1
LỜI NÓI ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Trong hơn 25 năm qua, hoạt động của các Ngân hàng Thương mại
Việt Nam (NHTMVN) đã có những đóng góp đáng kể vào quá trình đổi
mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hoạt động của các NHTM không chỉ
tiếp tục khẳng định là một kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, mà
còn góp phần ổn định sức mua đồng tiền, cung cấp ngày càng đa dạng
phong phú các dịch vụ hiện đại tiện ích cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp
trong nền kinh tế.
Đến nay, vốn cung ứng cho nền kinh tế chủ yếu do các NHTM đáp
ứng, theo tính toán của một số chuyên gia kinh tế tổng tài sản của hệ thống
lên tới khoảng 140% GDP. Cùng với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, hệ
thống các NHTM cũng được cơ cấu lại, số lượng các NHTM VN đã tăng
lên.
Tính đến cuối năm 2013, có 5 NHTM Nhà nước (trong đó có 4
NHTM đã được cổ phần hóa đó là : Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam -
VCB, Ngân hàng Công thương Việt Nam - Vietinbank, Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam - BIDV và Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng Bằng
Sông Cửu Long - MHB), 34 NHTMCP, 4 ngân hàng liên doanh, 5 ngân
hàng có 100% vốn nước ngoài và 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Về mạng lưới hoạt động trong cả nước hiện nay, các NHTM NN và
NHTMCP đang dẫn đầu so với NHLD và ngân hàng nước ngoài. Hệ thống
các ngân hàng nước ngoài chiếm số lượng nhỏ về đầu mối mạng lưới hoạt
động, cho thấy còn đang thăm dò thị trường và sẽ mở rộng phát triển trong
tương lai. Hiện có 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài với 14 chi nhánh tại
các tỉnh, thành phố lớn trên cả nước.
-2-
Bên cạnh các kết quả đạt được nói trên hoạt động của các NHTM
Việt Nam, cũng còn các tồn tại, hạn chế : tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn trên
tổng dư nợ tăng mạnh; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu ở một số NHTM chưa
đảm bảo theo quy định; tình hình thanh khoản ở một số NHTM có thời
điểm còn căng thẳng; tình trạng cạnh tranh chưa lành mạnh giữa các
NHTM ngày càng gay gắt; hoạt động còn tiềm ẩn nguy cơ bất ổn, rủi ro
có thể xảy ra khi môi trường kinh tế - xã hội trong và ngoài nước biến
động bất thường; vấn đề sở hữu chéo giữa các ngân hàng và ngân hàng,
giữa ngân hàng và DN…
Các tồn tại, hạn chế nói trên do các nguyên nhân khách quan và
chủ quan. Ngoài nguyên nhân từ phía bản thân các NHTM (hoạt động
quản trị, điều hành còn hạn chế; hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ
chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi; ý thức tuân thủ của không ít NHTM
chưa cao….) còn có nguyên nhân từ hoạt động quản lý đối với hoạt động
của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Mặt dù hoạt động quản lý,
giám sát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các cơ quan có thẩm quyền
đối với hoạt động của các NHTM thời gian qua đạt được nhiều thành tích
đáng kể, nhưng cũng còn một số bất cập.
Để góp phần thúc đẩy các NHTM hoạt động an toàn, lành mạnh,
làm tốt vai trò trung gian tài chính, đẩy mạnh huy động nguồn vốn để
cung ứng vốn cho nền kinh tế, cần thiết nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt
động quản lý nhà nước nói chung, trong đó có vai trò quản lý, giám sát của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) đối với hoạt động của các
NHTM.
Xuất phát từ các lý do nói trên, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài
nghiên cứu : “Nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối
với hoạt động của các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam”.
-3-
2- Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
* Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
- Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về việc quản lý, giám sát hiệu
quả của Ngân hàng Trung ương (NHTW) đối với hoạt động của các
NHTM, tuy nhiên đều dưới các dạng tài liệu mang tính lý thuyết, chưa gắn
với điều kiện thực tế ở Việt Nam.
- Đối với nghiên cứu về mô hình quản lý, giám sát của Ngân hàng
Trung ương đối với hoạt động của các NHTM :
+ Để ủng hộ cho mô hình Ngân hàng Trung ương giám sát ngân
hàng, các nhà nghiên cứu đưa ra các lý do sau :
-> An toàn, lành mạnh và ổn định hệ thống. Thứ nhất là tiếp cận
thông tin. NHTW cần có thông tin chính xác và kịp thời về tình trạng và
hiệu quả hoạt động của các ngân hàng như là điều kiện tiên quyết cho việc
xây dựng CSTT. Hơn nữa, NHTW cần tiếp cận thông tin về tình trạnh
thanh khoản của các ngân hàng để thực hiện chức năng của người cho vay
cuối cùng. Ðặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, có thông tin kịp
thời là hết sức quan trọng vì nó hỗ trợ kịp thời cho NHTW ra quyết định
(kết quả nghiên cứu của : Haubrich, 1996; Peek, Rosenren và Tootle,
1999). Thứ hai là tính độc lập. Theo Giddy (1994), Abrams và Taylor
(2001), sự độc lập của cơ quan giám sát cho phép họ thực thi hành động.
Và những hành động đó là cần thiết cho hệ thống giám sát ngân hàng hiệu
quả. Ðặc biệt trong một số nền kinh tế mới nổi và chuyển dịch, theo Taylor
(2001, trang 28), thì việc uỷ thác cho NHTW vai trò giám sát ngân hàng là
cần thiết để tránh chính trị hoá quy định ngân hàng”.
-> Chi phí cho các cơ quan thanh tra giám sát. Theo Abrams và
Taylor (2001), NHTW có lợi thế so sánh trong việc tuyển dụng và giữ
-4-
chân đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp do chính sách đãi ngộ tốt cũng như
môi trường chuyên nghiệp để phát triển.
