Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

đề tài nhận diện những vận động ,phát triển của tin phát thanh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.47 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự vận động không ngừng theo hướng đi lên của đời sống và sự thay đổi về
nhu cầu, thị hiếu, thói quen công chúng báo chí đã đặt ra những yêu cầu, điều kiện
đòi hỏi báo chí phải vận động để thích ứng. Trong sự vươn lên nhằm đáp ứng nhu
cầu của công chúng thính giả hiện đại và cạnh tranh với các loại hình báo chí khác,
báo phát thanh đã tận dụng và nâng cao không ngừng năng lực đưa tin. Thể loại tin
trên sóng phát thanh nhờ vậy đã không ngừng vận động, phát triển theo hướng ngày
càng phản ánh nhanh, phong phú, sinh động các sự kiện diễn ra trong đời sống.
Những thay đổi quan trọng của các đài phát thanh về phương thức sản xuất chương
trình, về cơ cấu hệ chương trình phát sóng, về mô hình tổ chức và yêu cầu về kỹ
năng của con người đều nhằm nâng cao năng lực đưa tin.
Quá trình vận động, phát triển đó của thể loại tin phát thanh ở Việt Nam cũng
bộc lộ những thành công và những tồn tại cần nghiên cứu, rút ra bài học kinh
nghiệm và tìm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
công chúng. Nghiên cứu sự vận động, phát triển của một thể loại nòng cốt còn cho
phép chúng ta nhìn nhận sự vận động của loại hình báo phát thanh trong những năm
qua, xem xét giải pháp góp phần nâng cao chất lượng thông tin trên loại hình báo chí
này. Việc nghiên cứu những tính chất mới, đặc điểm mới của tin phát thanh sau
nhiều vận động, phát triển cũng sẽ bổ sung, hoàn thiện thêm lý luận về thể loại này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận án là nhận diện những vận động, phát triển của tin phát
thanh hiện nay, phân tích thành công và hạn chế, mâu thuẫn, từ đó đề xuất những
khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng tin phát thanh trong xu thế vận động, phát
triển.
Để đạt được mục đích trên, tác giả xác định những nhiệm vụ sau:
1
- Xác định cơ sở lý thuyết về sự vận động, phát triển của tin phát thanh hiện
nay trong các điều kiện đời sống thay đổi và nhu cầu của công chúng cũng thay đổi.
- Nhận diện, phân tích những vận động, phát triển về nội dung, về hình thức
và phương thức tổ chức sản xuất tin phát thanh hiện nay.


- Xác định những thành công, chỉ ra những hạn chế, tồn tại trong sự vận động,
phát triển của tin phát thanh hiện nay, dự báo xu hướng vận động, phát triển trong
thời gian tới và đề xuất một số khuyến nghị nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng của
tin phát thanh trong xu thế vận động phát triển.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự vận động, phát triển của tin phát thanh
hiện nay. Việc nghiên cứu sự vận động, phát triển của tin phát thanh được thực hiện
chủ yếu thông qua việc khảo sát, phân tích các yếu tố thuộc các phương diện nội
dung, hình thức và phương thức tổ chức sản xuất tin phát thanh hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là tin phát thanh tiếng Việt được phát trên
sóng phát thanh của Đài TNVN, Đài PT-TH Quảng Ninh, Đài PT-TH Hải Phòng,
Đài Tiếng nói nhân dân thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 6/2008 đến 5/2010, bao
gồm tin do đội ngũ phóng viên của đài thực hiện và tin khai thác được từ các nguồn
khác.
Luận án vừa nghiên cứu thể loại tin phát thanh với tư cách là tác phẩm độc lập
vừa đặt trong tổng thể các chương trình tin tức với các mối quan hệ tạo nên chất
lượng của cả chương trình.
Tuy nhiên, để làm rõ sự vận động, phát triển, chúng tôi đặt hiện trạng tin phát
thanh hiện nay trong tương quan so sánh với hiện trạng tin phát thanh năm 1993.
Chúng tôi chọn mốc 1993 vì đây là năm phương thức sản xuất chương trình phát
thanh trực tiếp được đưa vào ứng dụng rộng rãi ở Việt Nam, tạo môi trường thay đổi
mạnh mẽ.
2
4. Giả thuyết nghiên cứu:
Bằng quan sát và nghiên cứu, phân tích tài liệu, chúng tôi cho rằng thể loại tin
phát thanh hiện nay đã có sự vận động, phát triển mạnh mẽ nhằm thích ứng với nhu
cầu của công chúng trong đời sống hiện đại. Sự vận động, phát triển đó nằm trong cả
hai phương diện nội dung và hình thức của tin phát thanh, thể hiện trong cả phương
thức tổ chức sản xuất tin từ các khâu lấy tin, làm tin và đưa tin.
Về nội dung, tin phát thanh đã vận động theo hướng nâng cao tính cập nhật sự

kiện mới và phản ánh sự kiện theo thời điểm, phạm vi đề tài phong phú, đa dạng
hơn, chủ đề và góc độ đưa tin rõ ràng và thiết thực hơn. Bên cạnh đó, các yếu tố thể
hiện nội dung như câu mở đầu tin, chi tiết tin cũng vận động nhằm chuyển tải nội
dung đến với công chúng rõ ràng, tập trung, đạt hiệu quả cao. Trích dẫn âm thanh
gốc được tăng cường nhằm chuyển tải thông tin từ chính nguồn tin đến công chúng,
đảm bảo tính chân thực, khách quan và tăng tính sinh động.
Các yếu tố thuộc về hình thức của thể loại tin phát thanh cũng tăng cường tính
chất sinh động, phản ánh sự chân thực, khách quan trong thông tin, ngắn gọn và rõ
ràng, dễ hiểu hơn. Ngôn ngữ tin vận động nhằm chuyển tải tính thời sự ngày càng
cao hơn của tin đồng thời gia tăng các yếu tố của ngôn ngữ nói. Sự tham gia của lời
dẫn tin giúp cho tin được thể hiện sinh động, hấp dẫn hơn. Tít tin trực tiếp thể hiện
chủ đề của tin.
Phương thức tổ chức sản xuất thể loại này ngày càng nhanh chóng, hiện đại,
hiệu quả hơn. Điều này thể hiện ở cả phương thức lấy tin, làm tin và tổ chức đưa tin.
Các nguồn tin cung cấp tin cho đài phát thanh ngày càng phong phú và nhanh chóng
hơn. Mạng lưới phóng viên và cộng tác viên ngày càng được mở rộng để đảm bảo
lượng tin do chính đài thực hiện, thể hiện vai trò và dấu ấn của mình. Các chương
trình, bản tin ngày càng tăng cường tính chất gắn kết, hỗ trợ nhau để cùng chuyển tải
dòng thông tin thời sự liên tục và nóng hổi tới công chúng, tạo hiệu quả đồng bộ.
3
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện trên nền tảng khoa học lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về báo chí nói chung, báo
phát thanh nói riêng.
Các phương pháp cụ thể được áp dụng trong đề tài là:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thông qua việc tìm kiếm và tập hợp tài
liệu từ nhiều nguồn khác nhau, tác giả làm rõ lý luận về điều kiện và các bình diện
vận động, phát triển của tin phát thanh hiện nay.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phương pháp này được sử dụng để thu thập
thông tin về hiện trạng của tin phát thanh ở một thời điểm trong quá khứ - năm 1993,

