Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

ý nghĩa của việc cho trẻ tuổi ấu nhi thao tác với đồ vật với sự phát triển tâm lí trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.71 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM


BÀI TIỂU LUẬN
TÂM LÍ HỌC LỨA TUỔI VÀ SƯ PHẠM



Sinh viên thực hiện : Vò Tè Thoa
Lớp : K2- 05
Giảng viên : Trần Văn Tính



HÀ NỘI _12/ 09/ 05

Đề bài: ý nghĩa của việc cho trẻ tuổi Êu nhi thao tác với đồ vật với sự phát
triển tâm lí trẻ em.

Bài làm
A_Lí do viết bài :

Tõ xa xưa loài người đã quan tâm đến các hiện tượng tâm lí . Nhưng trong mét thời
gian dài tâm lí học chỉ là mét bộ phận của triết học. Đến thế kỉ 19 điều kiện lịch sử đã
thay đổi, nền kinh tế xã hội phát triển manh mẽ, do đó các ngành khoa học cũng không
ngừng phát triển, cùng với sự phát triển đó tâm lí học cũng phát triển mạnh mẽ và trở
thành một nghành khoa học độc lập khi phòng thực nghiệm tâm lí học và Wundt cuối thế
kỉ 19 ở Leipzig . từ đó nảy sinh ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu tâm lí có tính chất
riêng biệt, khiến nghành tâm lí học ứng dụng được phát sinh Tâm lí học lứa tuổi và tâm
lí học sư phạm _ sù ứng dụng tâm lí học vào sư phạm lứa tuổi_ là các chuyên nghành


phát triển sớm nhất của tâm lí học.

Có thể nói TLHLT & TLHSP cùng nghiên cứu về tâm lí con người ở các giai đoạn
khác nhau trong điều kiện sống và hoạt động của nã. TLHLT & TLHSP gắn bó chặt chẽ,
thống nhất với nhau , vì có chung khách thể nghiên cứu _ là những con người bình
thường ở những giai đoạn phát triển khác nhau : trẻ nhỏ thiếu niên, thanh niên …chúng là
khách thể của TLHLT, nếu ta nghiên cứu động thái của sự phát triển theo lứa tuổi. Nếu
chúng được nghiên cứu với tư cách là người được dạy và được giáo dục trong quá trình
tác động có mục đích của nhà giáo dục thì chúng là khách thể của TLHSP. Do vậy về mặt
nội dung chúng ta tháy có những phần thuộc về cả TLHLT&TLHSP. Nhưng nghiên cứu
TLHLT chỉ có thể có kết quả tốt nếu nó không dừng ở mức độ thực nghiệm mà được tiến
hành trong
những đìêu kiện cụ thể của việc dạy học và giáo dục trong điều kiện tự nhiên của đời
sống trẻ. Như vậy cả TLHLT & TLHSP đều nghiên cứu trẻ em trong quá trình dạy học
và giáo dục và cùng phục vụ đắc lực cho sù phát triển của trẻ.
Sau mét quá trình học tập và nghiên cứu môn TLHLT & TLHSP tôi đã có cánh
nhìn sâu hơn, chi tiết hơn, rõ ràng hơn về sự phát triển tâm lí của trẻ trong trong giai
đoạn. Đặc biệt khi nghiên cứu sâu về phần “đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ thời Êu
nhi”, tôi nhận thấy đây là thời kì trẻ có mét sù phát triển tâm lí khá thú vị, nhưng cũng có
vai trò rất quan trọng trong các thời kì phát triển tâm lí tiếp theo . Chính vì vậy tôi viết
bài tiểu luận này để trình bày về những hiểu biết của mình đối với giai đoạn phát triển
tâm lí của trẻ thời kì này.
B - Mục đích
Những quan sát hàng ngày cho thấy trẻ em rung cảm va suy nghĩ không giống với
người lớn. Trẻ nhỏ không làm được rất nhiều điều. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ trẻ
chưalàm được những gì? … Mà vấn đề cơ bản ở chỗ phải hiểu được đứa trẻ hiện có
những gì , có thể làm được những gì, nó sẽ thay đổi như thế nào, và sẽ có được những gì
trong quá trình sống và hoạt động theo lưá tuổi . Có hiểu được những điều đó mới hiểu
được nguyên nhân của những nét, những phẩm chất mơí đặc trưng cho nhân cách người
lớn. Mặt khác, mỗi lứa tuổi có khó khăn và thuận lợi riêng. Những khó khăn và thuận lợi