+ Những lập luận không ủng hộ việc Ngân hàng Trung ương đảm
nhận chức năng giám sát ngân hàng :
-> An toàn, lành mạnh và ổn định hệ thống. Thứ nhất là xung đột lợi
ích. Theo Goodhart và Schoenmaker (1995), trong trường hợp NHTW vừa
đảm nhiệm vai trò giám sát ngân hàng vừa điều hành CSTT, nó có thể mở
rộng CSTT quá mức để tránh ảnh hưởng lên lợi nhuận và chất lượng tín
dụng. Thứ hai là rủi ro danh tiếng. Nếu NHTW chịu trách nhiệm giám sát
ngân hàng và vụ phá sản ngân hàng xảy ra thì CSTT của NHTW cũng sẽ bị
ảnh hưởng theo (Haubrich, 1996; Brianlt, 1999). Thứ ba là tiếp cận thông
tin. Theo Haubrich (1996), trường hợp NHTW không đảm nhận vai trò
giám sát ngân hàng mà chuyển chức năng này sang cho một cơ quan khác
thì NHTW vẫn có thể có được thông tin kịp thời và chính xác thông qua
các thoả thuận chia sẻ thông tin. Ngoài ra, việc tách bạch vai trò giám sát
và điều hành CSTT có thể mang đến lợi ích từ sự “cạnh tranh ý tưởng”.
Thứ tư là sự độc lập. Nếu NHTW kiêm luôn vai trò giám sát ngân hàng thì
việc tập trung nhiều quyền lực thường dễ đe doạ tính độc lập của nó bởi sự
can thiệp chính trị.
Một số nghiên cứu thực nghiệm ủng hộ cho việc nên tách bạch
NHTW ra khỏi chức năng giám sát ngân hàng. Ðiển hình như các nhà
nghiên cứu Goodhart và Schoenmaker (1995), hai tác giả tìm thấy rằng
việc chống lạm phát sẽ tốt hơn nhiều nếu NHTW được độc lập với vai trò
giám sát ngân hàng. Ngoài ra, Miller và Schmidt (2002) sử dụng dữ liệu
của hệ thống ngân hàng Mỹ để kiểm tra giả thuyết rằng NHTW với việc
truy cập cơ sở dữ liệu mật về giám sát có thể nâng cao khả năng dự báo và
do đó tăng cường nổ lực CSTT. Nghiên cứu chỉ ra rằng không có bằng
chứng thực nghiệm nào ủng hộ cho cái gọi là “truy cập thông tin”.
-5-
Trái ngược với một số lập luận trên, một số nghiên cứu thực nghiệm
khác lại ủng hộ cho sự kết hợp giữa NHTW và giám sát ngân hàng. Peek,
Rosengren và Tootle (1999) tìm thấy rằng tiếp cận thông tin kịp thời giúp
tăng cường tính chính xác khả năng dự báo tình hình kinh tế vĩ mô của
NHTW. Ngoài ra, Goodhart và Schoenmaker (1995) sử dụng dữ liệu của
104 ngân hàng phá sản trong 24 nước trong suốt thập kỷ 1980 và tìm thấy
rằng chỉ số ít ngân hàng bị phá sản trong những nước mà CSTT và giám
sát ngân hàng đều do NHTW đảm nhận. [13]
Các nghiên cứu nói trên về mô hình quản lý, giám sát của Ngân
hàng Trung ương đối với hoạt động của các NHTM cho thấy khoảng trống
trong nghiên cứu là chưa đưa ra được mô hình thể chế quản lý, giám sát
hoàn hảo, lý tưởng cho toàn thế giới.
- Về “25 nguyên tắc cơ bản về giám sát hệ thống ngân hàng hiệu
quả” của Uỷ ban Basel (Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng - Basel
Committee on Banking supervision – BCBS, được thành lập bởi một nhóm
các NHTW và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố
Basel, Thụy Sỹ) đưa ra, dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của các nước
trên toàn cầu.
Nhằm tạo điều kiện phổ biến kinh nghiệm quốc tế và đúc kết lại
thành 25 nguyên tắc cơ bản trong việc giám sát hoạt động ngân hàng hiệu
quả. Nội dung gồm 25 nguyên tắc cơ bản và được chia thành 7 nhóm sau :
(Nhóm 1) Nguyên tắc 1 : Các tiền đề để giám sát ngân hàng hiệu quả;
(Nhóm 2) Các nguyên tắc 2 - 5 : Cấp phép và cơ cấu; (Nhóm 3) Các
nguyên tắc 6 - 15 : Quy chế và yêu cầu về giám sát thận trọng; (Nhóm 4)
Các nguyên tắc 16 - 20 : các phương pháp giám sát ngân hàng liên tục;
(Nhóm 5) Nguyên tắc 21 : các yêu cầu về thông tin; (Nhóm 6) Nguyên tắc
22: quyền lực của thanh tra ngân hàng; (Nhóm 7) Các nguyên tắc 23 - 25:
hoạt động thanh tra ngân hàng xuyên quốc gia.
-6-
Mục tiêu của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên
hai nguyên lý cơ bản là : (1) không ngân hàng nước ngoài nào được thành
lập mà thoát khỏi sự giám sát; và (2) việc giám sát phải tương xứng.
Trong số 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát hệ thống ngân hàng hiệu
quả nói trên, hiện nay Việt Nam chỉ mới đáp ứng một số nguyên tắc, số
còn lại chưa được nghiên cứu áp dụng.
* Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở trong nước, giai đoạn trước đây nước ta chưa hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực, cũng đã có các công trình nghiên cứu liên quan đến
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực : tiền tệ, tín dụng, Quỹ tín dụng Nhân
dân, thị trường chứng khoán, thương mại, bảo hiểm, các Tổng công ty ….;
nhưng chưa có công trình nghiên cứu về quản lý của Ngân hàng Nhà nước
đối với các hoạt động của các NHTM ở Việt Nam kể từ sau giai đoạn nước
ta hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực (từ đầu năm 2007).
- Đề tài nghiên cứu khoa học của Trần Đình Ty và Nguyễn Văn
Cường “Quản lý nhà nước đối với tiền tệ, tín dụng - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn”, đã cung cấp những vấn đề lý luận cơ bản, chỉ ra mặt được và
hạn chế về tiền tệ, tín dụng ở Việt Nam, qua đó đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước đối với tiền tệ, tín dụng ở Việt
Nam. Nhưng khoảng trống trong nghiên cứu là chưa nghiên cứu về hiệu
quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của các NHTM ở
Việt Nam.