tìm chứng cớ cho thấy sự vận động, phát triển của tin phát thanh hiện nay so với
hiện trạng ở thời điểm này.
Tác giả đã phỏng vấn sâu các nhà báo và nhà nghiên cứu có thâm niên nghiên
cứu hoặc đã kinh qua thời kỳ làm tin phát thanh những năm đầu của thập niên 90 thế
kỷ trước như: nhà báo Hoàng Trọng Đan, nhà báo Kim Cúc, nhà báo Minh Đức, nhà
báo Đình Khải, nhà báo Trượng Cộng Hòa, nhà nghiên cứu Đức Dũng, nhà nghiên
cứu Vũ Thúy Bình… Tác giả cũng phỏng vấn sâu các thính giả có tuổi, đã từng nghe
tin phát thanh năm 1993 để có thêm minh chứng về sự vận động, phát triển của tin
phát thanh hiện nay.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá: Được dùng để nhận diện, phân
tích các yếu tố thể hiện sự vận động, phát triển của tin phát thanh.
Về việc lựa chọn mẫu, do lượng tin được phát trên sóng Đài TNVN và các đài
phát thanh địa phương trong khoảng thời gian 2 năm (từ 6/2008 đến hết tháng
5/2010) là rất lớn, không thể khảo sát toàn bộ nên chúng tôi sử dụng phương pháp
chọn mẫu điển hình. Trong phạm vi thời gian khảo sát, tác giả lựa chọn mỗi tuần 2
ngày tin tức để khảo sát. Đối với dải chương trình liên tục của Đài TNVN, trong mỗi
ngày, tác giả lại tiếp tục lựa chọn 2 chương trình có thời lượng lớn, 1 bản tin 15 phút
4
và 1 bản tin 5 phút. Với các chương trình của đài phát thanh địa phương, tác giả lựa
chọn mỗi tuần 2 chương trình thời sự. Tổng cộng, tác giả đã khảo sát 1000 chương
trình và bản tin phát thanh, với 17712 tin. Tác giả sử dụng phần mềm SPSS để xử lý
số liệu định lượng đồng thời kết hợp phân tích sâu các ví dụ điển hình.
- Phương pháp thống kê: trong quá trình khảo sát, tác giả sử dụng phương
pháp này kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá để rút ra các thông
số về quy mô, tính chất vận động, phát triển trong các yếu tố của tin phát thanh.
- Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp này để làm nổi bật lên
những đổi mới, vận động trong các yếu tố nội dung và hình thức của tin phát thanh
cũng như những cải tiến trong phương thức tổ chức sản xuất tin phát thanh ở các đài
phát thanh hiện nay so với ở mốc năm 1993. Tác giả cũng sử dụng phương pháp này
để nhìn nhận điểm chung và sự khác biệt giữa tin phát thanh của đài phát thanh quốc

gia – Đài TNVN và các đài phát thanh địa phương.
6. Đóng góp mới của luận án
Về lý luận, việc nhận diện, phân tích những vận động, phát triển của tin phát
thanh sẽ góp phần bổ sung, cập nhật những tri thức lý luận về thể loại này một cách
có hệ thống, ở các yếu tố nội dung, hình thức và phương thức tổ chức sản xuất.
Xét về nội dung, đó là các vấn đề lý luận về tính thời sự của sự kiện trong tin
phát thanh và tính cập nhật sự kiện theo thời điểm, về tính phong phú, đa dạng, hài
hòa của đề tài, về tính gần gũi, thiết thực thể hiện qua chủ đề và góc độ tiếp cận rõ
ràng, về hệ chi tiết được chọn lọc và thể hiện tính khách quan, chân thực, về câu mở
đầu hấp dẫn và trực tiếp thể hiện chủ đề, về trích dẫn âm thanh gốc làm tăng tính
khách quan, chân thực của tin phát thanh.
Xét về hình thức, những điểm bổ sung, cập nhật, mở rộng của luận án thể hiện
trong việc phân tích những vận động về mặt thời lượng, các dạng tin, ngôn ngữ, mô
hình kết cấu, lời dẫn tin phát thanh, tít tin, cho thấy các yếu tố này đều có những đổi
5
mới và được vận dụng linh hoạt, sáng tạo nhằm làm tăng tính trực tiếp, hấp dẫn và
mang lại hiệu quả tiếp nhận cao hơn.
Xét về phương thức tổ chức sản xuất, từ khâu lấy tin, làm tin đến tổ chức đưa
tin phát thanh đều có những đổi mới nhằm nâng cao chất lượng nội dung, hình thức
tin, tạo hiệu quả tác động. Môi trường tổ chức sản xuất này tạo ra các điều kiện để sự
vận động, phát triển của thể loại tin phát thanh thể hiện rõ nét.
Bên cạnh đó, những xu hướng vận động, phát triển của tin phát thanh trong
thời gian tới và những khuyến nghị cũng là những đóng góp về mặt lý luận về tin
phát thanh nhằm góp phần định hướng thực tiễn ngày càng phát triển.
Về ý nghĩa thực tiễn, từ kết quả nghiên cứu, luận án tổng kết những thành
công và chỉ ra những hạn chế trong sự vận động, phát triển của tin phát thanh. Đây
là những tổng kết thực tiễn cần thiết để đánh giá chất lượng hoạt động thực tiễn sau
một quá trình vận động và phát triển. Các dự báo có ý nghĩa góp phần xác định rõ
những hướng đi của tin phát thanh trong xu thế vận động, phát triển. Các khuyến
nghị, giải pháp được áp dụng có thể góp phần phát huy những thành công và giải

quyết những tồn tại, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của tin phát thanh cũng
như hoạt động tổ chức sản xuất tin ở các đài phát thanh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình của tác giả có liên quan
đến đề tài, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án có 4 chương, 13 tiết, 204
trang.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Về sự vận động và phát triển của thể loại tin, trong đó có tin phát thanh, nhiều
cuốn sách nghiên cứu về tin và cách thức đưa tin cũng đã ít nhiều đề cập tới vấn đề
này:
6
* Trên thế giới, chưa có một công trình nào trên thế giới nghiên cứu về sự vận
động, phát triển của tin phát thanh, tuy nhiên đã có những trang viết đề cập đến
nguyên nhân dẫn đến sự vận động, phát triển này từ góc độ công chúng, góc độ công
nghệ và góc độ kỹ thuật sản xuất. Một số tác giả đề cập sự vận động của tin phát
thanh, cho thấy, tin phát thanh hiện nay đã đi một bước dài, từ phạm vi phản ánh hẹp
đến phạm vi rộng lớn, từ sự chậm trễ đến nhanh nhạy, tức thì, từ sự đơn điệu đến
phong phú, thiết thực.
* Ở Việt Nam, các chương sách viết về lịch sử hình thành và phát triển của
báo phát thanh ở Việt Nam nhận định, báo phát thanh ở Việt Nam đã liên tục vận
động, phát triển để thích ứng với những điều kiện mới của đất nước, đáp ứng nhu
cầu của thính giả trong đời sống hiện đại. Các chương trình thời sự, trong đó thể loại
tin là nòng cốt đóng vai trò quan trọng trong những bước phát triển đó.
Các chương sách viết về tin phát thanh đã cho thấy tin phát thanh đã có những
thay đổi về cách thức đưa tin như nâng cao độ cập nhật và tăng cường tính chất trực
tiếp, ngắn gọn, dễ hiểu, sinh động.
Các công trình nghiên cứu về các chương trình thời sự qua quá trình khảo sát
đã đặt ra yêu cầu tiếp tục cải tiến, đổi mới cách làm chương trình thời sự trong đó có
tin phát thanh.
Như vậy, vấn đề sự vận động, phát triển của thể loại tin phát thanh đã được

