TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TỀ HUẾ
KHOA KỂ TOÁN – TÀI CHÍNH
THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: Mai Lê Thanh Trúc
Thực hiện: - Bùi Thị Anh
- Nguyễn Công Duật
- Nguyễn Thị Khánh Huyền
- Phan Thị Quỳnh Nhi
- Trần Thị Thanh Thủy
- Nguyễn Sơn Trà
Huế, 2011
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
1
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
I. Mở đầu
Thông tin bất cân xứng là một trong những nguyên nhân gây nên thất bại thị trường, trạng
thái mà ở đó thị trường không đạt được sự phân phối các nguồn lực tối ưu.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) lần đầu tiên xuất hiện vào những
năm 1970 và đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế học hiện đại bằng sự kiện
năm 2001, các nhà khoa học nghiên cứu lý thuyết này là George Akerlof, Michael Spence và
Joseph Stiglitz cùng vinh dự nhận giải Nobel kinh tế.
George Akerlof đã lần đầu tiên nêu lên khái niệm “thông tin bất cân xứng” trong nghiên cứu
của mình về thị trường mua bán ô tô cũ tại Mỹ, nơi mà ông gọi là “Lemon Market”. Từ việc
phát triển lý thuyết mà Akerlof nêu ra, các nhà kinh tế học Michael Spence và Joseph Stiglitz
đã phân tích biểu hiện cũng như biện pháp khắc phục vấn đề thông tin bất cân xứng trong thị
trường lao động.
Và ngày nay, vấn đề thông tin bất cân xứng gần như xuất hiện ở hầu khắp các thị trường và
đòi hỏi mỗi thị trường cần có các cơ chế đặc thù riêng trong việc xử lý thông tin bất cân xứng
nhằm hạn chế tác động của nó đến hoạt động của các bên tham gia cũng như hoạt động của
toàn bộ nền kinh tế.
Trong nội dung nghiên cứu này, nhóm chúng tôi sẽ trình bày về thông tin bất cân xứng cũng
như ảnh hưởng của nó đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Nội dung mục II trình bày khái quát về vấn đề thông tin bất cân xứng với hai hệ quả là lựa
chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại. Sang phần III, biểu hiện của hai hệ quả này sẽ được trình bày cụ
thể hơn trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Và mục IV là tác động của
thông tin bất cân xứng đối với hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam
cũng như những giải pháp mà các ngân hàng đang thực hiện.
II. Khái quát về thông tin bất cân xứng
1. Khái niệm về thông tin bất cân xứng
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thông tin bất cân xứng:
- Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có nhiều thông tin hơn một bên
khác. Điển hình là người bán biết nhiều về sản phẩm hơn đối với người mua hoặc ngược
lại.
2
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
- Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên đối tác nắm giữ thông tin còn bên khác thì
không biết đích thực mức độ thông tin ở mức nào đó
- Thông tin bất cân xứng là khái niệm mô tả các tình huống trong đó những người tham
gia tương tác trên thị trường nắm được thông tin khác nhau về giá trị hoặc chất lượng
của một tài sản đang được giao dịch (trao đổi) trên thị trường đó. Nói một cách khác,
nếu như không tồn tại tình trạng bất cân xứng đối với việc tiếp cận các thông tin về tài
sản, thì các bên tham gia thị trường được hiểu là "cân xứng" về thông tin.
Tóm lại, thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có ít thông tin hơn bên đối tác
hoặc có thông tin nhưng thông tin không chính xác. Điều này khiến cho bên có ít thông tin
hơn có những quyết định không chính xác khi thực hiện giao dịch đồng thời bên có nhiều
thông tin hơn cũng sẽ có những hành vi gây bất lợi cho bên kia khi thực hiện nghĩa vụ giao
dịch.
Hai hành vi phổ biến nhất do thông tin bất cân xứng gây ra là lựa chọn bất lợi (adverse
selection) và tâm lý ỷ lại (moral hazard). Lựa chọn bất lợi là hành động xảy ra trước khi ký
kết hợp đồng của bên có nhiều thông tin có thể gây tổ hại cho bên ít thông tin hơn. Tâm lý ỷ
lại là hành động của bên có nhiều thông tin hơn thực hiện sau khi ký kết hợp đồng có thể gây
tổn hại cho bên có ít thông tin hơn.
2. Hai hệ quả của thông tin bất cân xứng
3
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
2.1Lựa chọn bất lợi
2.1.1 Khái niệm lựa chọn bất lợi
Lựa chọn bất lợi (hay còn gọi là lựa chọn ngược, lựa chọn trái ý, lựa chọn đối nghịch) là kết
quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực hiện giao dịch hay nói cách khác trước
khi ký hợp đồng
Lựa chọn bất lợi là hành động xảy ra trước khi thực hiện giao dịch mà bên có nhiều thông tin
có thể gây ra tổn hại cho bên có ít thông tin hơn.