đó đòi hỏi phải có phương pháp đối xử riêng biệt, thích hợp với lứa tuổi. Có thể phương
pháp này thích hợp với trẻ nhỏ nhưng lại không áp dụng được với thiếu niên. Nếu không
chú ý đến điều đó thì giáo viên dù có am hiểu khoa học đến đâu cũng khó đạt được kết
quả tốt trong công tác của mình. Có thể khẳng định sự hiểu biết về TLHLT & TLHSP là
điều kiẹn cần thiết để tổ chức có hiệu quả và đúng đắn quá trình học tập và giáo dục. Tất
cả những thay đổi tõ mét đứa trẻ sơ sinh đến chỗ biết hành động theo mục đích đã định…
không mang tính chất ngẵu nhiên
mà diễn ra có quy luật, có nguyên nhân của nó. Nếu sù thay đổi ở một đúa trẻ nào đó diễn
ra sớm hơn hoặc muộn hơn hoăc không bình thường thì bao giờ cũng có nguyên nhân
nhất định. Những kiến thức TLHLT & TLHSP sẽ giúp ta tìm ra những nguyên nhân đó,
đưa ra được những biện pháp tác độnh hợp lý hơn và có ý thức hơn nhằm ngăn ngừa
những khuyết điểm đó hoặc những thất bại có thể xảy ra trong hoạt động của học sinh. Sù
hiểu biết về TLHLT & TLHSP là điều kiện cần thiết để tổ chức hiệu quả và đúng đắn quá
trình học tập và giáo dục. Những kiến thức về TLHLT & TLHSP giúp các nhà giáo dục
chuẩn đoán trước sự phát triển nhân cách trẻ từ đó định hướng được sự phát triển Êy. Đó
cũng chính là mục đích của tôi khi viết bài tiểu luận này với mong muốn tìm hiểu thêm
và có thêm hiểu biết , kiến thức trong việc nắm bắt được sù thay đổi trong tâm lí trẻ , đặc
biệt là giai đoạn trẻ tuổi Êu nhi . Để từ đó có thêm mét sè kinh nghiệm cần thiết treong
hoạt động công tác cũng như trong cuộc sống sau này .
C - Nội dung
Để nắm rõ được ý nghĩa của việc cho trẻ tuổi Êu nhi thao tác với đồ vật đối với sự
phát triển tâm lí trẻ em , tôi muốn trình bày mét sè những vấn đề về sự phát triển tâm lí
trẻ em.
Mét sè quan điểm về sự phát triển tâm lí trẻ em:
Dựa trên những quan điểm triết học khác nhau người ta hiểu về
trẻ em rất khác nhau có quan niệm cho rằng trẻ em là “ người lớn thu
nhỏ lại” , sù khác nhau giữa trẻ em và người lớn về mọi mặt ( cơ
thể , tư tưởng , tình cảm…) chỉ ở tầm cỡ , kích thước , chứ không
khác nhau về chất . Nhưng ngay từ thế kỉ 18 Rutxo đã nhận xét rất
tinh tế về những đặc điểm tâm lí của trẻ nhỏ . Theo ông, trẻ em