nhiều tác giả trên thế giới và ở Việt Nam quan tâm và đưa ra một số nhận định. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể hay phân tích sâu sự vận động, phát
triển này.
Chương 1:
CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN VỀ SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA
TIN PHÁT THANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Các khái niệm được sử dụng trong luận án
7
Dựa vào từ điển và các sách nghiên cứu, tác giả làm rõ các khái niệm vận
động, khái niệm phát triển, khái niệm tin phát thanh, cụm từ điều kiện hiện nay và lý
do chọn mốc 1993 để so sánh, nêu bật sự vận động, phát triển của tin phát thanh hiện
nay. Tác giả cũng làm rõ nội hàm của cụm từ sự vận động, phát triển của tin phát
thanh trong điều kiện hiện nay, đó là sự đổi mới, biến chuyển, sự mở mang về quy
mô, tính chất, nội dung, hình thức và phương thức tổ chức thực hiện thể loại này
trong đời sống thực tiễn gắn với những điều kiện của thời điểm hiện tại so với mốc
năm 1993.
1.2. Đôi nét về diện mạo tin phát thanh ở Việt Nam năm 1993
Trước thời điểm 1993, tin phát thanh chủ yếu được sản xuất theo phương thức
thu in với độ cập nhật sự kiện còn hạn chế, phạm vi phản ánh của tin còn hẹp, chủ đề và
góc độ đưa tin chưa được thể hiện rõ trong tin. Tin dài với nhiều chi tiết và được trình
bày theo lối “tuần tự” mà thiếu sự ưu tiên làm nổi bật những chi tiết quan trọng nhất.
Vấn đề đầu tư cho câu mở đầu và lời dẫn tin chưa được đặt ra. Âm thanh gốc ít khi
được sử dụng. Mô hình tin phát thanh phổ biến là mô hình tháp xuôi.
1.3. Những điều kiện tác động đến sự vận động, phát triển của tin phát thanh ở
Việt Nam hiện nay
Trước hết, đời sống của con người vận động và phát triển, hình thành nên điều
kiện kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội mới. Con người được sống trong điều kiện
tốt hơn về mọi mặt và dần hình thành những nhu cầu mới, thị hiếu mới. Đặc biệt, sự
phát triển của khoa học công nghệ không chỉ là yếu tố trực tiếp tham gia, tạo ra sự
thay đổi trong đời sống mà còn tạo ra môi trường để tin tức báo chí phát huy tối đa

năng lực phản ánh cuộc sống.
Điều kiện kinh tế - xã hội đáp ứng ngày càng cao nhu cầu nói chung của con
người đã trở thành nguyên nhân tác động trực tiếp, làm phong phú và biến đổi nhu
cầu tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng, trong đó có công chúng báo phát
thanh. Sự thay đổi về nhu cầu, thói quen, sở thích của công chúng chính là điều kiện
8
dẫn tới sự vận động và phát triển của tin phát thanh. Mỗi phương tiện truyền thông
đại chúng và muốn tồn tại và phát triển cần có sự vận động, phát triển thích ứng để
theo kịp và đáp ứng nhu cầu tiếp nhận của công chúng.
1.4. Các bình diện vận động của tin phát thanh
Sự vận động, phát triển của tin phát thanh thể hiện trên các bình diện được xác
định là tần suất, thời điểm xuất hiện, nội dung, hình thức và phương thức tổ chức sản
xuất tin. Trong đó, bình diện nội dung được xem xét ở các yếu tố: sự kiện trong tin,
đề tài, chủ đề và góc độ đưa tin, chi tiết, câu mở đầu và trích dẫn âm thanh gốc trong
tin phát thanh. Ở bình diện hình thức, sự vận động thể hiện trong các yếu tố: thời
lượng, mô hình kết cấu, các dạng tin, ngôn ngữ, lời dẫn tin, tít tin. Trong phương
thức tổ chức sản xuất, chúng tôi xem xét phương thức khai thác tin, sản xuất tin và
tổ chức đưa tin nhằm làm rõ hơn các khía cạnh vận động, phát triển của tin phát
thanh.
Tiểu kết chương 1:
Trong chương 1, chúng tôi xây dựng cơ sở lý thuyết và thực tiễn về sự vận
động và phát triển của tin phát thanh trong điều kiện hiện nay. Một là làm rõ các
khái niệm và nội hàm của tên đề tài. Hai là làm rõ hiện trạng tin ở mốc năm 1993 –
mốc được lựa chọn để so sánh, làm rõ sự vận động, phát triển của tin phát thanh hiện
nay. Thứ ba, các điều kiện tác động, dẫn tới sự vận động và phát triển của tin phát
thanh trong giai đoạn hiện nay, đó là đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thay
đổi, dẫn đến nhu cầu của công chúng thay đổi, điều này buộc tin phát thanh cũng
phải thay đổi nhằm thích ứng và góp phần khẳng định vị trí của loại hình báo nói.
Thứ tư, sự vận động, phát triển của tin phát thanh thể hiện trên các bình diện đã
được xác định là tần suất và thời điểm xuất hiện, nội dung, hình thức, phương thức

tổ chức sản xuất tin. Trong đó, bình diện nội dung được xem xét ở các yếu tố: sự
kiện trong tin phát thanh, đề tài, chủ đề và góc độ đưa tin, chi tiết, câu mở đầu và
trích dẫn âm thanh gốc trong tin phát thanh. Ở bình diện hình thức, sự vận động thể
9
hiện trong các yếu tố: thời lượng, mô hình kết cấu, các dạng tin, ngôn ngữ, lời dẫn
tin, tít tin. Trong phương thức tổ chức sản xuất, chúng tôi xem xét phương thức khai
thác tin, sản xuất tin và tổ chức đưa tin phát thanh nhằm làm rõ hơn các khía cạnh
vận động, phát triển của tin phát thanh.
Chương 2:
SỰ VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN VỀ TẦN SUẤT, THỜI ĐIỂM XUẤT HIỆN
VÀ NỘI DUNG CỦA TIN PHÁT THANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Sự vận động, phát triển về tần suất và thời điểm xuất hiện
Tần suất đưa tin dày và các thời điểm liên tục theo nhóm giờ, theo giờ và theo
nửa giờ đang tạo không gian, điều kiện để tin phát thanh đến với công chúng đầy đủ,
nhanh chóng, kịp thời, đồng thời tạo sự thuận lợi cho tiếp nhận.
2.2. Sự vận động, phát triển về nội dung
2.2.1. Về sự kiện trong tin phát thanh
Độ cập nhật của sự kiện trong tin phát thanh được nâng lên. Tin phát thanh đã
thực sự phản ánh nhanh nhạy các sự kiện diễn ra trong đời sống. Đặc biệt, tin phát
thanh đã thể hiện năng lực cập nhật sự kiện mới theo thời điểm tức phản ánh một sự
kiện ở nhiều thời điểm khác nhau ở nhiều bản tin nối tiếp nhau, giúp thông tin kịp
thời, liên tục, đồng thời kích thích sự theo dõi thường xuyên của công chúng.
2.2.2. Về đề tài của tin phát thanh
Phạm vi đề tài của tin phát thanh ngày càng mở rộng. Các đài phát thanh đã
phản ánh phong phú tình hình mọi mặt của đời sống đất nước và thế giới đang thay
đổi mỗi ngày. Cho đến nay, đề tài tin phát thanh đã bao quát các lĩnh vực của đời
sống xã hội, thể hiện sự phong phú, đa dạng và hài hòa trong từng chương trình.
2.2.3. Về chủ đề và góc độ đưa tin phát thanh
Chủ đề của tin phát thanh đã được thể hiện ở những góc tiếp cận hẹp, qua đó,
thể hiện thông điệp rõ ràng hơn đồng thời chuyển tải nhiều hơn tính chất mới mẻ,