Lựa chọn bất lợi là trục trặc của yếu tố cơ hội chủ nghĩa trước hợp đồng; nó nảy sinh vì thông
tin riêng mà người thực hiện "giao dịch" có trước khi họ ký hợp đồng, trong lúc đang tính
toán xem việc thực hiện "giao dịch" thì có lợi hay không.
Lựa chọn bất lợi là kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực hiện giao dịch
hay nói cách khác trước khi ký hợp đồng.
4
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
Lựa chọn bất lợi là một tình trạng kinh tế có thể nảy sinh do tồn tại tình trạng thông tin bất
cân xứng, người lựa chọn thứ tốt lại chọn phải thứ không tốt.
Trong điều kiện thông tin đối xứng, các bên trong giao dịch nắm thông tin ngang nhau và đầy
đủ về thứ được giao dịch. Khi đó, người ta có thể tìm được thứ tốt hoặc thứ tương xứng với
cái giá mà họ phải bỏ ra. Nhưng trong điều kiện thông tin phi đối xứng, nghĩa là một bên
trong giao dịch có nhiều thông tin về đối tượng giao dịch hơn bên kia, người có ưu thế về
thông tin có thể cung cấp những thông tin không trung thực về đối tượng được giao dịch cho
bên kém ưu thế thông tin. Kết quả là, bên kém ưu thế về thông tin đồng ý hoàn thành giao
dịch và nhận được thứ không như mình mong muốn.
2.1.2 Biểu hiện của lựa chọn bất lợi
5
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
Lựa chọn bất lợi xảy ra ở hầu khắp các thị trường mà biểu hiện của nó có thể được nhận thấy
ở các thị trường tiêu biểu như thị trường mua bán đồ cũ, thị trường lao động, thị trường bảo
hiểm, thị trường chứng khoán…
a) Lựa chọn bất lợi trong thị trường mua bán đồ cũ
Thị trường mua bán đồ cũ (hay những sản phẩm
chất lượng kém) được nhà kinh tế học người Mỹ
George Akerlof nghiên cứu và công bố trong bài
"The Market for 'Lemons': Quality Uncertainty
and the Market Mechanism" trên tạp chí
Quarterly Journal of Economics. Trong bài viết
của mình, Akerlof đã gọi thị trường mua bán đồ
cũ là “Lemon Market”.
Trên thị trường lemon, người bán là phía có đủ
thông tin về chất lượng hàng hóa trong khi người
mua là phía không có đủ thông tin. Người bán
biết đến sự tồn tại của vấn đề thông tin bất cân
xứng này và nó kích thích anh ta mạo hiểm bán
hàng hóa cũ mất chất lượng với giá như hàng
hóa chất lượng còn tốt. Người mua cũng biết đến
sự tồn tại của vấn đề thông tin phi đối xứng nên
cố gắng để khỏi bị hớ bằng cách chọn mua các
hàng hóa cũ giá trung bình với lập luận rằng
trong trường hợp bị mắc lừa thì cũng không đến
nỗi thiệt hại lắm. Hậu quả là, cả hàng hóa cũ chất
lượng tốt và giá cao với hàng hóa mất chất lượng
được bán với giá cao như của hàng còn tốt đều
khó bán được. Xét trên bình diện toàn xã hội, cả
người bán lẫn người mua đều không được lợi;
phúc lợi xã hội bị giảm. Đây là một minh chứng của việc cơ chế thị trường không phải lúc
nào cũng tối đa hóa phúc lợi. Nói cách khác, đây là một thất bại thị trường.
b) Lựa chọn bất lợi trong thị trường lao động
Trong thị trường lao động, việc thuê lao động là một quyết định đầu tư không chắc chắn. Tính
không chắc chắn ở đây là việc thuê lao động mà người tuyển dụng không biết được khả năng
đóng góp, khả năng tạo ra năng suất của người lao động là bao nhiêu. Vì thế việc thuê lao
động có thể thuê được lao động có chất lượng hoặc không. Kết quả là cả người lao động có
trình độ thấp và trình độ cao đều được thuê với mức lương trung bình. Với mức lương đó,
người lao động có trình độ cao trở nên khó tìm việc hơn do tính cạnh tranh cũng như mức
6
Tài chính tiền tệ
Trong quá trình nghiên cứu tình huống
mua bán xe Ô tô trên thị trường, Akerlof
giả định rằng: xác suất để mua xe tốt là q
thì xác suất mua xe xấu là (1-q) (thị
trường được phân loại xe tốt và xấu). Khi
đó mức giá trung bình(P) được giả định
mua xe là:
P = P
1
q + P
2
(1-q)
Trong đó: P
1
là giá xe tốt; P
2
là giá xe
xấu.