- Trong Luận án tiến sĩ Kinh tế năm 2011, về “Quản lý Nhà nước
đối với hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam”,
TS Lê Ngọc Lân đã hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân
hàng và vai trò quản lý nhà nước đối với tín dụng ngân hàng trong nền
kinh tế thị trường; luận giải về sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với
-7-
hoạt động tín dụng của NHTM, nội dung và công cụ quản lý nhà nước đối
với hoạt động tín dụng của NHTM; đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng
và quản lý hoạt động tín dụng tại Việt Nam giai đoạn từ 2005 – 2010; kinh
nghiệm quản lý hoạt động tín dụng của một số nước; tác giả cũng xác định
phạm vi quản lý nhà nước đối với hoạt động tín dụng ngân hàng theo các
nội dung và yêu cầu cụ thể của tình hình hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất
một số biện pháp nhằm thực hiện tốt hơn chức năng quản lý nhà nước của
NHNN Việt Nam đối với hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, khoảng trống
trong nghiên cứu là hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt
động của các NHTM ở Việt Nam
- Báo cáo nghiên cứu “Chiến lược tổng thể phát triển ngành dịch vụ
tới năm 2020 (CSSSD) và tầm nhìn tới năm 2025” (có nội dung chiến lược
phát triển dịch vụ ngân hàng) trong khuôn khổ Dự án Hỗ trợ thương mại
Đa biên giai đoạn III (EU-Việt Nam MUTRAP III) và nghiên cứu bởi một
nhóm các chuyên gia quốc tế và chuyên gia Việt Nam đã phân tích tổng
thể những thách thức và đưa ra các khuyến nghị để vượt qua các thách
thức trong việc phát triển dịch vụ nói chung và dịch vụ ngân hàng nói
riêng.
Báo cáo nghiên cứu đã chỉ rõ các điều kiện tiên quyết để thúc đẩy
tăng trưởng của lĩnh vực ngân hàng, đó là : (i) ổn định vĩ mô là điều kiện
cần thiết cho sự tăng trưởng và bền vững của lĩnh vực ngân hàng; (ii) môi
trường kinh doanh thuận lợi cho sự tăng trưởng của dịch vụ ngân hàng;
(iii) áp dụng công nghệ thông tin hiện đại là nền tảng cho việc phát triển
các dịch vụ ngân hàng hiện đại; (iv) nguồn nhân lực chất lượng cao là điều
kiện cần thiết để phát triển dịch vụ ngân hàng; (v) củng cố việc bảo vệ
quyền của người cấp tín dụng và thành lập cơ chế phá sản hiệu quả là yếu
tố quan trọng trong việc củng cố lòng tin vào hệ thống ngân hàng và đóng
góp vào sự phát triển của dịch vụ ngân hàng [10]. Khoảng trống trong
-8-
nghiên cứu của Báo cáo là hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối
với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam.
- Theo Kỷ yếu Hội thảo khoa học (12/2008) do Ngân hàng thương
mại cổ phần Liên Việt phối hợp với trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
tổ chức với chủ đề “Tác động CSTT đối với hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại Việt Nam”, cũng chỉ mới nghiên cứu một nội dung
đó là : CSTT có vai trò quan trọng trong việc điều tiết, tác động đến hoạt
động của các NHTM; đặc biệt khi có lạm phát cao do tác động từ bên
ngoài (khủng hoảng tài chính - tiền tệ) và các yếu tố nội tại của nền kinh
tế, NHTW phải thực hiện CSTT thắt chặt để kiềm chế lạm phát.
Việc thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát vào năm 2008 đã có
những tác động tích cực góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu chống lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, những diễn
biến kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước, sự tác động của khủng hoảng tài
chính toàn cầu, cũng như điều hành CSTT của NHNN đã tác động đến
hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam, như : thiếu thanh khoản,
lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng cao, lãi suất huy động vốn tăng cao
nhưng lãi suất cho vay nằm trong giới hạn của lãi suất cơ bản và Luật Dân
sự. Khoảng trống trong nghiên cứu là hoạt động của các NHTM không chỉ
chịu sự tác động của chính sách tiền tệ, mà còn chịu ảnh hưởng của các
nhân tố khác trong đó có sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
- Trong luận án “Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của
Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam” (2003), tác giả Ngô Quốc Kỳ nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của
NHTM, trên cơ sở đánh giá một cách khách quan thực trạng pháp luật điều
chỉnh hoạt động của NHTM ở Việt Nam; đề xuất phương hướng và những
giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của NHTM trong nền
-9-
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam từ sau năm 2002.
Khoảng trống trong nghiên cứu là việc tác động, điều chỉnh hoạt động của
các NHTM không chỉ là pháp luật, mà còn là : việc hoạch định, điều hành
chính sách tiền tệ; hoạch định chiến lược phát triển các NHTM; hoạt động
thanh tra, giám sát…
- Có các đề tài và bài viết nghiên cứu về sự cần thiết phải xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về dịch vụ ngân hàng, nhằm tạo điều kiện cho việc
phát triển dịch vụ ngân hàng và tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; vấn đề này chỉ là một nội dung của quản
lý nhà nước đối với hoạt động của các NHTM.
Nghiên cứu của Đoàn Thái Sơn (2008) “Thực trạng và định hướng
hoàn thiện pháp luật về dịch vụ ngân hàng” cho thấy : quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng,
thì việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ
ngân hàng đã góp phần đáng kể làm thay đổi căn bản về cả số lượng và
chất lượng dịch vụ của các NHTM. Về cơ bản, Luật các TCTD và các văn
bản hướng dẫn thi hành luật này đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý tương
đối hoàn chỉnh cho hoạt động cung cấp dịch vụ của các NHTM và hoạt
động quản lý của NHNN.
Tuy nhiên, do sự thay đổi nhanh chóng của hoạt động cung cấp dịch
vụ ngân hàng, cần thiết phải hoàn thiện khung pháp lý về dịch vụ ngân
hàng để hỗ trợ cho các NHTM phát triển các dịch vụ ngân hàng, đồng thời
tạo cơ sở pháp lý phù hợp cho hoạt động quản lý, giám sát của NHNN.
Nghiên cứu trên của Đoàn Thái Sơn về khuôn khổ pháp lý đối với dịch vụ
ngân hàng chưa chỉ ra được hệ thống văn bản quy định chi tiết hướng dẫn
thi hành luật, pháp lệnh đã được các cấp có thẩm quyền ban hành gần đây.