10
thiết thực. Chủ đề cũng thường cho thấy một góc nhìn cụ thể khi thông tin cái mới.
Các sự kiện có thể được lần lượt được bóc tách ở nhiều góc độ, các góc độ được
phản ánh ở nhiều tin và trong một chuỗi chương trình.
2.2.4. Về câu mở đầu của tin phát thanh
Hiện nay, câu mở đầu đã trở thành yếu tố thể hiện rõ chủ đề, tạo cách tiếp cận
trực tiếp nhằm tiết kiệm thời gian đồng thời nhanh chóng gửi đến công chúng thông
điệp chính, giúp họ dễ tiếp nhận. Trong một bản tin, biên tập viên đã chú ý đến các
cách mở đầu tin khác nhau sao cho vừa nêu bật được nội dung của từng tin vừa tạo
ra sự phong phú, linh hoạt của cả bản tin.
2.2.5. Về chi tiết trong tin phát thanh
Chi tiết trong tin phát thanh được lựa chọn nhằm làm rõ chủ đề, do vậy, thể
hiện tính tập trung và được hạn chế về số lượng. Nhìn chung, chi tiết đã vận động để
đến gần hơn với sự rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của công
chúng.
2.2.6. Về trích dẫn âm thanh gốc trong tin phát thanh
Trong tin phát thanh, sự xuất hiện của âm thanh gốc làm tăng thêm tính khách
quan, chân thực, đồng thời làm phong phú âm thanh trong tin, giúp tin trở nên sinh
động, dễ tiếp nhận hơn. Giọng nói của các nhân vật, tiếng động hiện trường, lời nói
của phóng viên nơi diễn ra sự kiện với các sắc thái biểu cảm và sự phong phú về
biểu hiện khiến cho tin trở nên sống động và cũng linh hoạt hơn.
Tiểu kết chương 2:
Ở chương 2, chúng tôi khảo sát tuần suất và thời điểm xuất hiện và nội dung
tin phát thanh hiện nay, kết quả cho thấy sự vận động và phát triển rõ rệt.
Cùng với tần suất dày và thời điểm xuất hiện thuận lợi cho việc tiếp nhận, độ
cập nhật của sự kiện trong tin đã được nâng lên rõ rệt, đồng thời cho phép tin phát
thanh phản ánh sự kiện theo thời điểm. Phạm vi đề tài của tin phát thanh ngày càng
mở rộng. Cho đến nay, đề tài tin phát thanh đã đạt đến sự phong phú, đa dạng, hài
11
hòa. Chủ đề và góc độ đưa tin được thể hiện rõ nét, chuyển tải nhiều hơn tính chất

mới mẻ, thiết thực. Chi tiết trong tin được chọn lọc nhằm tăng cường tính ngắn gọn,
rõ ràng đồng thời thể hiện tính khách quan, chân thực. Câu mở đầu đã thực sự là yếu
tố chuyển tải chủ đề, thể hiện góc độ đưa tin một cách trực tiếp và đa dạng. Các trích
dẫn âm thanh gốc đã mang đến tính chân thực và sinh động cho tin phát thanh.
Như vậy, trong nội dung tin phát thanh, sự vận động, phát triển được thể hiện
rõ theo hướng tăng cường tính nhanh nhạy, cập nhật, liên tục, phong phú, đa dạng,
nâng cao tính thiết thực, gần gũi và thông điệp thể hiện rõ ràng. Bên cạnh đó, việc
làm nổi bật tầm quan trọng của sự kiện, thông tin dễ tiếp nhận cũng đã được chú
trọng. Nội dung tin phát thanh hiện nay đã bám sát tình hình đời sống để thông tin
kịp thời và tương đối đầy đủ tới công chúng, góp phần đáp ứng nhu cầu của công
chúng về nhận biết cái mới.
Chương 3:
SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN VỀ HÌNH THỨC VÀ
PHƯƠNG THỨC TỔ CHỨC SẢN XUẤT TIN PHÁT THANH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Sự vận động, phát triển về hình thức của tin phát thanh
3.1.1. Về thời lượng của tin phát thanh
Nhìn chung, thời lượng của tin hiện nay trở nên ngắn hơn do tin đã được giảm
dung lượng chi tiết. Thời lượng từ 30 đến 45 giây là thời lượng phổ biến của tin phát
thanh. Trong bản tin đã có sự ưu tiên, dành thời lượng nhiều hơn cho những tin quan
trọng, và thời lượng ít hơn cho những tin kém quan trọng hơn.
3.1.2. Về ngôn ngữ trong tin phát thanh
Có thể thấy, trong tin phát thanh hiện nay, ngôn ngữ đã có sự dịch chuyển từ
sang gần hơn với dạng ngôn ngữ nói do những người thể hiện đã tăng cường sử
dụng cách thức đọc kết hợp với nói. Một lớp từ mang đặc trưng riêng của tin phát
12
thanh và của báo phát thanh đã hình thành. Lớp từ này mang đặc điểm của ngôn ngữ
nói tức viết để đọc thành lời, để nói, không phải để đọc bằng mắt. Đó là những từ chỉ
thứ tự (trên đây, sau đây, cuối cùng …); những từ chỉ tính thời sự gấp gáp (vừa, vừa
mới, tính đến giờ này, ngay lúc này, lúc này, 5 phút trước, đang, sắp …) hoặc những