Ông lại cho rằng người mua xe tiềm năng
xem mức giá của các loại xe tốt hay xấu
là ngang nhau, vì họ không thể phân biệt
đặc tính của xe nên họ chỉ có thể mua xe
(bất kể tốt hay xấu) tại mức giá trung
bình trên thị trường. Thực tế, đối với xe
tốt thì giá cao hơn mức giá trung bình. Vì
thế tại mức giá trung bình đó chỉ có
những xe xấu được giao dịch. Khi đó xác
suất để mua xe tốt bây giờ là q’ < q. Như
vậy người mua thường là mua được
những chiếc xe xấu, việc lựa chọn xe để
mua trong trường hợp này gọi là sự lựa
chọn bất lợi vì họ có thể trả giá cao hơn
đối với xe xấu và người bán lại không thể
bán được do giá bán thấp hơn chất lượng
xe tốt.
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
lương không tương xứng trong khi người lao động có trình độ thấp lại dễ dàng được nhà
tuyển dụng chấp nhận do không đòi hỏi quá nhiều.
Như vậy, nhà tuyển dụng rơi vào tình trạng lựa chọn bất lợi do không có đầy đủ thông tin và
đưa ra những quyết định sai lầm khi tuyển dụng lao động có trình độ thấp với mức lương cao
hơn mức lương mà họ đáng được nhận.
c) Lựa chọn bất lợi trong thị trường bảo hiểm
Trong thị trường bảo hiểm, bên cung cấp dịch vụ bảo hiểm chấp nhận mức trả bảo hiểm cao
cho khách hàng ít nguy cơ. Song họ lại có ít thông tin về thứ họ được đề nghị bảo hiểm hơn
so với người mua bảo hiểm. Nếu người mua bảo hiểm cung cấp những thông tin không trung
thực, thì công ty bảo hiểm có thể sẽ ký hợp đồng trả tiền cao cho đối tượng bảo hiểm nhiều
nguy cơ. Ví dụ, người mua bảo hiểm nhân thọ có thể dấu thông tin về tình trạng sức khỏe tồi
(ung thư) của mình, cam đoan với công ty bảo hiểm rằng mình có sức khỏe tốt, dẫn tới công
ty bảo hiểm có thể đi ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho một người sắp chết.
Một kết quả tương tự cũng có thể xảy ra theo chiều hướng ngược lại. Nhà bảo hiểm vì một lẽ
gì đó không cung cấp đầy đủ thông tin cho người được bảo hiểm (có thể do ý nghĩ người
được bảo hiểm đã hiểu rõ về loại sản phẩm bảo hiểm đó rồi hay cũng có thể do cố tình che
dấu những hạn chế của hợp đồng bảo hiểm đó) trong khi người được bảo hiểm lại hiểu theo
một nghĩa khác về ngôn từ, điều khoản bảo hiểm do tính khó hiểu của bảo hiểm, vì thế xuất
hiện mâu thuẫn về thông tin. Kết quả là người mua bảo hiểm có thể lựa chọn những nhà cung
cấp bảo hiểm không thực sự uy tín do những công ty này cung cấp thông tin không đầy đủ
(vô ý hoặc cố ý) cho người mua.
Dù xảy ra theo chiều hướng nào thì bên có ít thông tin đều vấp phải sự lựa chọn đối nghịch do
vấn đề thông tin bất cân xứng gây ra.
d) Lựa chọn bất lợi trong thị trường chứng khoán
Điều mà bất kỳ nhà đầu tư nào cũng mong muốn là lợi nhuận, đối với thị trường chứng khoán
lợi nhuận được thể hiện thông qua việc mua cổ phiếu giá thấp bán với giá cao (lợi vốn) hoặc
đạt được giá trị cổ tức (lợi tức) kỳ vọng mà nhà đầu tư dự kiến. Nếu kết quả đầu tư của nhà
đầu tư không hiệu quả tức nhà đầu tư vi phạm những điều đã nói trên, thì ít nhiều đã tồn tại
thông tin bất cân xứng trong hoạt động đó và hệ quả của nó là chi phí lựa chọn bất lợi mà nhà
đầu tư phải gánh chịu.
7
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
Thông thường trong hoạt động mua bán,
người bán là người nắm rõ thông tin về sản
phẩm của mình và dĩ nhiên khi đó chi phí lựa
chọn bất lợi sẽ do người mua gánh chịu. Trên
thị trường chứng khoán cũng vậy công ty
niêm yết luôn nắm thế chủ động hơn so với
nhà đầu tư. Cụ thể, căn cứ vào các hoạt động
sản xuất kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh và
các hợp đồng kinh doanh, các công ty niêm yết sẽ biết rõ khả năng đạt được lợi nhuận kỳ
vọng của mình là bao nhiêu nên các công ty này sẽ biết chắc chắn giá bán trên mỗi cổ phiếu
đó bao nhiêu là hợp lý. Vì ngoài phương pháp xác định giá cổ phiếu bằng giá trị tài sản, còn
có phương pháp xác định giá cổ phiếu theo cổ tức. Thế nên, nếu nhà đầu tư không xác định
chính xác cổ tức kỳ vọng của công ty niêm yết thì sẽ định giá cổ phiếu không chính xác và
nếu định giá cao hơn giá trị thực của cổ phiếu thì sự bất lợi hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư.