không phải là người lớn thu nhỏ lại và người lớn không phải lúc nào
cũng hiểu được trí tuệ nguyện vọng và tình cảm độc đáo của trẻ thơ
… vì “trẻ em có những cách nhìn, cách suy nghĩ và cảm nhận riêng
của nó”. Sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn là sự khác nhau về
chất. Những nghiên cứu của tâm lí học duy vật biện chứng đã
khẳng định: trẻ em là trẻ em, nã vận động và phát triển theo qui luật
của trẻ em. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời đứa trẻ đã là mét con
người, một thành viên của xã hội. Việc nuôi nấng dạy dỗ nó khác
con vật. Việc nó tiếp thu nền văn hoá xã hội loài người đòi hỏi phải
nuôi dạy nã theo kiểu người(trẻ phải được bú sữa mẹ, được ăn chín,
ủ Êm, nhất là được yêu thương…). Đồng thời ngay từ khi ra đời đứa
trẻ phải có nhu cầu đặc trưng của con người: nhu cầu giao tiếp vói
người lớn. Người lớn cúng có hình thức riêng, ngôn ngữ riêng để
giao tiếp với trẻ.
Còn quan điểm duy tâm coi sù phát triển tâm lí trẻ em chỉ là sự tăng lên hoặc giảm
đi về số lượng của các hiện tượng đang đươc phát triển mà khhông có sự chuyển biến vè
chất lượng. Ví dụ: họ coi sù phát truển tâm lí trẻ là sự tăng số lượng từ của trẻ, tăng tốc
độ hình thành kĩ xảo, tăng thời gian tập trung chú ý hay khối lượng tri thức được giữ lại
trong trí nhớ. Sù tăng về số lượng các hiện tượng tâm lí có ý nghĩa nhất định trong sù
phát triển của trẻ. Nhưng không thể giới hạn toàn bộ sù phát triển tâm lí của trẻ em chỉ
vào những chỉ số Êy. từ đó những người theo quan niệm này đã nhìn nhận không kém sai
lầm về nguồn gốc của sự phát triển tâm lí. Quan điểm sai lầm này được thể hiện rõ ràng ở
mét sè thuyết như thuyết tiền định, thuyết duy cảm, thuyết hội tụ hai yếu tố…
- Thuyết tiền định: những người theo thuyết này coi sù phát triển tâm lí là do tiềm
năng sinh vật gây ra và con người có tiềm năng đó ngay từ khi mới ra đời. Mọi đặc điểm
tâm lí chung và có tính chất cá thể đều là tiền định, đều có sẵn trong cấu tróc sinh vật và
sự phát triển chỉ là quá trình trưởng thành, chín muồi của những thuộc tính đã có sẵn
ngay từ đầu và được quyết định trước bằng con đường di truyền này. Nhưng gần đây sinh
học đã phát hiện ra cơ chế gen của di truyền, người ta còng bắt đầu nhận thấy những
thuộc tính của nhân cách, năng lực cũng đã được mã hoá, chương trình hoá trong các

trang bị gen.
Những người theo quan điểm này cũng nhắc tới yếu tố môi trường, song đó chỉ là
yếu tố có tính chất điều chỉnh và được coi như một nhân tố bất biến nào đó ở trẻ. Nhà tâm
lí học người Mỹ E. Toocđai cho rằng: Tự nhiên ban cho mỗi người một vốn nhất định,
giáo dục cần làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải sử dụng nã bằng phương tiện tốt nhất và
vốn tự nhiên đó đặt ra giới hạn cho sù phát triển, cho nên mét bộ phận học sinh không đạt
được kết quả nào dù có giảng dạy tốt, số khác lại tỏ ra có thành tích tốt dù giảng dạy tồi.
Như vậy vai trò của giáo dục đã bị hạ thấp. Giáo dục chỉ là nhân tố bên ngoài có khả
năng tăng nhanh hoặc kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm chất tự nhiên, bị chế ước
bởi tính di truyền. Theo họ, mọi sự can thiệp vào quá trình phát triển tự nhiên của trẻ đều
là sự tuỳ tiện không thể tha thứ được. Đây là một kết luận sư phạm sai lầm .
- Thuyết duy cảm: Đối lập với thuyết tiền định thuyết duy cảm giải thích sự phát
triển tâm lí trẻ bằng sự tuỵệt đối hoá môi trường xung quanh .
Họ cho rằng đây là yếu tố duy nhất quyết định sự phát triển tâm lí của trẻ. Từ đó họ
khẳng định: muốn nghiên cứu con người chỉ cần nghiên cứu môi trường sống của họ.
Môi trường xung quanh như thế nào thì nhân cách của con người, cơ chế hành vi, những
con đường phát triển của hành vi sẽ như thế đó. Họ hiếu một cách siêu hình về môi
trường, cho rằng môi trường là bất biến quyết định trước tâm lí của con người, con người
thụ động trước môi trường. Quan điểm này bắt nguồn từ nước Anh coi trẻ em sinh ra như
tờ giấy trắng hoặc tấm bảng sạch sẽ, sự phát triển tâm lí của trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào
tác động bên ngoài, do vậy người lớn muốn vẽ gì thì nó nên thế. Nhưng quan niệm như
vậy sẽ không giải thích được vì sao trong mét môi trường hoặc trong môi trường như
nhau lại có những nhân cách khác nhau.
- Thuyết hội tụ hai yếu tố: Những người theo thuyết này tính tới tác động của cả
hai yếu tố (môi trường và tính di truyền) khi nghiên cứu sự phát triển tâm lí của trẻ em.
Nhưng họ hiểu sự tác động của hai yếu tố đó
+ Không đề cập tới tính tích cực của cá nhân trong quá trình phát triển của tâm lí
: Họ đã phủ nhận tính tích cực riêng của cá nhân , coi thường những mâu thuẫn biện
chứng được hình thành trong quá trình phát triển tâm lí. Coi đứa trẻ là một thực thể tự
nhiên, thụ dông cam chịu ảnh hưởng có tính chất quyết định của yếu tố sinh vật hoặc môi