-10-
- Đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát của nhà
nước đối với thị trường bảo hiểm ở Việt Nam” của nhóm tác giả Học viện
Tài chính, do Hoàng Trần Hậu làm chủ nhiệm đề tài, nghiên cứu lý luận về
thị trường bảo hiểm và quản lý, giám sát của Nhà nước đối với thị trường
bảo hiểm; phân tích thực trạng hoạt động của thị trường và thực tế hoạt
động quản lý, giám sát thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua;
chỉ ra các nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn đe dọa sự phát triển an toàn của thị
trường và trước những xu hướng phát triển thị trường, từ đó đề tài đề ra
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát trong thời gian tới.
Đề tài nói trên chỉ nghiên cứu về hiệu quả quản lý, giám sát của Nhà nước
đối với thị trường bảo hiểm, nhưng không nghiên cứu đối với hiệu quả
quản lý của NHNN đối với hoạt động của Ngân hàng thương mại ở Việt
Nam.
Nói chung, qua thông tin tác giả có được, chưa có công trình nghiên
cứu tổng thể về hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt
động của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Các luận án, đề tài công
trình khoa học, bài viết chỉ nghiên cứu một khía cạnh hoặc một nội dung
trong quản lý đối với hoạt động của Ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Do đó, đề tài nghiên cứu : “Nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng
Nhà nước đối với hoạt động của các Ngân hàng Thương mại ở Việt
Nam” là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách tổng quát về
nâng cao hiệu quả quản lý của NHNNVN đối với hoạt động của các
NHTM ở Việt Nam.
3- Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hoá và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về Ngân hàng Trung
ương và hoạt động của các Ngân hàng thương mại; hiệu quả quản lý của
Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động của các NHTM.
-11-
- Phân tích thực trạng hoạt động của Ngân hàng Trung ương, các
Ngân hàng thương mại; hiệu quả quản lý của NHNN đối với hoạt động của
các NHTM ở Việt Nam thời gian qua; chỉ ra các tồn tại, hạn chế ảnh
hưởng đến hoạt động an toàn, bền vững của các NHTM.
- Nêu định hướng, quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN Việt Nam đối với hoạt động
của các NHTM ở Việt Nam thời gian đến.
4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu. Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu là hiệu
quả quản lý của NHTW đối với hoạt động của các NHTM.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài. (i) Quản lý nhà nước đối với hoạt
động của các NHTM được thực hiện bởi nhiều cơ quan quản lý khác nhau,
nhưng tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu ở hoạt động quản lý của NHNN
đối với hoạt động của các NHTM (chủ yếu đi sâu hoạt động huy động vốn
và tín dụng của NHTM). Đề tài này chỉ tập trung vào mục tiêu quản lý
nhằm đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng mà không bao hàm mục tiêu
của chính sách tiền tệ (ii) Thực trạng hiệu quả quản lý của NHNN đối với
hoạt động của các NHTM ở Việt Nam giai đoạn 2005 - đến cuối năm
2013. Tuy nhiên, nhằm để củng cố các kết quả phân tích hoặc để làm rõ
thêm hiệu quả hoạt động quản lý của NHTW và hoạt động của các NHTM,
tác giả có sử dụng số liệu trong các giai đoạn trước đó; (iii) Đề xuất định
hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN Việt Nam đối
với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam thời gian đến.
5- Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp chủ yếu được vận dụng trong quá trình nghiên cứu là
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời có kết hợp
với các phương pháp cụ thể như : thống kê, phân tích, so sánh…. Đề tài
-12-
còn vận dụng các quan điểm lý luận của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
định hướng quản lý của NHNN đối với hoạt động của các NHTM ở Việt
Nam.
6- Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Làm sáng tỏ các luận cứ khoa học về hiệu quả quản lý của NHTW
đối với hoạt động của các NHTM.
- Làm rõ việc nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN đối với hoạt
động của các NHTM ở Việt Nam.
- Góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của NHNN đối với hoạt động
của các NHTM ở Việt Nam trong thời gian tới.
7- Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, đề tài được trình bày gồm 3 chương.
Chương I Lý luận cơ bản về hiệu quả quản lý của Ngân hàng
Trung ương đối với hoạt động của các Ngân hàng thương mại.
Chương II Thực trạng hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước
đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam .
Chương III Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng
Nhà nước đối với hoạt động của các NHTM ở Việt Nam.
-13-
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1- Tổng quan về Ngân hàng Trung ương và hoạt động của các Ngân
hàng thương mại
1.1.1- Ngân hàng Trung ương
Hệ thống ngân hàng của các nước trên thế giới đã hình thành từ thế
kỷ thứ XVI, nhưng NHTW ra đời từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. [14]
Chức năng đầu tiên trước đây của NHTW là người cho vay cuối cùng đối
với các NHTM và cho vay đối với Chính phủ. Khi nền kinh tế phát triển,
thì hệ thống tài chính ngân hàng cũng phát triển theo, ngược lại khi nền
kinh tế bất ổn thì hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động sẽ khó khăn và
kém an toàn. Nền kinh tế bất ổn, lạm phát gia tăng có nhiều nguyên nhân
trong đó có nguyên nhân thuộc về yếu tố tiền tệ. Do đó, NHTW được bổ
sung chức năng ổn định giá trị đồng nội tệ và bảo đảm cho hệ thống tài
chính - ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh. [1]
Quá trình phát triển cho thấy NHTW ngày càng có vai trò, vị trí
quan trọng trong nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Chính vì
thế mà ngày nay nhiều nước không ngừng quan tâm việc củng cố, tăng
cường vai trò, vị trí của NHTW theo hướng hiện đại.
1.1.1.1- Mục tiêu của Ngân hàng Trung ương
Hoạt động của bất kỳ NHTW nào trên thế giới cũng nhằm theo đuổi
một số mục tiêu bao gồm : (i) Lạm phát thấp và ổn định; (ii) Tăng trưởng
kinh tế; (iii) Tạo công ăn việc làm; (iv) Đảm bảo an toàn hệ thống tài chính
- ngân hàng….Tuy nhiên, lý luận và thực tiễn của hầu hết các nước cho
thấy NHTW không thể đạt được đồng thời cùng một lúc tất cả các mục tiêu
trên.