từ, cụm từ chỉ có trong hoàn cảnh giao tiếp bằng lời như: chúng tôi xin được thông
tin thêm là, cũng nói thêm rằng, thêm một điều đáng lưu ý là, sẽ trình bày rõ hơn
ngay sau đây, … Tuy nhiên, trong tin phát thanh hiện nay, việc sử dụng những từ
ngữ gây khó hiểu cho người nghe vẫn còn tương đối phổ biến. Câu văn trong tin
phát thanh hiện nay nhìn chung ngắn gọn hơn, sử dụng câu đơn, câu chủ động nhiều
hơn so với thời điểm năm 1993. Lối viết thể hiện cách thức kể chuyện, nói chuyện
đã hình thành. Văn bản tin phát thanh thường thể hiện sự ngắt thành nhiều đoạn
nhằm thể hiện sự sáng rõ theo các ý.
3.1.3. Về các dạng tin
Việc tăng cường sử dụng các dạng tin ngắn, tin tổng hợp và giảm tỷ lệ sử
dụng tin tường thuật cho thấy trên sóng phát thanh, tính chất nhanh, gọn, rõ của
thông tin được đề cao. Trong tin phát thanh hiện nay, kết quả hay diễn biến chính
của sự kiện được quan tâm nhiều hơn quá trình hay diễn tiến của sự kiện.
Tỷ lệ tin sử dụng âm thanh gốc cũng hiện nay cho thấy người làm tin đã nỗ
lực phát huy tính năng của âm thanh tổng hợp nhằm nâng cao độ tin cậy, khách quan
trong thông tin cũng như tính hấp dẫn, sinh động về mặt âm thanh.
3.1.4. Về mô hình kết cấu của tin phát thanh
Kết quả khảo sát cho thấy sự vận động mạnh mẽ trong việc sử dụng mô hình
kết cấu tin nhằm tạo ra hiệu quả tiếp nhận. Mô hình hình tháp ngược đã là mô hình
được sử dụng phổ biến nhất. Sự phong phú trong cách thể hiện tin còn được bổ sung
bởi các mô hình viên kim cương và mô hình hình chữ nhật. Cùng với sự sụt giảm về
tỷ lệ sử dụng của mô hình hình tháp xuôi, những điều này cho thấy các nhà báo phát
thanh ngày càng quan tâm nhiều hơn đến cách thức tác động trực tiếp, giúp người
13
nghe hình dung được thông tin cốt lõi, quan trọng nhất ngay từ đầu, thu hút họ nghe
và tạo điều kiện để ghi nhớ thông tin dễ dàng nhất.
3.1.5. Lời dẫn tin phát thanh
Lời dẫn cho tin phát thanh đã được phát triển thành một yếu tố với những
chức năng, vai trò riêng. Lời dẫn góp phần định hướng tiếp nhận cho thính giả thông
qua việc chỉ ra nội dung quan trọng và điểm cần chú ý trong tin, giúp người nghe

định hình được trọng tâm để lắng nghe. Lời dẫn cũng thể hiện vai trò tạo không gian,
tạo nguyên cớ cho tin xuất hiện hay gắn kết các thành phần tham gia vào tin. Lời dẫn
còn liên kết, tổ chức tin trong cả một chương trình và các chương trình.
3.1.6. Về tít tin phát thanh
Trong tin phát thanh hiện nay, tít là yếu tố góp phần làm rõ tính mới mẻ, nóng
hổi của sự kiện trong tin, thể hiện tầm quan trọng, sự hấp dẫn của sự kiện, phân biệt
sự kiện trong tin với những những sự kiện khác đồng thời thể hiện sự ưu tiên của
bản tin với những sự kiện được đưa nhằm tạo ra những điểm nhấn. Tít tin phát thanh
góp phần thể hiện sự định hướng tiếp nhận và thể hiện nhịp độ của bản tin.
3.2. Những vận động, phát triển trong phương thức tổ chức sản xuất tin phát
thanh
3.2.1. Về phương thức khai thác tin
Hiện nay các đài phát thanh tận dụng các nguồn tin khác nhau để thu thập, tập
hợp tin tức, không chỉ từ các nguồn tin truyền thống như Thông tấn xã Việt Nam,
các tờ báo in… mà còn từ Internet và từ cả các cơ quan báo đài nước ngoài. Những
nguồn cung cấp tin mới này có nhiều ưu thế về tốc độ cũng như cách thức khai thác
trong khi những nguồn tin truyền thống cũng không ngừng nâng cao tốc độ cập nhật
tin tức. Tỷ lệ khai thác tin cũng cho thấy, do mật độ sử dụng dày và áp lực cập nhật
tin tức liên tục, các đài phát thanh hiện nay vẫn phải phụ thuộc nhiều vào các nguồn
tin bên ngoài. Tuy nhiên, tỷ lệ 32,79% tin do phóng viên thực hiện đã cho thấy nỗ
14
lực của các đài phát thanh trong việc khẳng định vai trò và tiếng nói của mình trong
dòng chảy thông tin không ngừng đến với công chúng.
3.2.2. Về phương thức thực hiện tin
Thay vì kiểu ngồi chờ giấy mời, làm tin hội nghị phổ biến như ở năm 1993,
hiện nay, đội ngũ phóng viên của các đài phát thanh đã thực sự có nhiều nỗ lực tìm
tòi, phát hiện những sự kiện mới, có tác động đến đời sống, được người dân quan
tâm. Hoạt động “săn tin”, “nuôi tin” đã được tiến hành thường xuyên, tạo ra nguồn
tin mang dấu ấn của cơ quan đài phát thanh và thể hiện đặc điểm của báo phát thanh
trong việc đưa tin theo thời điểm và khai thác âm thanh gốc nhằm tạo tính chân thực,

sinh động.
3.2.3. Về phương thức tổ chức đưa tin phát thanh
Tính chất phản ánh sự kiện theo thời điểm và tin của bản tin sau bổ sung, hoàn
thiện thêm về nội dung cho tin của bản tin trước thực sự được hình thành. Trong một
bản tin, các tin được lựa chọn, bố trí trong mối quan hệ tương hỗ, cùng nhau làm nổi
rõ diện mạo, tổng thể tình hình thời sự trong nước và quốc tế. Giữa tin và bài trong
một và nhiều chương trình còn có sự phối hợp với nhau, nếu như tin tập trung phản
ánh nhanh những đổi thay quan trọng trên diện rộng thì bài lại đi sâu vào một hoặc
một số sự kiện, vấn đề nóng hổi, được dư luận quan tâm.
Những cải tiến trong cách thức thể hiện tin phát thanh hiện nay hướng đến sự
linh hoạt, chân thực, sinh động của phương thức đưa tin bằng âm thanh. Đó là sự kết
hợp các cách thức đọc; đọc kết hợp với nói và nói và tạo ra sự đa dạng âm thanh
trong thể hiện tin. Phương thức sản xuất chương trình phát thanh trực tiếp đang từng
bước được ứng dụng theo chiều sâu để nâng cao chất lượng các chương trình tin tức.
Những yếu tố này đã thúc đẩy mạnh mẽ và tạo điều kiện để tin phát thanh vận động,
phát triển.
Tiểu kết chương 3:
15
Trong chương 3, chúng tôi đi sâu vào phân tích sự vận động, phát triển của tin
phát thanh ở các yếu tố thuộc hình thức và phương thức tổ chức sản xuất.
Về hình thức, thời lượng của tin phát thanh nhìn chung ngắn gọn hơn và có sự
kết hợp giữa tin dài hơn và tin ngắn hơn trong một chương trình nhằm tạo điểm nhấn
thông tin. Ngôn ngữ của tin vận động để đến gần hơn với ngôn ngữ nói đồng thời
chuyển tải tính chất thời sự nóng hổi của tin đến với công chúng. Các dạng tin và các
mô hình kết cấu vận động theo hướng làm nổi bật thông tin quan trọng, tạo ra sự rõ
ràng, dễ hiểu, sinh động. Đặc biệt, sự xuất hiện ngày càng phổ biến của dạng tin có
âm thanh gốc đã cho thấy vận động, phát triển của tin trong việc phát huy đặc điểm
của loại hình báo phát thanh để đưa tin sinh động và chân thực. Sự tham gia của lời
dẫn tin với tư cách vừa độc lập vừa phụ thuộc đã gắn kết tin, bổ trợ, nêu bật ý nghĩa
của sự kiện trong tin. Tít tin thể hiện những cách thức trực tiếp gọi tên sự kiện và

