, lĩnh vực
Cơ cấu ODA
thực hiện
2001 - 2005
Dự kiến
cơ cấu ODA
ký kết
2006 - 2010
Tổng ODA ký
kết
(Tỷ USD)
Nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp,
thủy sản kết hợp phát triển nông
nghiệp và nông thôn, xóa đói, giảm
nghèo
21% 21% 4,27 - 4,98
Năng lượng và công nghiệp 17% 15% 3,05 - 3,56
Giao thông, bưu chính viễn thông,
cấp thoát nước và đô thị
32% 33% 6,72 - 7,84
Y tế, giáo dục và đào tạo, môi
trường, khoa học công nghệ và các
ngành khác (bao gồm xây dựng thể
chế, tăng cường năng lực…)
30% 31% 6,31 - 7,37
Tổng 100% 100% 20,35 - 23,75
So với thời kỳ 2001- 2005, chính sách phân bổ nguồn vốn ODA trong thời kỳ
2006 - 2010 sẽ tiếp tục duy trì tỷ trọng ODA ở mức cao (21%) để hỗ trợ phát triển
nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xoá đói, giảm nghèo; tập trung
sử dụng vốn ODA vay ưu đãi (15%) để hỗ trợ phát triển hệ thống lưới điện và các
trạm phân phối; tăng tỷ trọng vốn ODA (33%) cho phát triển giao thông, bưu chính
viễn thông, cấp thoát nước và phát triển hạ tầng đô thị. Các lĩnh vực y tế, giáo dục
và đào tạo, môi trường, khoa học và công nghệ và các ngành khác tiếp tục giữ tỷ
trọng vốn ODA cao (31%).
3.1.4 Những chuyển biến tích cực trong thu hút ODA
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với những nỗ lực hợp tác giữa Bộ, ngành địa phương
Việt Nam và nhà tài trợ, tình hình vận động, thu hút và sử dụng vốn ODA sau một
thời gian chậm chạp đến nay đã có những chuyển biến tích cực.
Tổng giá trị vốn ODA được ký kết thông qua các Hiệp định với các nhà tài trợ tính
từ đầu năm đến ngày 15/7 đã đạt gần 2,2 tỷ USD, tăng 35,4% so với cùng kỳ năm
2008; trong đó vốn vay là trên 2 tỷ USD, vốn viện trợ là 92,4 triệu USD.
Tổng vốn ODA giải ngân trong 7 tháng ước đạt 1,5 tỷ USD, bằng 78% kế hoạch
năm.
. 8 .
. .
Với mục tiêu cải thiện tình hình thực hiện ODA thời kỳ 2008-2009, bên cạnh việc
tổ chức giao ban ODA với các Bộ, ngành, địa phương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức 2 đợt kiểm điểm tình hình thực hiện
của 20 dự án do WB tài trợ; phối hợp với Nhóm 6 ngân hàng phát triển thực hiện
các kiến nghị bao gồm 12 giải pháp "nóng" và kế hoạch hành động; phối hợp với
Nhóm Quan hệ đối tác về hiệu quả viện trợ (PGAE) trong nỗ lực thực hiện Chương
trình nghị sự về hiệu quả viện trợ.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết chính sự phối hợp chặt chẽ của các bên liên quan
đã khiến cho công tác chuẩn bị dự án, đàm phán và ký kết nhanh hơn; từ đó thúc
đẩy tiến độ thực hiện và nâng cao tỷ lệ giải ngân các chương trình, dự án.
Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một yếu tố không kém phần quan trọng dẫn đến
những chuyển biến tích cực, đó là kết quả đàm phán với Liên hợp quốc (UN) và
Liên minh châu Âu (EC) với việc thống nhất thông qua Hướng dẫn định mức chi
phí địa phương trong hợp tác phát triển tại Việt Nam của EU và UN - phiên bản
2009.
Đây là một thắng lợi trong việc xử lý vướng mắc do việc áp dụng định mức EU và
UN - phiên bản 2007 để từ đó đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân và nâng cao
chất lượng các chương trình dự án do EU và UN tài trợ tại Việt Nam.
3.2 Tình hình giải ngân vốn ODA
Năm 2005 là thời điểm đáng ghi nhớ vì đây là lần đầu tiên VN hoàn thành 100% kế
hoạch năm (giải ngân được 1,75 tỷ USD), kể từ khi các nhà tài trợ nước ngoài nối
lại các chương trình viện trợ cho VN từ năm 1993.
Còn năm 2006, Việt Nam đã giải ngân ODA tới 1,72 tỷ USD.
Tốc độ như thế này là đáng mừng, tạo động lực giúp Việt Nam giải ngân được
khoảng 11 tỷ USD vốn ODA trong giai đoạn từ nay đến 2010.