-14-
Cụ thể, (i) nếu NHTW theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và
tạo nhiều công ăn việc làm, thất nghiệp thấp thì chỉ số lạm phát sẽ có xu
hướng tăng lên, ít nhất là trong trung và dài hạn; và khi lạm phát tăng lên,
sẽ tác động đến nền kinh tế, ảnh hưởng đến tính ổn định, an toàn của hệ
thống tài chính ngân hàng. (ii) Bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước biến
đổi. Do đó, khi có nhiều mục tiêu đòi hỏi NHTW phải thận trọng và linh
hoạt trong việc lựa chọn mục tiêu và xác định thứ tự ưu tiên mục tiêu.
NHTW với nhiều mục tiêu là mô hình NHTW truyền thống. Xu
hướng ngày nay, NHTW hiện đại chỉ theo đuổi mục tiêu duy nhất và cũng
là mục tiêu cuối cùng. NHTW hiện đại với mục tiêu duy nhất (mục tiêu
cuối cùng) có ưu điểm hơn so với mô hình NHTW với nhiều mục tiêu, đó
là : (i) NHTW sẽ lựa chọn công cụ CSTT phù hợp tác động để đạt được
mục tiêu này; (ii) sẽ đánh giá cụ thể được hiệu quả hoạt động của NHTW
thông qua điều hành CSTT nhằm đạt được mục tiêu duy nhất; (iii) tạo điều
kiện cho NHTW tập trung vào mục tiêu duy nhất này. [34]
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là để đạt được mục tiêu cuối cùng, NHTW
không thể tác động một cách trực tiếp mà là tác động gián tiếp thông qua
các công cụ CSTT. Mục tiêu cuối cùng thường là mục tiêu trung hạn và có
một độ trễ nhất định (từ 6 tháng đến 12 tháng). Hiện nay mục tiêu cuối
cùng của CSTT được NHTW các nước lựa chọn đó là ổn định giá cả, lạm
phát thấp và ổn định, từ đó sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế tạo công việc
làm; và một tác động tích cực quan trọng đó là với mục tiêu cuối cùng đạt
được giá cả ổn định, lạm phát thấp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
của Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động của hệ thống NHTM.
Trong quá trình truyền dẫn CSTT để đạt được mục tiêu cuối cùng
này, NHTW phải sử dụng các mục tiêu trung gian. Mục tiêu trung gian là
các biến số tiền tệ có quan hệ với các biến số kinh tế vĩ mô (Tăng trưởng
-15-
kinh tế, ổn định giá cả,…). Chỉ tiêu sử dụng làm mục tiêu trung gian gồm :
lượng tiền cung ứng; lãi suất thị trường; tổng khối lượng tín dụng; tỷ giá…
Mục tiêu hoạt động (hay mục tiêu công cụ) là các biến tiền tệ mà
NHTW kiểm soát và dự báo trước được tác động thông qua việc sử dụng
các công cụ CSTT nhằm đạt được mục tiêu trung gian, từ đó tác động đến
mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu hoạt động được chia ra : mục tiêu hoạt động
là giá cả tiền tệ và mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ.
Mục tiêu hoạt động là giá cả tiền tệ có nghĩa là những thay đổi tạm
thời của cung và cầu tiền cơ bản chỉ nhằm đạt được mục tiêu là đảm bảo
lãi suất ngắn hạn trên thị trường xoay quanh lãi suất mục tiêu. Mục tiêu
hoạt động là khối lượng tiền tệ, NHTW không điều tiết thay đổi của cầu
tiền cơ bản và bỏ qua những tác động của lãi suất mà chỉ quan tâm đến tiền
cơ bản có phù hợp với mục tiêu hay không [1]. Quan hệ giữa các mục tiêu
hoạt động, mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng được tóm tắt trong
bảng 1.1 dưới đây :
Bảng 1.1 Quan hệ giữa mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và mục
tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ
Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu trung gian
Mục tiêu cuối cùng
- Giá cả tiền tệ.
- Khối lượng tiền tệ.
- Tổng tiền cung ứng.
- Lãi suất thị trường
…
- Ổn định giá cả.
- Tăng trưởng kinh tế,
tạo công việc làm.
…
1.1.1.2- Chức năng của Ngân hàng Trung ương
- Phát hành tiền và điều tiết lượng tiền cung ứng. NHTW giữ độc quyền
phát hành tiền giấy và tiền kim loại. Để đảm bảo giá trị tiền tệ ổn định việc
phát hành tiền phải tuân thủ theo các nguyên tắc nhất định. NHTW còn
tham gia và kiểm soát việc tạo tiền trong hệ thống các NHTM, thông qua
quá trình cho vay, thanh toán bằng chuyển khoản. NHTW không chỉ thực
-16-
hiện chức năng phát hành tiền mà còn thực hiện việc điều tiết lượng tiền
cung ứng, thực hiện CSTT quốc gia.
- Ngân hàng Trung ương là Ngân hàng của các ngân hàng. Chức năng này
thể hiện ở chỗ : NHTW mở tài khoản, bảo quản dự trữ tiền tệ và là trung
tâm thanh toán cho các ngân hàng; là người cho vay cuối cùng đối với
NHTM; được thực hiện các biện pháp khẩn cấp cần thiết để đối phó khi
xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ.
- Ngân hàng Trung ương là Ngân hàng của Nhà nước. Thực hiện chức
năng này NHTW quản lý, giám sát hệ thống ngân hàng, TCTD đảm bảo an
toàn, lành mạnh (Được phân tích chi tiết trong chương này).
1.1.1.3- Vị thế của Ngân hàng Trung ương
Trong điều kiện các nước hội nhập kinh tế thế giới và khu vực nói
chung và thị trường tài chính - tiền tệ nói riêng ngày càng sâu rộng, để
NHTW có thể thực hiện tốt chức năng của mình, đòi hỏi phải nâng cao vị
thế của NHTW. Vị thế của NHTW được nâng lên, khi được quy định rõ
trong Luật NHTW : địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
NHTW; trách nhiệm quyền hạn của NHTW (trong mối quan hệ với Chính
phủ và Quốc hội) đối với việc hoạch định, điều hành CSTT quốc gia và đối
với việc ổn định hệ thống tài chính.
Tuy mức độ độc lập của NHTW các nước có khác nhau, nhưng nhìn
chung xu hướng NHTW của các nước trên thế giới ngày càng trở nên độc
lập hơn với Chính phủ và Quốc hội. Tính độc lập được thể hiện thông qua
ba hình thức : (i) độc lập về nhân sự, (ii) độc lập về chính sách, và (iii) độc
lập về tài chính.