làm nổi bật tính chất mới mẻ, hấp dẫn của sự kiện.
Bên cạnh đó, những đổi mới trong phương thức tổ chức sản xuất tin phát
thanh cũng cho thấy sự vận động mạnh mẽ để đẩy mạnh tốc độ cập nhật tin, nâng
cao tính phong phú, kết nối tạo hiệu quả chung. Phương thức sản xuất tin ở các đài
phát thanh cũng thể hiện rõ những nỗ lực tự tạo ra nguồn tin của chính mình đồng
thời phát huy sự nhanh nhạy, liên tục theo thời điểm và đưa tin bằng âm thanh sống
động. Cách thức tổ chức chương trình thể hiện sự liên kết, tương hỗ nhau trong từng
chương trình và giữa các chương trình tạo hiệu quả tác động tổng thể. Cách thức thể
hiện tin trên sóng đã chú trọng sự đa dạng, sinh động của âm thanh, nâng cao tính
thuyết phục, gần gũi. Và việc ứng dụng phương thức sản xuất chương trình phát
thanh trực tiếp vào sản xuất các chương trình tin tức phát thanh đã thực sự mang đến
không gian mới, điều kiện mới để phát huy năng lực đưa tin của các đài phát thanh.
Chương 4:
16
THÀNH CÔNG, HẠN CHẾ TRONG SỰ VẬN ĐỘNG,
PHÁT TRIỂN CỦA TIN PHÁT THANH HIỆN NAY
VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
4.1. Những thành công
Thứ nhất, tin phát thanh đã tận dụng, phát huy được ưu thế của loại hình báo
phát thanh để phản ánh ngày càng kịp thời và nhanh nhạy các sự kiện xảy ra. Thứ
hai, tin phát thanh ngày càng phản ánh phong phú, đa dạng các lĩnh vực của đời
sống, các vùng miền trong nước và trên thế giới, qua đó thông tin bao quát về đời
sống, giúp công chúng mở mang hiểu biết một cách toàn diện. Thứ ba, tin phát thanh
của các đài phát thanh đảm bảo tính chính xác, đồng thời tham gia định hướng nhận
thức cho công chúng. Thứ tư, tin phát thanh ngày càng sinh động hơn, hấp dẫn hơn
với sự đa dạng hơn về âm thanh. Thứ năm, tính thiết thực, gần gũi của tin phát thanh
ngày càng được nâng cao. Thứ sáu, tin phát thanh tạo được sự dễ tiếp nhận hơn do
được thể hiện ngắn gọn và trực tiếp hơn.
4.2. Những hạn chế
Thứ nhất, tốc độ cập nhật tin hiện nay tuy đã vận động, phát triển mạnh mẽ so

với trước đây nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của làn sóng phát thanh.
Thứ hai, phong cách tin phát thanh của các đài vẫn chưa được khẳng định rõ nét.
Thứ ba, tin phát thanh hiện nay, đặc biệt là tin của các đài phát thanh địa phương vẫn
chưa tận dụng thỏa đáng sức mạnh của âm thanh tổng hợp. Thứ tư, về ngôn ngữ, tuy
đã có sự dịch chuyển đến gần hơn với ngôn ngữ nói nhưng trong tin phát thanh hiện
nay, ngôn ngữ báo in vẫn chiếm ưu thế. Thứ năm, về mặt địa lý, vùng nông thôn,
miền núi vẫn chưa được quan tâm thỏa đáng trong tin phát thanh.
4.3. Sự giao thoa về mặt thể loại giữa tin và các thể loại khác
Trong thực tiễn đời sống của tin phát thanh hiện nay, sự giao thoa giữa tin và
nhiều thể loại diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Sự giao thoa này đã trở thành một yếu tố
thúc đẩy và tham gia vào sự vận động của tin phát thanh, làm cho tin phát thanh
17
ngày càng trở nên sinh động, phong phú hơn. Chúng tôi nêu những giao thoa chính,
đó là sự giao thoa giữa tin và bình luận, sự giao thoa giữa tin và tường thuật và sự
giao thoa giữa tin và phóng sự.
4.4. Xu hướng vận động, phát triển của tin phát thanh ở Việt Nam
Căn cứ vào những điều kiện đời sống kinh tế, chính trị đang vận động, đổi
mới, những nhu cầu, thói quen của công chúng cũng tiếp tục vận động, những quy
luật vận động, phát triển của tin phát thanh trong thời gian qua mà chúng tôi đã nhận
diện và phân tích trong chương 2 và chương 3, chúng tôi xác định những xu hướng
vận động, phát triển của tin phát thanh trong khoảng thời gian 15 năm tới như sau:
- Xu hướng tăng cường đưa tin trực tiếp:
Tăng cường tính nhanh nhạy của tin bằng cách đưa tin trực tiếp, rút ngắn
khoảng thời gian từ khi sự kiện diễn ra đến khi sự kiện được phản ánh trên sóng sẽ là
một xu hướng mạnh mẽ của báo phát thanh. Các đài phát thanh nhận thấy đưa tin
trực tiếp cũng là giải pháp để báo phát thanh phát huy được ưu thế và khẳng định
được vị trí trong việc đưa tin nhanh, khi mà các loại hình báo chí khác cũng đang
liên tục khai thác các khả năng cập nhật tin tức nhanh chóng. Nhằm tăng cường năng
lực đưa tin trực tiếp, các chương trình sẽ được xây dựng theo hướng tăng tính mở,
tạo điều kiện để những người làm chương trình có thể bỏ đi những tin cũ để dành