2.2 Tâm lý ỷ lại
2.2.1 Khái niệm
Tâm lý ỷ lại (hay còn gọi là rủi ro đạo đức) là kết quả của hành vi bị che đậy và xuất hiện sau
khi ký hợp đồng.
Tâm lý ỷ lại là một thuật ngữ kinh tế học và tài chính được sử dụng để chỉ một loại rủi ro phát
sinh khi đạo đức của chủ thể kinh tế bị suy thoái. Tâm lý ỷ lại là một kiểu thất bại thị trường
nảy sinh trong môi trường thông tin bất cân xứng.
Tâm lý ỷ lại là hình thức cơ hội chủ nghĩa sau hợp đồng, phát sinh do các hành động có tác
động đến hiệu quả nhưng lại không dễ dàng quan sát được và vì thế những người thực hiện
các hành động này có thể chọn theo đuổi những lợi ích cá nhân của mình trên cơ sở gây tổn
hại cho người khác.
Tâm lý ỷ lại nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông tin phi đối xứng
giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo hướng làm lợi cho bản
thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế thông tin. Hành vi tha hóa theo
hướng như thế của bên có ưu thế thông tin được bên kém ưu thế thông tin cho là không đứng
đắn, là một thứ nguy hiểm, rủi ro cho mình.
Để có sự tồn tại của tâm lý ỷ lại, ba điều kiện phải được thỏa mãn:
- Thứ nhất, phải có sự khác biệt về quyền lợi giữa các bên;
8
Tài chính tiền tệ
Định giá cổ phiếu bằng giá trị tài sản: Giá cổ
phiếu bằng giá trị tài sản ròng chia cho
tổng số cổ phiếu phát hành
Định giá cổ phiếu theo cổ tức: Giá cổ phiếu
bằng D
1
/r hoặc D
1
/(r-g). Trong đó D
1
là
cổ tức năm 1, r là suất chiết khấu, g tốc
độ tăng trưởng đều của cổ tức.
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
- Thứ hai, phải có một cơ sở nào đó để tạo ra trao đổi có lợi hay một hình thức hợp tác
khác nhau giữa các cá nhân (tức là có lý do để đồng ý giao dịch) từ đó làm lộ ra mâu
thuẫn về quyền lợi;
- Thứ ba là phải tồn tại những khó khăn trong việc xác định xem các điều kiện thỏa thuận
có đúng là được tuân thủ và thực hiện hay không.
2.2.2 Biểu hiện của tâm lý ỷ lại
Với ba điều kiện cho sự tồn tại của tâm lý ỷ lại, biểu hiện của nó có thể được nhận thấy trong
các thị trường mà tại đó các điều kiện thỏa thuận trong giao dịch cần có thời gian để thực
hiện, tức là những thị trường có độ trễ về thời gian giữa việc ký kết hợp đồng và việc thực
hiện hợp đồng.
a) Tâm lý ỷ lại trong thị trường lao động
Ở thị trường lao động, khi tuyển dụng lao động, ta nhận được những bản đăng kí rất hấp dẫn
từ phía những người đi xin việc. Xét duyệt những bản đăng kí đó ta chọn ra những người có
kinh nghiệm, trình độ chuyên môn cao và hứng thú với công việc của công ty rồi thực hiện kí
hợp đồng với họ. Tuy nhiên, những người đó sau khi đã được nhận vào làm đã phát sinh tâm
lý ỷ lại, họ không đặt lợi ích công ty gắn với lợi ích cá nhân, không thật sự nhiệt tình với công
việc như trong các bản đăng kí. Họ sẵn sàng làm những công việc mang lại lợi ích riêng cho
mình dù có tổn hại đến lợi ích chung của công ty và công ty chính là phía gánh chịu những
thiệt hại phát sinh từ tâm lý ỷ lại đó của những lao động mà công ty đã tuyển dụng.
b) Tâm lý ỷ lại trong thị trường bảo hiểm
Với các hợp đồng mua bảo hiểm thì tâm lý ỷ lại phát sinh từ phía người đi mua bảo hiểm. Cụ
thể là những người mua bảo hiểm có thể sẽ chủ quan hơn, bất cẩn hơn đối với các khoản đã
được bảo hiểm. Chính vì thế mà phía công ty bảo hiểm sẽ bị thiệt vì phải bồi thường cho
những rủi ro không đáng có được sinh ra từ tâm lý ỷ lại của khách hàng.