- Độc lập về nhân sự. Thông qua hình thức này, Thống đốc NHTW
được quyền quyết định các vấn đề về nhân sự (bổ nhiệm, miễn nhiệm,
tuyển dụng, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật, chế độ trả lương ….) thuộc
-17-
quyền quản lý của mình. Đối với nhân sự chủ chốt của NHTW và các
thành viên của Hội đồng CSTT Quốc gia do Quốc hội và Chính phủ quyết
định.
Để đảm bảo CSTT thể hiện quan điểm của các thành phần trong nền
kinh tế, cơ cấu Hội đồng CSTT Quốc gia thường bao gồm đại diện Quốc
hội, Chính phủ, NHTW, chuyên gia kinh tế tài chính ngân hàng, doanh
nghiệp, đại diện Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư Tỷ lệ phần lớn các
thành viên của Hội đồng là người của NHTW và Chủ tịch Hội đồng
thường là Thống đốc NHTW. Hội đồng CSTT Quốc gia luôn được đổi mới
và có tính kế thừa, hàng năm có một tỷ lệ nhất định thành viên mới. Các
thành viên mới này được chỉ định hoặc bầu bổ sung bởi các nhiệm kỳ
Quốc hội, Chính phủ.
Nhằm nâng cao tính độc lập của NHTW, nhiệm kỳ của Thống đốc
NHTW và các nhân sự chủ chốt thường lệch pha hoặc được kéo dài hơn so
với nhiệm kỳ của các thành viên Quốc hội và Chính phủ, để tránh áp lực
chính trị.
Thống đốc NHTW và các thành viên Hội đồng CSTT Quốc gia có
trách nhiệm báo cáo các hoạt động của mình theo định kỳ hoặc đột xuất
theo yêu của Ủy ban đặc trách của Quốc hội và Chính phủ. Đối với các
nước Thống đốc NHTW không phải là thành viên của Chính phủ, do đó
không phải báo cáo giải trình trước Quốc hội. Chỉ có Quốc hội mới được
quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm để thay thế Thống đốc NHTW trong trường
hợp Thống đốc NHTW không hoàn thành nhiệm vụ. Còn Thủ tướng Chính
phủ (đứng đầu Chính phủ) không có quyền phế truất trực tiếp, nhưng có
quyền đề nghị Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Thống đốc
NHTW.[1]
-18-
- Độc lập về chính sách.
Nhiều nước mục tiêu cuối cùng của CSTT thường được quy định
trong Luật và do Quốc hội quyết định. Đối với mục tiêu trung gian (tổng
tiền cung ứng, lãi suất thị trường) và việc sử dụng các công cụ CSTT, giao
cho NHTW quyết định để nâng cao tính độc lập về chính sách của NHTW.
Để đạt được mục tiêu trung gian, bước kế tiếp NHTW xác định mục tiêu
hoạt động (có thể lấy lãi suất thị trường liên ngân hàng làm định hướng…).
Mục tiêu hoạt động thường do Hội đồng CSTT Quốc gia (bao gồm các
thành phần nói trên) quyết định thông qua các cuộc họp định kỳ và là căn
cứ cho NHTW được chủ động linh hoạt trong điều hành các công cụ
CSTT. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường, không chỉ góp phần đạt
được mục tiêu cuối cùng, mà còn góp phần đảm bảo an toàn hoạt động của
hệ thống các NHTM.
- Độc lập về tài chính.
Sự chi tiêu, vay nợ quá mức của Chính phủ từ NHTW, sẽ khó khăn
cho NHTW trong việc đạt được mục tiêu ổn định giá cả. Do đó, NHTW
cần được độc lập về mặt tài chính. Độc lập về mặt tài chính sẽ cho phép
NHTW được chủ động trong việc quyết định phạm vi và mức độ tài trợ
cho chi tiêu của Chính phủ một cách trực tiếp hay gián tiếp thông qua con
đường tín dụng của NHTW.
Với dự toán tài chính được Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (hoặc
Hội đồng quản trị của NHTW hoặc một Ủy ban trong đó có đại diện của
Quốc hội và đại diện Chính phủ), Thống đốc NHTW được quyền quyết
định chi tiêu theo dự toán tài chính đã được phê duyệt. Như vậy với dự
toán tài chính được phê duyệt, NHTW không phải phụ thuộc vào sự cấp
phát tài chính của Chính phủ (thông qua Bộ Tài chính).
-19-
1.1.2- Hoạt động của các Ngân hàng thương mại
1.1.2.1- Khái niệm Ngân hàng thương mại
Thuật ngữ "ngân hàng" đã có từ lâu. Trải qua quá trình phát triển,
quan niệm về ngân hàng và hoạt động ngân hàng có nhiều thay đổi. Với
các dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng và phát triển, nên các nước phân
chia ra các dạng ngân hàng khác nhau để có phương thức quản lý phù hợp.
Do đó, quan niệm về ngân hàng thay đổi theo sự phát triển về kinh tế, pháp
luật và tập quán của từng quốc gia. Đến nay có nhiều định nghĩa khác nhau
về ngân hàng :
- Theo pháp luật nước Mỹ : “Bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài
khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (bằng cách ký
phát séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cấp tín dụng đối với tổ chức
kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng”.
- Theo Đạo luật Ngân hàng của Pháp ngày 03/06/1942 quy định :
"Được xem là ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào làm nghề
thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc hình thức
khác, những khoản tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết
khấu, nghiệp vụ tín dụng hay nghiệp vụ tài chính".
- Tại Ấn Độ, NHTM được coi là cơ sở nhận các khoản ký thác để
cho vay hay tài trợ và đầu tư.
- Theo Ngân hàng thế giới (Wordbank) : “Ngân hàng là tổ chức tài
chính nhận tiền gửi chủ yếu dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn hoặc tiền gửi
được rút ra với một thông báo ngắn hạn (tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn
và các khoản tiết kiệm)”; các ngân hàng bao gồm : các NHTM chỉ tham gia
vào các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay ngắn - trung - dài hạn; các Ngân
hàng đầu tư tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán và bảo lãnh phát
hành; các Ngân hàng địa ốc cung cấp tài chính cho lĩnh vực phát triển nhà
-20-
ở và các loại khác. Ngoài ra, tại một số nước còn có ngân hàng đa năng,
kết hợp hoạt động NHTM với hoạt động ngân hàng đầu tư và cả dịch vụ
bảo hiểm.