trường…không thấy được con người là thực thể xã hội tích cực, chủ động trước tự nhiên,
có thể cái tạo tự nhiên, xã hội và bản thân để phát triển nhân cách…do đó không hiếu
được vì sao trong những điều kiện cùng một môi trường lại hình thành những nhân cách
khác nhau về nhiều chỉ số, vì sao có những người giống nhau về thế giới nội tâm, về nội
dung và hình thức hành vi lại được hình thành trong những môi trường xã hội khác nhau.
Nhưng quan điểm duy vật biện chứng lại khác, quan điểm này lại có cách nhìn
nhận khá khách quan, đầy đủ về sự phát triển tâm lí của trẻ:
- Bản chất sự phát triển tâm lí trẻ em không phải chỉ là sự tăng trưỏng hoặc giảm
về số lượng mà là một quá trình biến đổi về chất trong tâm lí. Sù thay đổi về lượng của
các chức năng tâm lí dẫn đến sù thay đổi về chất và đưa đến sự hình thành cái mới một
cách nhảy vọt.
- Sù phát triển tâm lí gắn liền với sự xã hội hoá các cấu tạo tâm lí mới ở từng lứa
tuổi nhất định.
- Trong các giai đoạn phát triển khác nhau đó còn có sự cải biến về chấtcủa các
quá trình tâm lí và toàn bộ nhân cách . Sù phát triển tâm lí trẻ em là một quá trình lĩnh hội
nền văn hoá xã hội loài người. Xét trong toàn cục, phát triển là một quá trình kế thừa. Sự
phát triển tâm lí trẻ em là một quá trình trẻ em lĩnh hội nền văn hoá xã hội loài người.
- Sù phát triển tâm lí là kết quả hoạt động của chính đứa trẻ với nhữnh đối tượng
do loài người tạo ra: Bằng lao động của mình, con người ghi lại những kinh nghiệm, năng
lực…trong các công cụ sản xuất, các đồ dùng hàng ngày , các tác phẩm văn hoá nghệ
thuật…, con người đã tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn xã hội của mình trong các đối tượng
do con người
ngày càng sâu sắc và trở nên tinh tế hơn, đa dang hơn, trong tiến trình phát triển tâm lí trẻ
em.
Bàn về vai trò của giáo dục các nhà Tâm lí học Macxit khẳng định rằng, giáo
dục giữ vai trò chủ đạo, định hướng sự phát triển tâm lí của trẻ em. Song để giáo dục
mang lại hiệu quả, theo L.X.Vưgotxki, giáo dục phải hướng vào vùng phát triển nhất của
trẻ, giáo dục phải đi trước sự phát triển, kéo theo sù phát triển, chứ không phải chạy theo(
theo đuôi) sự phát triển.
Chất lượng của giáo dục tạo ra chất lượng của sự phát triển tâm lí: Các mức độ