Theo đánh giá của Bộ KH - ĐT, với sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA, Việt Nam đã
hoàn thành đúng thời hạn một số luật rất quan trọng, đáp ứng yêu cầu cải cách thể
chế của WTO như các luật Đầu tư, Đấu thầu, Phòng chống tham nhũng…cũng như
xây dựng được những công trình lớn.
Tuy nhiên, tiến độ giải ngân ODA vẫn chưa tạo được sự bứt phá cần thiết.
Con số giải ngân kỷ lục này vẫn còn dưới mức Việt Nam cam kết với các nhà tài
trợ, và thấp hơn so với mức giải ngân trung bình của các nước khác trong khu vực.
Trong năm 2006, Việt Nam chỉ giải ngân được 13,3% tổng nguồn vốn trong các dự
án của World Bank, và 5,9% của ADB, so với tỷ lệ tương ứng là 19,3% và 7,29%
của các nước ASEAN.
. 9 .
. .
Với những yếu kém lâu nay như giải phóng mặt bằng, năng lực cán bộ, sự khác biệt
thủ tục...đã khiến những dự án ODA lớn, nhất là tại TP.HCM đang bị chậm trễ và
gây lãng phí lớn cho VN.
Nếu tỷ lệ giải ngân ODA của Việt Nam chỉ đạt mức như hiện nay, thì phải mất gần
10 năm Việt Nam mới có thể hấp thụ hết các cam kết ODA của 1 năm.
Năm 2006, giải ngân ODA của Việt Nam đạt 1,8 tỉ USD, năm 2007 đạt 2,0 tỉ
USD và dự kiến năm 2008 sẽ đạt 2,2 tỉ USD.
Hiện nay các công trình sử dụng vốn ODA đang được triển khai đúng kế hoạch nên
khả năng giải ngân năm 2008 hoàn toàn có thể thực hiện đúng tiến độ.
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 3 tháng đầu 2008, công tác vận
động thu hút vốn đầu tư ODA của Việt Nam có nhiều thuận lợi do Việt Nam được
đánh giá là một trong những nước sử dụng vốn ODA hiệu quả nhất.
Tính đến hết quý I/2008, tổng giá trị ODA ký kết thông qua các hiệp định cụ thể với
các nhà tài trợ đạt 369,06 triệu USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2007, trong đó
vốn vay đạt 342,69 triệu USD và vốn viện trợ không hoàn lại đạt 26,37 triệu USD.
Trong số này có những dự án tài trợ lớn như: ADB tài trợ cho dự án “Đường hành
lang ven biển phía Nam thuộc tiểu vùng Mê Kông mở rộng” 150 triệu USD; Nhật
Bản tài trợ “Chương trình ngân hàng - tài chính III” 75 triệu USD; dự án “Giáo dục
trung học cơ sở vùng khó khăn nhất” trị giá 50 triệu USD, “Chương trình tín dụng
hỗ trợ giảm nghèo lần thứ 6” (PRRSC6) trị giá 30,67 triệu USD...
Mặc dù gặp nhiều khó khăn do những biến động của thị trường, tình hình lạm phát
vẫn gia tăng, nhưng nhờ những nỗ lực và các giải pháp của Chính phủ đề ra nhằm
hoàn thiện thể chế về quản lý và sử dụng vốn ODA, tình hình thu hút vốn ODA
trong quý 2/2008 vẫn được đánh giá rất khả quan.
Theo Vụ Kinh tế đối ngoại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong quý 2/2008 này Việt Nam
sẽ ký với Nhật Bản các Hiệp định trị giá khoảng 1 tỷ USD cho một số dự án cơ sở
hạ tầng thiết yếu, ký với Liên minh châu Âu (EU) Hiệp định trị giá 10,8 triệu USD
cho Dự án: “Phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam”, ký với Cơ quan Phát
triển Pháp (AFD) Hiệp định trị giá 1,5 triệu Euro (khoảng 2,3 triệu USD) viện trợ
không hoàn lại cho Quỹ Đầu tư phát triển đô thị Tp.HCM (HIFU)... Ngoài ra còn
một số chương trình, dự án ODA đang hoàn tất thủ tục để đi đến ký kết.
Tuy nhiên, để cải thiện tình hình thực hiện và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA
năm 2008, các ngành các cấp cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số
02/2008/NQQ-CP ngày 9/1/2008 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ
đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán Ngân sách
Nhà nước năm 2008. Cụ thể cần tập trung vào 4 điểm sau:
Thứ nhất, các ngành, các địa phương tập trung rà soát lại các công trình sử dụng
vốn ODA do mình quản lý để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các
. 10 .