- Theo quy định Luật các TCTD số 47/2010/QH12 được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 16 tháng 6 năm 2010 : Ngân hàng là loại hình TCTD có thể được
thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng bao gồm : nhận tiền gửi; cấp tín
dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm NHTM, ngân hàng chính
sách, ngân hàng hợp tác xã.
NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng (nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua
tài khoản) và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật nhằm
mục tiêu lợi nhuận.
Từ một số định nghĩa trên đây của một số nước về ngân hàng có
thể rút ra :
- NHTM là tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ với chức năng
trung gian tín dụng; huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội và sử dụng nguồn
vốn huy động được để cấp tín dụng;
- NHTM là loại hình DN tài chính đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ, tín dụng và thanh toán; là một định chế tài chính trung gian và
quan trọng nhất trong hệ thống các TCTD;
- Ngoài các lĩnh vực hoạt động truyền thống (huy động, cấp tín
dụng, trung gian thanh toán) thì các NHTM hiện đại còn cung cấp các danh
mục tài chính đa dạng nhất.
-21-
1.1.2.2- Đặc điểm hoạt động của các Ngân hàng thương mại
- NHTM là loại ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lĩnh
vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với mục tiêu lợi nhuận. Hoạt động kinh
doanh tiền tệ được biểu hiện thông qua các hình thức : huy động vốn, trên
cơ sở đó cấp tín dụng cho khách hàng (cho vay, chiết khấu chứng từ có giá,
bao thanh toán, bảo lãnh, cho thuê tài chính). Hoạt động dịch vụ của
NHTM được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ thanh toán, chuyển tiền,
ngân quỹ, kiều hối, uỷ thác (bảo quản, thu hộ, chi hộ ), dịch vụ tư vấn đầu
tư, cung cấp thông tin, ngân hàng điện tử…
Các dịch vụ gắn liền với hoạt động ngân hàng không những tạo điều
kiện cho NHTM đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng là cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế, mà còn hỗ trợ tích cực cho
NHTM thực hiện tốt chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh
toán. Các dịch vụ mà NHTM cung cấp cho khách hàng, không chỉ đơn
thuần là để thu phí và/hoặc hưởng hoa hồng, yếu tố làm tăng doanh thu và
lợi nhuận cho NHTM, mà thông qua các dịch vụ này nhằm hỗ trợ các hoạt
động chính của NHTM, mà trước hết là hoạt động cấp tín dụng. [8]
- Sự gia tăng nhanh chóng trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ của
NHTM. Nhằm tìm kiếm lợi nhuận, các NHTM không ngừng đa dạng hoá
dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Quá trình mở rộng, đa dạng hoá dịch vụ
tài chính - ngân hàng tăng lên trong các năm gần đây trước sự cạnh tranh
khốc liệt từ các tổ chức tài chính khác, từ sự phát triển công nghệ, từ sự đòi
hỏi ngày càng cao của khách hàng. Các NHTM đối phó với các đối thủ
cạnh tranh (tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi
cung cấp dịch vụ sang lĩnh vực bảo hiểm, môi giới chứng khoán và các
dịch vụ khác. Với các dịch vụ tài chính mới đã tạo ra nguồn thu mới,
nhưng đồng thời cũng làm tăng chi phí cho các NHTM và dẫn đến rủi ro
phá sản NHTM cũng tăng lên. Do đó, đòi hỏi sự cần thiết phải tăng cường
-22-
và nâng cao hiệu quả quản lý của NHTW đối với hoạt động của các
NHTM.
- NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều kiện. Muốn được
cấp giấy phép hoạt động kinh doanh, NHTM phải thoả mãn các điều kiện
bắt buộc do pháp luật quy định (phải có vốn điều lệ, vốn được cấp tối thiểu
bằng mức vốn pháp định; người quản lý, người điều hành, thành viên ban
kiểm soát có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định; có Điều lệ phù
hợp với quy định ).
- NHTM là loại hình kinh doanh hàng hoá đặc biệt. Khác với các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá thông thường, đối với NHTM
kinh doanh hàng hoá đặc biệt - đó là hàng hoá tiền tệ. Do đó, mức độ rủi ro
đối với NHTM sẽ lớn hơn rất nhiều so với các loại hình kinh doanh khác
và có thể ảnh hưởng dây chuyền đến hệ thống tài chính ngân hàng. Thông
qua vai trò trung gian tài chính của mình, các NHTM huy động vốn từ nền
kinh tế và cấp tín dụng cho khách hàng dưới nhiều hình thức. Trong các
hình thức cấp tín dụng, thì cho vay là hình thức cấp tín dụng có khả năng
tạo ra nhiều rủi ro cho NHTM; rủi ro tín dụng xảy ra, sẽ dẫn đến rủi ro đối
với tiền gửi của khách hàng tại NHTM và đối với toàn bộ nền kinh tế. Vì
vậy, hoạt động NHTM tại các nước trên thế giới thường xuyên được quản
lý, giám sát và điều tiết hết sức chặt chẽ bởi NHTW thông qua hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt và CSTT, nhằm góp phần đảm
bảo cho hoạt động ngân hàng an toàn, lành mạnh.
- Phần lớn các hoạt động kinh doanh của NHTM tiềm ẩn nhiều rủi
ro. Để phòng ngừa, hạn chế các rủi ro trong quá trình hoạt động, NHTM
cần nhận biết, lượng hoá và có biện pháp phòng chống rủi ro. Các loại rủi
ro trong hoạt động kinh doanh mà NHTM luôn phải đối mặt bao gồm : rủi
ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro hoạt
động, rủi ro tài chính…Các loại rủi ro tác động đến NHTM đều có thể kéo
-23-
theo nhiều hậu quả khác cho hệ thống tài chính ngân hàng và toàn bộ nền
kinh tế.