giáo dục khác nhau tạo nên sự hình thành phát triển nhân cách của học sinh khác nhau.
Tóm lai, giáo dục giữ vai trò chủ đạo, định hướng sự phát triển tâm lí của trẻ
em. Giáo dục có thể tác động tới mọi yếu tố bên trong cũng như bên ngoài ảnh hưởng đến
sự phát triển tâm lí trẻ em. Tuy nhiên, giáo dục không phải là vạn năng. Sự phát triển tâm
lí trẻ em còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện sinh học, môi trường, và khả năng
hoạt động của trẻ.
e _ Quy luật về sự phát triển không đồng đều trong tâm lí trẻ em
Trong những điều kiện bất kì, thậm chí ngay trong những điều kiện thuận lợi
nhất của việc giáo dục thì những biểu hiện tâm lí, những chức năng tâm lí khác nhau…
cũng không thể phát triển ở mức độ như nhau. Co những thời kì tối ưu đối với sự phát
triển một hình thức hoạt động tâm lí nào đó: Ví dụ: giai đoạn thuận lợi cho sù phát triển
ngôn ngữ là thời kì 1 đến 5 tuổi, cho sù hình thành nhiều kĩ xảo vận động là khoảng 6 đến
11 tuổi, cho sù hình thành tư duy toán học là giai đoạn tõ 15 - 20 tuổi.
Ngay trong sù phát triển cơ thể của trẻ em thể hiện tính không đồng đều. Ví
dụ, chiều cao và trọng lượng của trẻ tăng nhanh trong khoảng hai năm đầu và trong thời
kì phát dục.
Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lí còn thể hiện ở chỗ khác biệt về
sự phát triển tâm lí giữa các cá nhân ngay trong cùng một độ
Hệ thần kinh trẻ em rất mềm dẻo. Dựa trên tính mềm dẻo của hệ thần kinh mà tác
động của giáo dục có thể làm thay đổi tâm lí trẻ em.
Tính mềm dẻo cũng tạo ra khả năng bù trừ. Khi mét chức năng tâm lí hoặc sinh lí
nào đó yếu hoặc thiếu thì các cức năng tâm lí khác được tăng cường phát triển mạnh hơn
để bù đắp hoạt động không đầy đủ của chức năng bị yếu hoặc hang đó. Ví dụ: khuyết tật
thị giác được bù đắp bằng sự phát triển mạnh mẽ hoạt động của thính giác, khứu giác. Trí
nhớ kém có thể bù đắp bằng tính tổ chức cao, tính chinh xác trong hoat động.
Đó là mét sè quy luật cơ bản của sự phát triển tâm lí trẻ em. Nhưng những quy
luật đó chỉ là mét xu thế mà sự phát triển tâm lí của trẻ có thể xảy ra. Những quy luật đó
có sau so với ảnh hưởng của môi trường( trong đó có giáo dục ). Sù phát triển và ngay cả
tính độc đáo của những xu thế đó còng phụ thuộc vào điều kiện sống của trẻ em (trước
hết là giáo dục).

Sù phát triển tâm lí trẻ em không tuân theo quy luật sinh học, mà tuân theo quy
luật xã hội. Dù bộ óc có tinh vi đến đâu chăng nữa, nhưng không sống trong xã hội loài
người, không được hưởng sự giáo dục và dạy dỗ của thế hệ trước thì đứa trẻ không thể
trở thành nhân cách.

• Sù phân chia các giai đoạn phát triển tâm lí trẻ em
a _ Quan niệm về giai đoạn phát triển tâm lí
Có thể nói quan niệm bản chất của sự phát triển tâm lí của con người như thế
nào thì quan niệm về lứa tuổi tương ứng như vậy.
Quan niệm sinh vật coi sù phát triển tâm lí như một quá trình sinh vật tự nhiên,
đã khẳng định tính bất biến , tính tuyệt đối của các giai đoạn lứa tuổi. Quan niệm đối lập
lại phủ nhận khái niệm lứa tuổi. Họ coi sù phát triển như là sự tích luỹ kiến thức, kĩ
năng , kĩ xảo một cách đơn giản.
Tâm lí học Macxit đại diện là L.K.Vưgotxki, coi luă tuổi là một thời kì phát triển
nhất định đóng kín một cách tương đối, mà ý nghĩa của nó được quýêt định bởi vị trí của
quá trình đó trong cả quá trình phát triển
chung, và ở đó những quy luật phát triển chung bao giờ cũng được thể hiện một cách độc
đáo về chất. Khi chuyển tõ mét lứa tuổi này sang mét lứa tuổi khác bao giờ cũng xuất
hiện những cấu tạo tâm lí mới chưa từng có trong các thời kì trước. Những cấu tạo mới
này cải tổ lại và làm biến đổi chính tiến trình phát triển.
Mỗi giai đoạn được quyết định bởi một tổ hợp nhiều điều kiện. Đó là đặc điểm
của những điều kiện sống và hoạt động của trẻ cùng với hệ thống các yêu cầu đề ra cho
trẻ với môi trường xung quanh.
Những đặc điểm lứa tuổi là những đặc điểm chung, đặc trưng nhất, chỉ ra hướng
phát triển chung. Những lứa tuổi không phải là phạm trù tuyệt đối, bất biến. Giai đoạn
lứa tuổi chỉ có ý nghĩa tương đối.
Tuổi chỉ có ý nghỉ là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của trẻ. Trẻ cần
thời gian chuẩn bị về mọi mặt để chuyển sang mét giai đoạn phát triển mới (để lớn lên về
cơ thể, mở rộng quan hệ xã hội, tích luỹ tri thức phương thức hoạt động…). Nhưng tuổi
không quyết định trực tiếp sự phát triển nhân cách. Tuổi có thể phù hợp vói trình độ phát