Chẳng hạn, Công ty A mua 1 chiêc tàu biển để phục vụ mục đích kinh doanh và công ty cũng
đã đóng bảo hiểm thân tàu cho chiếc tàu này, tức là những rủi ro gặp phải liên quan đến thân
tàu sẽ được bồi thường thiệt hại. Điều đó làm nảy sinh tâm lý ỷ lại từ phía người sở hữu chiếc
tàu. Họ có thể chủ quan hơn và không ý thức cao trong việc bảo vệ, giữ gìn chiếc tàu so với
trường hợp không đóng bảo hiểm cho chiếc tàu đó.
c) Tâm lý ỷ lại trong thị trường chứng khoán
Ở thị trường chứng khoán, tâm lý ỷ lại phát sinh nếu những người đại diện điều hành công ty
không sử dụng nguồn vốn hiệu quả và đúng mục đích. Do tính chất của đầu tư trên thị trường
là đầu tư gián tiếp nên việc quản lý, giám sát vốn đầu tư của các nhà đầu tư phải thông qua
một số người đại diện để điều hành công ty. Tâm lý ỷ lại của những người đại diện đó sẽ gia
9
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
tăng nếu như tỷ lệ cổ phần mà họ sở hữu thấp bởi vì nếu hoạt động sản xuất kinh doanh
không hiệu quả thì trách nhiệm của họ không cao và sự thiệt hại trên vốn góp là thấp. Và
trong trường hợp những người đại diện vì theo đuổi mục đích nào đó để làm lợi riêng cho bản
thân mà gây tổn hại đến lợi ích của các nhà đầu tư thì các nhà đầu tư-bên kém ưu thế về thông
tin sẽ là người gánh chịu những rủi ro phát sinh từ tâm lý ỷ lại của những người đại diện đó.
3. Giải pháp lý thuyết hạn chế thông tin bất cân xứng
Trong nhiều lĩnh vực xuất hiện thông tin bất cân xứng thì các giải pháp thường được áp dụng
chung để hạn chế mức độ thông tin bất cân xứng là cơ chế phát tín hiệu, cơ chế sàng lọc và cơ
chế giám sát.
III.1 Cơ chế phát tín hiệu
Michael Spence là người đầu tiên nêu lên cơ chế phát tín hiệu trong việc xử lý tác động của
thông tin bất cân xứng.
Cơ chế phát tín hiệu là việc bên có nhiều thông tin có thể phát tín hiệu đến những bên ít thông
tin một cách trung thực và tin cậy. Với việc phát tín hiệu này, người bán những sản phẩm chất
lượng cao phải sử dụng những biện pháp được coi là quá tốn kém với người bán hàng hóa
chất lượng thấp.
Spence lấy ví dụ bằng thị trường lao động. Người bán là những ứng cử viên đi xin việc và
người mua là nhà tuyển dụng. Nhà tuyển dụng không thể trực tiếp quan sát các khả năng của
ứng cử viên mà chỉ có thể đánh giá gián tiếp thông qua bằng cấp của họ. Nếu những người
kém năng lực phải mất nhiều thời gian và nỗ lực hơn những người có năng lực để đạt được
cùng trình độ học vấn thì những người có năng lực có thể phát tín hiệu bằng cách đạt được
những bằng cấp mà người kém năng lực không thể đạt được.
Đối với thị trường tài chính, để giao dịch được hiệu quả thì người đi vay có thể vay được vốn
với chi phí thấp, người cho vay chắc chắn khả năng thu hồi được nợ hay người cho vay và đi
vay phải nắm rõ quyền lợi và trách nhiệm của riêng mình. Thông thường người đi vay là
người nắm rõ thông tin về mình nhất thế nên họ sẽ được lợi nhiều hơn trong giao dịch. Tuy
nhiên, ngân hàng sẽ không dễ dàng cho vay nếu như họ không biết rõ về khách hàng của
mình. Thế nên, người đi vay phải phát tín hiệu rằng mình là người có khả năng trả được nợ
tốt. Vấn đề phát tín hiệu trong trường hợp này là: Uy tín của công ty, qui mô và danh tiếng
10
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
công ty, năng lực tài chính, tài sản đảm bảo vv, ngược lại ngân hàng cũng phải phát tín hiệu
để người đi vay thực hiện trách nhiệm của mình trong hợp đồng vay như cơ chế xử lý tài sản,
lãi suất cho vay…
Cũng giống như thị trường tài chính, nhà đầu tư khi mua cổ phiếu của một công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán, ít nhiều họ cũng cần biết công ty đó hoạt động ra sao, sản xuất
cái gì, v.v… Vì thế công ty muốn nâng cao vị thế, bán cổ phiếu với giá cao và hợp lý, nó phải
cho nhà đầu tư thấy được danh tiếng, hiệu quả hoạt động và tiềm năng phát triển của nó.