thời lượng cho các phóng viên phản ánh những tin mới, đang hoặc vừa diễn ra. Cách
thức làm tin kết nối với phóng viên tại hiện trường và dành sóng để phóng viên phản
ánh sẽ trở nên phổ biến.
- Xu hướng nâng cao tính gần gũi, thiết thực trong tin phát thanh:
Những công trình nghiên cứu về công chúng phát thanh cho thấy, công chúng
thực sự cần những thông tin liên quan trực tiếp tới cuộc sống của họ. Trong bối cảnh
bùng nổ truyền thông, khi công chúng có rất nhiều sự lựa chọn, những đài phát
thanh, chương trình phát thanh không khai thác được thông tin gần gũi với người
18
nghe sẽ không thu hút được họ. Do vậy, đẩy mạnh việc khai thác thông tin gần gũi,
thiết thực trong tin phát thanh sẽ trở thành một xu hướng mạnh mẽ.
- Xu hướng tăng cường tính chất ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu
Tin sẽ ngày càng ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu bởi đây là cách thức giúp công
chúng tiếp nhận dễ dàng và hiệu quả. Cuộc sống hiện đại năng động cũng khiến con
người luôn phải tiết kiệm thời gian và họ tự loại bỏ những gì dài dòng, thiếu sự rõ
ràng.
Xu hướng tạo dựng phong cách riêng trong đưa tin phát thanh:
Phong cách tin phát thanh cũng sẽ ngày càng rõ nét hơn với việc phát huy đặc
điểm của loại hình nhờ hình thức phóng viên phát thanh trực tiếp đưa tin từ hiện
trường. Thông qua hình thức này, phong cách đưa tin của các đài phát thanh, cách
khai thác đề tài, chủ đề, góc độ tiếp cận sự kiện và cách thể hiện của mỗi đài sẽ thể
hiện rõ nét hơn.
- Xu hướng tăng tỷ lệ tin có âm thanh gốc:
Tin có âm thanh gốc bao gồm lời phát biểu của nhân vật trong sự kiện, tiếng
động hiện trường và phóng viên trong tư cách là người đang có mặt tại hiện trường
sự kiện, chứng kiến và phản ánh đang xuất hiện ngày càng phổ biến. Dạng tin này
cho phép chuyển tải tính chân thực, sinh động, hấp dẫn người nghe. Việc phát huy
ưu điểm của dạng tin này, tăng cường sử dụng âm thanh gốc trong tin phát thanh có
thể nhận thấy là một xu hướng rõ rệt.
- Xu hướng tăng cường sử dụng ngôn ngữ nói và thể hiện tin dưới hình

thức nói:
Nếu xác định hình thức đưa tin trực tiếp từ hiện trường sẽ phổ biến hơn cùng
việc sử dụng âm thanh gốc phong phú hơn thì điều này cũng cho phép chúng ta
khẳng định việc sử dụng ngôn ngữ nói sẽ được thúc đẩy như một kết quả tất yếu.
Hình thức “nói tin” nhìn chung mang lại sự gần gũi, sinh động, dễ tiếp nhận
hơn hình thức đọc tin, do vậy dễ thu hút được sự chú ý của người nghe hơn.
19
- Sự giao thoa giữa tin và các thể loại khác sẽ còn diễn ra nhiều hơn cả về
mức độ và tần suất:
Mỗi thể loại có những ưu thế riêng trong việc chuyển tải thông tin. Nhằm tạo
sức mạnh tổng hợp để thông tin có hiệu quả tới công chúng, tin phát thanh sẽ còn
tiếp tục giao thoa với các thể loại khác nhiều hơn cả về tần suất và chiều sâu.
4.5. Một số khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng của tin phát
thanh trong xu thế vận động, phát triển
Thứ nhất, cần nâng cao năng lực tự sản xuất tin. Theo chúng tôi, cần phấn đấu
trên 50% tin trên sóng là tin do phóng viên, cộng tác viên của đài phát thanh tự thực
hiện. 50% là con số nhằm đảm bảo tỷ lệ cân bằng giữa tin sự sản xuất và tin khai
thác được. Tỷ lệ này cho phép thể hiện rõ hơn tiếng nói của đài phát thanh trước đời
sống biến động hàng ngày, khẳng định năng lực phản ánh đời sống cũng như khẳng
định vai trò trong lòng công chúng.
Thứ hai, cần phát huy tính mở của hệ chương trình. Đây là giải pháp nhằm
tăng tính chất đồng hành với các sự kiện và tạo không gian, thời lượng thỏa đáng để
thông tin đầy đủ, kịp thời.
Thứ ba, cần tăng cường sự ưu tiên đối với các chủ đề có ý nghĩa thiết thực đối
với đời sống của người dân, đồng thời quan tâm nhiều hơn nhiều hơn đến các sự
kiện diễn ra vùng nông thôn, miền núi. Người làm tin cần tập trung vào câu hỏi: có
điều gì có ích đối với công chúng?
Thứ tư, nâng cao các yêu cầu về sử dụng ngôn ngữ trong tin phát thanh, theo
đó, ngôn ngữ trong tin vừa mang lại sự dễ hiểu, dễ tiếp nhận cho toàn thể công
chúng, vừa tham gia sâu sắc vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

Thứ năm, nâng cao chất lượng và mức độ sử dụng âm thanh gốc trong tin.
Chú trọng âm thanh gốc là một giải pháp nâng cao chất lượng của tin phát thanh. Để
dạng âm thanh này xuất hiện nhiều hơn, cần đặt ra những yêu cầu cụ thể đối với
20
phóng viên trong quá trình tác nghiệp, theo đó, việc khai thác âm thanh gốc là một
yêu cầu bắt buộc, trừ trường hợp đặc biệt.
Thứ sáu, cần đẩy mạnh ứng dụng về chiều sâu phương thức sản xuất chương
trình phát thanh trực tiếp, qua đó phát huy các tính năng, ưu thế của phương thức
này. Để ứng dụng sâu và tận dụng các ưu điểm của phương thức sản xuất chương
trình phát thanh trực tiếp, cần sự phối hợp tốt ở tất cả các yếu tố kỹ thuật, công nghệ,
con người và cơ chế điều hành sản xuất chương trình.
Thứ bảy, cần đẩy mạnh ứng dụng về chiều sâu phương thức sản xuất chương
trình phát thanh trực tiếp.
Tiểu kết chương 4:
Trong chương 4, chúng tôi đi vào tổng kết, phân tích những thành công, hạn
chế của tin phát thanh trong sự vận động và phát triển hiện nay, xác định các xu
hướng vận động, phát triển của tin phát thanh và đưa ra một số khuyến nghị. Những
thành công cho thấy, tin phát thanh đã phản ánh nhanh, phong phú, chính xác, thiết
thực, sinh động hơn các sự kiện trong mọi mặt đời sống. Những hạn chế là tốc độ
cập nhật tin hiện nay vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của làn sóng phát thanh,
phong cách tin của các đài phát thanh chưa được khẳng định rõ nét. Những hạn chế
về ngôn ngữ và âm thanh gốc trong tin phát thanh cũng đang được đặt ra.
Những xu hướng vận động, phát triển của tin phát thanh trong tương lai gần là
tin phát thanh sẽ vận động theo hướng tăng cường tin trực tiếp, tăng tính thiết thực,
gần gũi, sử dụng ngôn ngữ nói với hình thức nói tin nhiều hơn, tăng cường tỷ lệ tin
có âm thanh gốc đồng thời phát huy những cách thức thể hiện góp phần tăng tính
thuyết phục trong thông tin, sự rõ ràng, dễ tiếp nhận trong kết cấu, tổ chức và thể
hiện dấu ấn riêng.
Những khuyến nghị là cần lưu ý là việc tạo ra cơ chế nâng cao năng lực tự sản
xuất tin, đồng thời nâng cao tính mở của hệ chương trình, ứng dụng phương thức sản