triển tâm lí của trẻ hoặc có thể đi nhanh hoặc chậm hơn… là do ta có biết vận dụng thời
gian và điều kiện giáo dục để tổ chức cuộc sống của trẻ, tổ chức sự tiếp xúc của trẻ với
thế giới xung quanh có tốt hay không.
b _ Phân chia giai đoạnh phát triển tâm lí trẻ em
- Giai đoạn trước tuổi đi học:
+ Tuổi sơ sinh: Thời kì 2 tháng đầu sau khi sinh.
+ Tuổi hài nhi: Thời kì 2 tháng đến 12 tháng.
+ Tuổi vườn trẻ: Tõ 1 đến hết 3 năm.
+ Tuôỉ mẫu giáo: Tõ 3 đến hết 5 năm.
- Giai đoạn tuổi học sinh :
+ Thời kì đầu tuổi học hay nhi đồng: Tõ 6 đến 11, 12 tuổi.
+ Thời kì giũă tuổi học hay thiếu niên: Tõ 11, 12 đến 14,
15 tuổi.
Ngày nay không riêng gì trẻ em thành phố, đô thị mà ngay cả trẻ em nông thôn
cũng chịu thiệt thòi là không còn khoảng không gian rộng rãi thoáng mát để vui chơi giải
trí. Không được vận động đều đặn cơ thể các em sẽ bị ứ đọng, chậm chạp và mắc nhiều
bệnh tật như dư cân, béo phì, cận thị mắt mờ, rối loạntiêu hoá, rối loạn thần kinh… Theo
các chuyên gia Tổ chức sức khoẻ nhi đồng Thế giới thi trẻ ở độ này nếu năng tham gia
các hoạt động thể thao, vui chơi hoạt động sẽ có khuynh hướng luôn nhanh nhẹn và linh
hoạt suốt cuộc đời. Hoạt động vui chơi còn chống được nhiều bệnh nghiêm trọng như đau
tim, đột quỵ và nhất là giúp trẻ trở lên linh hoạt thông minh, giải quyết nhiều khó khăn
trong cuộc sống, trong học tập… Nhà nghiên cứu trí tuệ J. Plaget từng chứng minh rằng:
“Những trẻ không biết đi giật lùi, sau này sẽ gặp khó khăn trong việc học tính trừ”. Như
mét nhu cầu tư nhiên, mọi đứa trẻ đều thích vận động. Trẻ sơ sinh vừa lọt lòng mẹ đã ngọ
nguậy chân tay. Nhiều trẻ vài ba tháng tuổi thích mẹ làm động tác kéo chân tay, rướn
người cho bé… Khi trẻ tập đi, nếu được dắt đi trong sân vườn rộng rãi trẻ sẽ biết đi
nhanh hơn là tập trong phòng quá chật hẹp. Lớn lên mét chót, trẻ có nhu cầu chơi theo sở
thích như đuổi bắt trốn tìm, nhào lộn với bơi lội, đá bóng… Mỗi trò chơi vận động đều
giúp trẻ phát triển trí tuệ và năng khiếu riêng. Được tham gia vào các trò chơi vận động
đều đặn mỗi ngày, trẻ sẽ cảm thấy khoẻ khoắn và tự tin. Sù nhanh nhẹn giúp trẻ có lòng