Hay một ví dụ khác, việc triển khai các chương trình quảng cáo đắt tiền, việc duy trì chế độ
bảo hành cho sản phẩm, việc chia cổ tức cho cổ đông đó đều là những cách phát tín hiệu
trên thương trường.
III.2 Cơ chế sàng lọc
Trên cơ sở lý thuyết của Michael Spence về vấn đề thông tin bất cân xứng trong thị trường
lao động, J. Stiglitz đã phát triển lý thuyết của mình và nêu lên biện pháp khắc phục những
hạn chế do thông tin bất cân xứng gây ra.
Theo Stiglitz, bất cứ hàng hóa nào cũng đều có những đặc tính khác nhau như chất lượng
khác nhau, mẫu mã khác nhau nên cần phải phân loại chúng. Đối với lao động cũng có lao
động có khả năng, tay nghề cao và lao động có khả năng, tay nghề thấp. Vì vậy không thể trả
lương theo một mức lương cân bằng. Để khuyến khích người có khả năng cao, tạo ra năng
suất lao động cao thì cần phải trả lương cao để khuyến khích họ. Đối với người có khả năng
thấp, việc cố gắng đạt được một mức năng suất sản xuất để nhận được lương cao sẽ tốn chi
phí rất lớn so với người có khả năng cao. Vì vậy việc phân nhóm lao động để trả lương là việc
làm cần thiết để khuyến khích những người có khả năng nâng cao trình độ và mang lại hiệu
quả cao cho xã hội.
Cơ chế sàng lọc mà Stiglitz nêu lên không chỉ được ứng dụng trong thị trường lao động mà
còn được ứng dụng rộng rãi trong nhiều thị trường khác nhau.
Để hạn chế sự lựa chọn bất lợi của mình, các ngân hàng thường áp dụng hạn mức tín dụng
khác nhau đối với mỗi đối tượng vay, dự án vay và thời hạn vay. Đối với tổ chức bảo hiểm,
cơ chế sàng lọc được thể hiện qua việc chỉ bảo hiểm một phần, điều này cho thấy ngay cả đối
với nhóm bất cẩn cũng phải có trách nhiệm một phần của mình trong sự cố bồi thường có thể
xảy ra. Ở thị trường chứng khoán, ngoại trừ một số nhà đầu cơ, đa phần nhà đầu tư mong
muốn mình sẽ đầu tư vào những công ty có khả năng mang lại hiệu quả cao và bền vững. Vì
vậy cơ chế sàng lọc đối với nhà đầu tư là đầu tư vào các công ty có thông tin minh bạch, uy
tín, làm ăn hiệu quả và có tiềm năng phát triển cao.
III.3 Cơ chế giám sát
11
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm soát tâm lý ỷ lại.
Trong thị trường tài chính, người cho vay thường thực hiện việc kiểm tra sử dụng vốn vay sau
khi giải ngân, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay theo định kỳ.
Trong các hợp đồng tín dụng, luôn có điều khoản yêu cầu khách hàng vay cung cấp đầy đủ và
kịp thời các thông tín liên quan đến tình hình hoạt động, những thay đổi tác động nhiều đến
bên vay…
Ngoài ra, bên cho vay còn sử dụng các hệ thống giám sát khác như hệ thống thông tin tín
dụng, thông tin trên thị trường chứng khoán, thông tin từ các đối thủ cạnh tranh, các cơ quan
quản lý
Trong hệ thống giám sát nêu trên, đối với các tổ chức tín dụng, quan trọng nhất là hệ thống
thông tin tín dụng (hệ thống này thường do ngân hàng trung ương hoặc cơ quan giám sát hoạt
động ngân hàng làm thiết lập và tổ chức hoạt động). Hệ thống thông tin tín dụng làm nhiệm
vụ thu thập tất cả các thông tín liên quan đến hoạt động của tất cả cá đối tượng được cấp tín
dụng và sẽ cung cấp cho các thành viên trong hệ thống thông tin này hoặc cung cấp (bán) cho
những đối khác có nhu cầu. Ngoài ra, ở các thị trường tài chính phát triển, còn có một hệ
thống giám sát khác rất hiệu quả đó là các tổ chức đánh giá, xếp loại độc lập như S&P,
Moody Vì kết quả xếp loại của các tổ chức độc lập này có ảnh hưởng rất lớn đến ví trị của
một doanh nghiệp trên thị trường.
Trong thị trường chứng khoán, cơ chế giám sát bao gồm: giám sát trực tiếp và giám sát gián
tiếp:
- Giám sát trực tiếp: nhà đầu tư sẽ bỏ ra nguồn lực để đạt được kiểm soát thông tin, cơ chế
giám sát này tốn nhiều chi phí và sức lực, khả năng giám sát của nhà đầu tư muốn giám
sát công ty niêm yết sẽ bị hạn chế.