xuất chương trình phát thanh trực tiếp theo chiều sâu, ưu tiên các chủ đề có ý nghĩa
21
thiết thực đối với đời sống của người dân, nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ và
âm thanh gốc.
KẾT LUẬN
1. Những thành tựu khoa học công nghệ và phương thức sản xuất chương
trình hiện đại đã hỗ trợ đắc lực cho báo phát thanh phát huy năng lực đưa tin, đáp
ứng nhu cầu của công chúng hiện đại trong bối cảnh đời sống không ngừng được
nâng cao về mọi mặt. Vận động là đòi hỏi tất yếu trong một bối cảnh mà các điều
kiện đều đã thay đổi. Trong những năm qua, các đài phát thanh ở Việt Nam đã tích
cực đổi mới cách thức tổ chức sản xuất tin. Thể loại tin trên sóng phát thanh ở nước
ta nhờ vậy đã không ngừng vận động, phát triển. Việc nghiên cứu những vận động,
phát triển này là điều cần thiết để tổng kết thực tiễn, xác định thành công, hạn chế, dự
báo xu hướng và tìm giải pháp để tiếp tục nâng cao chất lượng tin phát thanh, đồng
thời bổ sung lý luận về thể loại nòng cốt này.
2. Xác định vận động, phát triển là một quá trình, chúng tôi đặt thực trạng tin
phát thanh hiện nay trong tương quan so sánh với tin phát thanh ở một mốc trong
quá khứ để thấy rõ sự vận động, phát triển. Đó là mốc năm 1993 – mốc phương thức
sản xuất chương trình phát thanh trực tiếp bắt đầu được ứng dụng ở Việt Nam.
Những điều kiện chủ yếu thúc đẩy sự vận động, phát triển của tin phát thanh được
xác định là sự đổi mới của đời sống chính trị - kinh tế - văn hóa đất nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng là điều kiện dẫn đến sự thay đổi về nhu cầu, thói quen, thị hiếu
của công chúng báo chí, trong đó có công chúng báo phát thanh. Khi nhu cầu của
công chúng thay đổi, sự vận động của thể loại tin phát thanh là tất yếu để thích ứng.
Sự vận động của một thể loại - thể loại tin phát thanh chủ yếu được thể hiện trên các
bình diện nội dung, hình thức và phương thức tổ chức sản xuất.
3. Trên cơ sở xác định rõ tiền đề nghiên cứu, luận án đi vào khảo sát những
vận động, phát triển ở các bình diện này.
22
Tần suất dày và các thời điểm liên tục, thuận lợi cho tiếp nhận đã tạo ra không

gian để tin phát thanh phát huy những đặc tính của mình. Độ cập nhật của sự kiện
trong tin phát thanh được nâng lên, tin phát thanh đã thực sự phản ánh những sự kiện
vừa xảy ra. Phạm vi đề tài ngày càng mở rộng và thể hiện sự hài hòa, phong phú
trong mỗi chương trình. Chủ đề và góc độ đưa tin đã được thể hiện rõ nét và thể hiện
tính thiết thực, gần gũi. Chi tiết tin phát thanh được tăng cường tính chọn lọc. Câu
mở đầu đã trở thành yếu tố quan trọng trực tiếp thể hiện chủ đề và góc độ đưa tin,
chuyển tải thông tin quan trọng nhất và tạo sự hấp dẫn đối với người nghe. Âm
thanh gốc đã thực sự mang đến cho tin phát thanh sự sinh động, chân thực, phát huy
những ưu thế của hình thức đưa tin bằng âm thanh.
Về hình thức, thời lượng của tin phát thanh nhìn chung ngắn gọn hơn và có sự
kết hợp giữa tin dài hơn và tin ngắn hơn trong một chương trình nhằm tạo điểm nhấn
thông tin. Ngôn ngữ của tin vận động để đến gần hơn với ngôn ngữ nói đồng thời
chuyển tải tính chất thời sự nóng hổi của tin đến với công chúng. Các dạng tin và các
mô hình kết cấu vận động theo hướng nhấn mạnh và làm nổi bật thông tin quan
trọng, làm phong phú cách thức thể hiện và tăng cường sử dụng âm thanh gốc. Sự
tham gia của lời dẫn tin với tư cách vừa độc lập vừa phụ thuộc đã gắn kết tin, làm tin
trở nên hấp dẫn, sinh động hơn, dễ dàng hơn trong tiếp nhận. Tít tin đã thể hiện chức
năng gọi tên sự kiện, thể hiện sự hấp dẫn, mới mẻ của sự kiện trong tin phát thanh.
Bên cạnh đó, những đổi mới trong phương thức tổ chức sản xuất tin phát
thanh cho thấy sự vận động mạnh mẽ để đẩy mạnh tốc độ cập nhật tin, nâng cao tính
phong phú, kết nối tạo hiệu quả chung trong chương trình và hệ chương trình.
4. Những thành công cho thấy, tin đã được phát huy về mức độ nhanh nhạy,
mở rộng về phạm vi phản ánh, đảm bảo tính chính xác, tính thiết thực và sự sinh
động, gần gũi của thông tin, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của công chúng, qua
đó thực hiện tốt các năng của báo chí. Những hạn chế đặt ra trong sự vận động, phát
triển là dù đã vận động, phát triển mạnh mẽ so với trước đây nhưng tốc độ cập nhật
23
tin hiện nay tuy vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của làn sóng phát thanh, phong
cách tin của các Đài phát thanh chưa được khẳng định rõ nét. Ngôn ngữ trong tin
phát thanh vẫn chủ yếu là ngôn ngữ viết – ngôn ngữ tin báo in và việc sử dụng âm

thanh gốc trong tin còn hạn chế.
Về những xu hướng vận động, phát triển của tin phát thanh trong tương lai
gần, chúng tôi xác định, tin phát thanh sẽ vận động theo hướng tăng cường tin trực
tiếp, tăng tính thiết thực, gần gũi, sử dụng ngôn ngữ nói với hình thức nói tin nhiều
hơn, tăng tỷ lệ tin có âm thanh gốc đồng thời phát huy những cách thức thể hiện góp
phần tăng tính thuyết phục trong thông tin, sự rõ ràng, dễ tiếp nhận trong kết cấu, tổ
chức. Các phong cách tin của các đài phát thanh cũng sẽ dần hình thành rõ nét.
Để nâng cao chất lượng của tin phát thanh trong xu hướng vận động, phát
triển không ngừng, cần tạo ra cơ chế nâng cao năng lực tự sản xuất tin, nâng cao tính
mở của Hệ chương trình, ứng dụng sâu rộng phương thức sản xuất chương trình phát
thanh trực tiếp, cần ưu tiên các chủ đề có ý nghĩa thiết thực, nâng cao các yêu cầu về
sử dụng ngôn ngữ trong tin phát thanh, nâng cao chất lượng âm thanh gốc trong tin.
5. Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi thấy có những vấn đề cần tiếp
tục triển khai như sự ảnh hưởng của tin phát thanh lên các thể loại khác của báo phát
thanh ở Việt Nam trong sự vận động, phát triển, đặc điểm của tin phát thanh có hình
ảnh và các mối quan hệ bên trong với tin phát thanh truyền thống, nghiên cứu sâu về
sự vận động của tin phát thanh và báo phát thanh trên thế giới… Do khuôn khổ luận
án và thời gian có hạn, chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu, hy vọng trong
thời gian gần đây sẽ có dịp tiếp tục nghiên cứu các vấn đề đó.
24

×