tôn trọng từ phía các bạn cùng chơi và tự đánh giá về khả năng của mình
- Nắm bắt được vai trò quan trọng của việc cho trẻ Êu nhi thao tác với đồ chơi đối
với sự phát triển tâm lí hiện nay giáo dục mầm non đang có nhiều đổi mới đặc biệt là đối
với lứa tuổi tõ 2 đến 3 tuổi. phụ huynh cùng cô giáo cần tích cực giúp trẻ phát huy khả
năng tư duy cũng như sù nhanh nhẹn của mình thông qua việc chơi trò chơi.
Hiện nay, giáo dục mầm non có nhiều đổi mới. Trước đây, chỉ giáo dục theo
phương pháp bị động, buộc trẻ công nhận một kiên thức nào đó
mà cô giáo đưa ra. Ví dụ cô giáo nói: “một hũ nước nhiều hơn một cốc nước” và đứa trẻ
biết thế. Nhưng hiện nay, muốn so sánh thì cô giáo phải cho trẻ tự đong đếm lấy và rút ra
kết luận và sau đó tù rút ra kết luận và hiểu sâu sắc hơn điều mình vừa rút ra. Đó là cách
cung cấp kiến thức cho trẻ thông qua hoạt động một cách chủ động và tích cực.
Ngày xưa, chỉ một mình cô giáo trang trí lớp học, còn nay trẻ cùng cô giáo tạo ra
sản phẩm như vẽ tranh, kết hạt, dán hoa…để trang trí từng góc học tập, phong phó màu
sắc và hàng tháng luôn thay đổi cách trình bày mới lạ để tạo mỗi lớp học là hoàn toàn của
thế giới trẻ thơ chư không do người lớn sắp đặt sẵn.
Chỉ vài nét nghệch ngoạc hoặc bằng chất liệu rẻ tiền như báo cũ, bìa, bao các sản
phẩm sữa, cà phê… (gọi là nguyên liệu mở) nhưng với bàn tay và óc giàu trí tưởng tượng
của trẻ thi những đồ vật đơn sơ rẻ tiền sẽ trở thành bức tranh sinh động, lộng lẫy, và hồn
nhiên. Xưa kia, đồ chơi đã hoàn thiện, để sẵn trong tủ rồi lôi ra cho trẻ chơi, còn nay mét
vá hộp sữa, cô giáo dán giấy để trẻ tự tô màu theo trí tưởng tượng và óc sáng tạo của
mình. Nhờ thế, mỗi đứa trẻ luôn được phát huy óc sáng tạo, độc đáo rất riêng … Trước
đây, trẻ thường rụt rè, ở lớp cô giáo bảo A thì biết A, bảo B thì biết B… Tõ cách dạy dỗ
như thế nên lúc trẻ còn nhỏ rồi khi trưởng thành ra trường sẽ trở nên thụ động, không có
cá tính riêng, không giám nghĩ, không giám làm. Từ đó phải giúp trẻ học hành thông
minh chủ động ngay từ khi còn học mẫu giáo.
- Thông qua việc thao tác với đồ vật và có sự giúp đỡ của người lớn ngôn ngữ của
trẻ cũng được phát triển trong giai đoạn này. Hoàn thiện sự thông hiểu ngôn ngữ của
người lớn và hình thành ngôn ngữ tích cực của đứa trẻ. Lúc đầu, tình huống cụ thể cộng
với lời nói tạo nên tín hiệu hành động. Sau dần trẻ hiểu được lời nói không phụ thuộc vào
tình huống nữa. Giai đoạn này bắt đầu thời kì “phát cảm ngôn ngữ” và xuất hiện “ngôn

ngữ tự trị”
Trẻ nhận ra mình theo những dấu hiệu bên ngoài. Trẻ hiểu được mình có thể làm
được việc này hay việc khác, trẻ có nhận xét về mình (thông qua nhận xét của người lớn).
Trẻ tự nhận thức hành động của mình theo thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Đây
cũng là nguyên nhân làm cho đứa trẻ có nguyện vọng được độc lập, được làm như người
lớn những năng lực có hạn và người lớn thường cấm đoán nên trẻ không được thỏa mãn
nhu cầu va khủng hoảng lứa tuổi lên ba nảy sinh.
Trẻ lĩnh hội nghĩa của từ sẽ sâu sắc hơn khi trẻ lĩnh hội phương thức sử dụng đồ
vật. Trẻ nắm được từ chỉ đồ vật mang ý nghĩa khái quát theo chức năng hoặc từ chỉ hành
động mang ý nghĩa khái quát theo mục đích chủ yếu là thông qua hoạt động với đồ vật.
Chẳng hạn cho trẻ chơi trò chơi xếp hình hoặc xếp chữ, ta đưa cho trẻ chữ A và cho trẻ
biết đó là chữ gì và cho trẻ nhắc lại… cứ như vậy thông qua các hoạt động vừa chơi vừa
nói ngôn ngữ của trẻ sẽ được nâng cao hơn. trẻ lĩnh hội nghĩa của từ sẽ sâu sắc hơn khi
trẻ lĩnh hội phương thức sử dụng đồ vật. Ơ giai đoạn này trẻ năm được những từ chỉ đồ
vật mang ý nghĩa khái quát theo chức năng hoặc từ chỉ hành động mang ý nghĩa khái quát
theo mục đích chủ yếu là thông qua hoạt động với đồ vật.
- Ngay tõ tuổi lên 2 - 3 tuổi trình độ nhận thức của trẻ đã phát triển khá hoàn
hảo, trí nhớ óc tưởng tượng và đặc biệt là khả năng nhận xét của trẻ trở nên tinh tế. Vì
vậy, trẻ nhận ra mình theo những dấu hiệu bên ngoài. Trẻ hiểu được mình có thể làm
được việc này hay việc khác, trẻ có thể nhận xét về mình (thông qua nhận xét của người
lớn). tẻ tự nhận thức hành động của mình theo thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai.
đây cũng là nguyên nhân làm cho đứa trẻ có nguyện vọng được độc lập, được làm như
người lớn. Trong quá trình trẻ thao tác với đồ vật thì trẻ bắt đầu xuất hiện tự ý thức và
nguỵên vọng độc lập.
- Lên 2 - 3 tuổi trẻ bắt đầu nhận biết thế giới xung quanh một cách khá rõ ràng.
Đây cũng là lúc trẻ rất hiếu động vì muốn khám phá thế giới
xung quanh và bản thân mình. Từng trò chơi sẽ giúp trẻ phát triển khả năng của
mình trong quá trình phát triển tâm lí thời kì này. Chẳng hạn với trò chơi nhận diện mặt
chữ cái sẽ giúp trẻ phát triển khả năng phát hiện sự vật. Hay khi chơi bán đồ hàng, chơi
với các con rối, búp bê bé sẽ muốn tự mình bày tỏ ý nghĩ thông qua lời thoại trong quá