1.1.2.3- Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại
Hoạt động của NHTM ngày càng phát triển và đa dạng, tuỳ thuộc
vào điều kiện kinh tế xã hội và trình độ phát triển kỹ thuật công nghệ của
mỗi quốc gia. Nhưng nhìn chung, có thể chia hoạt động NHTM thành ba
nhóm nghiệp vụ chủ yếu : nghiệp vụ nguồn vốn; nghiệp vụ tín dụng và đầu
tư ; nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Các nghiệp vụ NHTM được
phản ánh trong Bảng Tổng kết tài sản (hoạt động nội bảng) và ngoài Bảng
Tổng kết tài sản (hoạt động ngoại bảng).
Các nghiệp vụ ngân hàng liên quan đến tài sản, nguồn vốn, doanh
thu, chi phí được phản ánh trong Bảng Tổng kết tài sản của NHTM; còn
các nghiệp vụ khác của NHTM tuy không làm thay đổi các khoản mục tài
sản, nguồn vốn, nhưng có nhiều rủi ro, ảnh hưởng đến tính an toàn và kết
quả kinh doanh chung của NHTM, phải được phản ánh, theo dõi ở các tài
khoản ngoại bảng. Do đó, khi phân tích, đánh giá kết quả hoạt động của
NHTM, không chỉ căn cứ vào các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản,
mà còn căn cứ các hoạt động được theo dõi ngoài bảng tổng kết tài sản.
Các nghiệp vụ ngân hàng được phản ánh, theo dõi ở các tài khoản
ngoại bảng bao gồm : các cam kết về bảo lãnh (vay vốn, thanh toán, thực
hiện hợp đồng, dự thầu ); các cam kết về giao dịch về hối đoái (giao dịch
mua bán ngoại tệ trao ngay spot, giao dịch mua bán ngoại tệ có kỳ hạn
Forward, giao dịch hoán đổi tiền tệ Swaps, giao dịch quyền chọn mua -
bán tiền tệ Options, giao dịch tương lai tiền tệ Futrues, các chứng từ có giá
trị ngoại tệ); nghiệp vụ uỷ thác, đại lý; dịch vụ giữ hộ tài sản, kim loại quý
đá quý; tài sản thế chấp cầm cố…
(1)- Nghiệp vụ nguồn vốn
-24-
Nghiệp vụ nguồn vốn (hay còn gọi là nghiệp vụ Nợ), đây là nghiệp
vụ ban đầu nhằm tạo lập nguồn vốn hoạt động cho NHTM. Nghiệp vụ
nguồn vốn lúc nào cũng được các nhà lãnh đạo, quản lý điều hành NHTM
đặc biệt quan tâm chú ý đến, vì ngân hàng nào tạo lập được nhiều nguồn
vốn thì có điều kiện tăng quy mô, mở rộng hoạt động tín dụng và đầu tư.
Nguồn vốn của NHTM bao gồm : vốn chủ sở hữu; vốn huy động; vốn đi
vay và một số nguồn vốn khác. [8]
- Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn ban đầu và luôn được bổ sung trong
quá trình hoạt động và phát triển của NHTM. Vốn chủ sở hữu thường
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn (xấp xỉ từ 5% đến 10%), nhưng
có ý nghĩa quan trọng đối với NHTM. Vốn chủ sở hữu của NHTM bao
gồm : vốn điều lệ và các quỹ của ngân hàng (quỹ dự trữ bổ sung vốn điều
lệ; quỹ đầu tư phát triển kỹ thuật, nghiệp vụ; quỹ dự phòng; quỹ khen
thưởng, phúc lợi…) được hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh
được thể hiện ở dạng lợi nhuận để lại.
Vốn điều lệ là số vốn ban đầu, được hình thành từ khi thành lập
NHTM và không ngừng được bổ sung trong quá trình hoạt động kinh
doanh của mỗi NHTM. Nguồn vốn này là bộ phận chủ yếu trong nguồn
vốn chủ sở hữu của ngân hàng và có các ý nghĩa sau : là thước đo năng lực
tài chính của mỗi NHTM; tạo điều kiện cho việc phát triển, mở rộng quy
mô hoạt động NHTM (mua sắm tài sản, trang thiết bị; xây dựng cơ sở vật
chất; mở rộng mạng lưới chi nhánh; tham gia góp vốn liên doanh, liên
kết ) và nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trước các đối thủ; là
vùng đệm để chống đỡ rủi ro cho NHTM trong quá trình hoạt động kinh
doanh…
-25-
Vốn điều lệ được hình thành từ các nguồn khác nhau, tùy thuộc vào
tính chất sở hữu của NHTM. Đối với NHTM Nhà nước, vốn điều lệ được
Nhà nước cấp ban đầu và được cấp bổ sung khi cần thiết. Đối với NHTM
cổ phần, vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp khi thành lập và trong quá
trình hoạt động được tăng vốn điều lệ khi được phép. Đối với NH liên
doanh, vốn điều lệ được các bên liên doanh góp vốn theo hợp đồng liên
doanh. Đối với NH 100% vốn nước ngoài, vốn điều lệ do Ngân hàng mẹ ở
nước ngoài hoặc/và do các thành viên tham gia góp vốn; tuỳ thuộc vào NH
100% vốn nước ngoài là loại hình Công ty TNHH một thành viên hoặc loại
hình Công ty TNHH từ hai thành viên trở lên.
- Vốn huy động
Ngoài vốn chủ sở hữu nói trên, trong quá trình hoạt động các
NHTM còn huy động vốn trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn kinh
doanh của mình. Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng, bởi vì
vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM. Căn
cứ theo tính chất, vốn huy động có thể phân thành hai nhóm :
+ Đối với nguồn vốn huy động hoạt kỳ.
Nguồn vốn huy động hoạt kỳ gồm : tiền gửi không kỳ hạn của cá
nhân, tổ chức, doanh nghiệp và chủ thể kinh tế khác; tiền gửi không kỳ hạn
của TCTD khác. Đặc điểm của loại tiền gửi này là khách hàng được linh
hoạt sử dụng mà không cần thông báo trước cho NHTM; khách hàng được
sử dụng tiền gửi này trong các giao dịch thanh toán, chuyển tiền thông qua
các phương thức thanh toán do NHTM quy định; khách hàng gửi tiền vào
tài khoản này không nhằm mục đích hưởng lãi, mà chủ yếu phục vụ nhu
cầu giao dịch thanh toán, chuyển tiền. Chính vì các đặc điểm của loại tiền
gửi này trên đây, để thu hút được nguồn vốn này ngày càng nhiều, các