trình chơi. Đây là cơ hội rất tốt để bé rèn kĩ năng nói. Thông qua việc chơi với những loại
đồ chơi như xếp hình, nhận mặt chữ, tìm đồ vật cũng sẽ giúp trẻ rèn luyện trí nhớ.
- Quá trình thao tác với đồ vật cũng giúp ta có thể phát hiện ra được trẻ có phát
triển bình thường hay không, giúp phát hiện ra những trẻ có khiếm khuyết trong sù phát
triển tâm lí để có được những biện pháp khắc phục kịp thời. Chẳng hạn trong quá trình
cho trẻ thao tác với trò chơi lắp ráp nếu ta phát hiện ra trong đó có mét em không có khả
năng lắp một đồ vật như các trẻ khác thì đứa trẻ đó sẽ có mét sè vấn đề trong tư duy. Đối
với những trường hợp như vậy ta sẽ phải có phương pháp khác như cho trẻ đó lắp hình
đơn giản hơn . . . . Thông qua những phát hiện đó ta còng có thể có những chương trình
nghiên cứu nhằm tìm ra phương thức thích hợp giúp những đứa trẻ bị khiếm khuyết đó có
được sự phát triển bình thường như bao đứa trẻ khác

D_ Kết luận
Thao tác với đồ vật là hoạt động chủ yếu của trẻ trong giai đoạn tuổi Êu nhi.
Hoạt động này không đơn thuần chỉ là những hoạt động bình thường của trẻ Êu nhi như
nhiều người vẫn nghĩ mà chính thông qua những hoạt động thao tác, tiếp xúc với đồ vật
đã giúp trẻ bắt đầu có những thay đổi phát triển tâm lí. Đồng thời chính những cách thức
cho trẻ thao tác với đồ vật, chính việc cho trẻ thao tác như thế nào cũng có vai trò rất
quan trọng trong sù phát triển tâm lí của trẻ sau này. Nếu ta cho trẻ thao tác không đúng
cách thì rát có thể dẫn đến việc kìm hãm sự phát triển của trẻ, khien trẻ trở nên thụ động,
kém nhanh nhẹn. Ngược lại nếu phương pháp
đúng thì trẻ sẽ có được sự phát triển theo hướng tích cực. Chính vì vậy ta không nên coi
thường những hoạt động đó của trẻ, đừng sai lầm khi nghĩ rằng đó chỉ là những hành
động vô nghĩa, không có liên quan gì đến sự phát triển tâm lí của trẻ bởi vì trong giai
đoạn nay, á trẻđã bắt đầu xuất hiện những chức năng tâm lí, những mong muốn tìm tòi
khám phá. Với vai trò quan trọng đó của hoạt động thao tác với đồ vật (tất nhiên là có sự
chọn lọc kĩ càng, phù hợp ) để giúp các em dần có được những điều kiện cần thiết trong
sù phát triển tâm lí bình thường theo hướng tích cực.


×