- Giám sát gián tiếp: thông qua các qui định của các nhà tổ chức thị trường (UBCK, Sở
GDCK), mặc nhiên các công ty niêm yết phải có trách nhiệm thông báo trực tiếp hoặc
gián tiếp đến nhà đầu tư và nhà đầu tư cũng thông qua các quyền lợi đã được qui định
mà có thể tiếp cận giám sát gián tiếp công ty niêm yết. Ngoài ra còn có giám sát thị
trường: căn cứ đánh giá của thị trường để biết nhiều thông tin hơn về các công ty niêm
yết sau khi thực hiện giao dịch.
Cơ chế giám sát được thực hiện rất chặt chẽ trên thị trường chứng khoán. Vì nhà đầu tư
không thể bỏ ra một số tiền mà không biết số tiền đó được sử dụng như thế nào.
Ngoài 3 cơ chế nêu trên, tâm lý ỷ lại còn được giảm thiểu bằng cơ chế khuyến khích. Đây là
một cơ chế rất hữu hiệu trên cơ sở chính sách cây gậy và củ cà rốt. Các tổ chức tín dụng sẽ
cấp tín dụng với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, phí, hạn mức tín dụng, tài sản đảm
bảo cho những khách hàng có uy tín trong quan hệ, vay trả sòng phẳng. Ngược lại, đối với
12
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
các khách hàng không có uy tín trong quan hệ sẽ bị hạn chế hạn mức tín dụng (thậm chí chấm
dứt quan hệ tín dụng), phải chịu lãi suất cao và những điều kiện khắt khe hơn về đảm bảo tiền
vay
III. Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương
mại
1. Hoạt động tín dụng
1.1 Khái niệm
13
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các
định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó
bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo
thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay
khi đến hạn thanh toán.
Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa: “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để
khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
Trong thực tế tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng nhưng ở bất cứ dạng nào cũng thể
hiện hai mặt cơ bản:
- Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hóa chuyển giao cho người khác trong một thời
gian nhất định.
- Đến thời hạn do hai bên thỏa thuận, người sử dụng hoàn lại cho người sở hữu một giá trị
lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là phần lời hay nói theo ngôn ngữ kinh tế là lãi suất
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng
với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã
hội, cơ quan nhà nước.
1.2 Bản chất
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có
các đặc trưng sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay
(bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản).
14
Tài chính tiền tệ
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình
ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng
chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Định chế tài chính hay Tổ chức tài chính là các tổ chức thương mại và công cộng hoạt động
trong lĩnh vực tài chính, tham gia vào việc trao đổi, cho vay, đi mượn và đầu tư tiền tệ. Thuật
ngữ này thường được sử dụng để thay thế cho thuật ngữ các trung gian tài chính. Theo quy
ước, các định chế tài chính gồm có các Tổ chức tín dụng, Công ty bảo hiểm, Công ty Quản lý
quỹ, Quỹ đầu tư và những người môi giới đầu tư
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho
người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu
tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là
người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở bên đi vay cam kết hoàn
trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.3 Phân loại
Phân loại tín dụng hay phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm
dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để
thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Phân
loại cho vay dựa vào các căn cứ sau đây:
- Dựa vào mục đích của cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:
+ Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân.
+ Cho vay mua bán bất động sản.
+ Cho vay sản xuất nông nghiệp.
+ Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu…
- Dựa vào thời hạn cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:
+ Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 1 năm. Mục đích của loại cho vay
này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
+ Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 1 đến 5 năm. Mục đích của loại
cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại cho vay
này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
- Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành
các loại sau:
+ Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để
quyết định cho vay.
15
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
+ Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như
thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
- Dựa vào phương thức cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:
+ Cho vay theo món vay: là loại cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách hàng và tổchức
tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: là loại cho vay mà tổ chức tín dụng và khách hàng
xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian
nhất định.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thỏa thuận
bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh
toán của khách hàng.
- Dựa vào xuất xứ tín dụng, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau:
+ Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời
người đi vay trực tiếp trả nợ vay cho ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế
ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán như là: Chiết
khấu thương mại; bao thanh toán.
1.4 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện
trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân
hàng.
“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không
có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết” (Khoản 01 Điều 02 của Quy định về
phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của tổ chức tín dụng)
Như vậy, có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó
ngân hàng là chủ nợ, mà khách hàng nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực
hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ
chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán của ngân hàng.
Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến
chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
16
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
Nguyên nhân:
- Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng
+ Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích và
đánh giá khách hàng
+ Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay
+ Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo chắc
chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay
+ Chạy theo số lượng (hoặc theo kế hoạch) mà sao lãng việc coi trọng chất lượng
khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh doanh
của khách hàng
+ Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý hạn mức
tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản phẩm địa phương
khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong từng thời kỳ
+ Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng chưa đủ tầm
và vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng
+ Ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và nguồn vốn
sử dụng
+ Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo quy
mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng
khoản vay
- Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
+ Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay
+ Năng lực quản lý kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả năng quản lý
+ Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều thực
thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi được dòng tiền dẫn
đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền
+ Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch
+ Chưa thực sự thay đổi quan điểm, còn xem vốn ngân hàng là vốn nhà nước nếu
doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả thì ngân hàng chịu, ngân hàng thua lỗ thì nhà
nước chịu
17
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
+ Doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng
- Nguyên nhân khách quan.
+ Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây tổn thất
cho khách hàng vay vốn kinh doanh
+ Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới
+ Sự tấn công của hàng nhập lậu
+ Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ quan pháp
luật cấp địa phương trong việc triển khai
+ Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước
+ Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập
+ Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên vật liệu
đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, khó khăn tài
chính dẫn đến không có khả năng trả nợ
Một trong các thông số dùng để đánh giá mức độ an toàn của hoạt động tín dụng là tỷ lệ nợ
xấu. Theo kinh nghiệm của nhiều nước và từ nhiều nghiên cứu, trừ những cú sốc bất ngờ như
khủng hoảng kinh tế, thiên tai…nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu nhiều nhất là do các
ngân hàng không có đầy đủ thông tin từ phía khách hàng của mình mặc dù đã có rất nhiều nỗ
lực trong công tác thẩm định . Nói một cách đơn giản, là do cơ chế sàng lọc chưa đủ hiệu lực
nên các ngân hàng đã để "lọt" những khách hàng có khả năng che đậy hành vi và thông tin
của họ trong giao dịch vay vốn để thực hiện những dự án có rủi ro cao.
Như vậy, thông tin bất cân xứng là một trong những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến rủi
ro trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Việc nghiên cứu tác động của
thông tin bất cân xứng sẽ được làm rõ thông qua nghiên cứu về hai biểu hiện của nó là lựa
chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại.
2. Lựa chọn bất lợi và hoạt động tín dụng
Lựa chọn bất lợi xảy ra trước cho vay, khi ngân hàng bị khách hàng che giấu một số thông tin
dẫn tới việc lựa chọn khách hàng không tốt và cấp tín dụng không hiệu quả. Khách hàng có
độ rủi ro cao thường là nhữngkhách hàng tích cực nhất trong việc xin vay. Hậu quả của sự lựa
chon đối nghịch có thể dẫn đến việc cấp tín dụng cho khách hàng có rủi ro cao nên trong
trường hợp này các ngân hàng có thể sẽ cắt giảm cho vay hoặc không tiếp tục cho vay mặc dù
trên thị trường vẫn có nhiều khách hàng tốt.
18
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
Chẳng hạn bạn có 2 bà cô mà bạn có thể cho họ vay một món tiền – Cô Sheila và cô Louis.
Cô Louis là loại người thận trọng, chỉ vay tiền khi cô ta có một cuộc đầu tư mà cô tin chắc sẽ
có kết quả. Cô Sheila thì khác, là một người vốn liều lĩnh, cô vừa trù tính một kế hoạch làm
giàu thật nhanh để biến mình thành triệu phú nếu cô có thể vay được 1000 đôla để đầu tư vào
kế hoạch đó. Không may là kế hoạch làm giàu thật nhanh, có một xác suất cao là sẽ thất bại
và cô Sheila sẽ mất 1000 đôla.
Ai trong số 2 bà cô của bạn có nỗ lực nhất trong việc tìm bạn để hỏi vay? Tất nhiên là cô
Sheila bởi vì cô này sẽ thu được rất nhiều tiền nếu cuộc đầu tư đó thành công. Tuy vậy, có lẽ
bạn sẽ không muốn cho cô Sheila vay bởi vì cuộc đầu tư của Sheila có xác suất tồi tệ cao và
Sheila sẽ không có khả năng trả lại tiền cho bạn.
Nếu bạn biết rõ cả 2 bà cô này, tức là thông tin không phải không cân xứng thì bạn sẽ không
có khó khăn gì, bởi vì khi ấy bạn biết rằng cô Sheila không có khả năng trả nợ và do đó bạn
không cho cô này vay. Tuy vậy, giả sử rằng bạn không biết rõ 2 bà cô của bạn, bạn rất có thể
cho Sheila vay hơn là cho Louis bởi vì chính Sheila sẽ săn tìm bạn để vay tiền, tuy rằng có
những lần cô Louis, vốn là một người vay luôn có khả năng trả nợ, có thể cần một món vay
cho một cuộc đầu tư giá trị.
Ví dụ trên có thể được giải thích và mô hình hóa một cách khoa học như sau:
Đối với hoạt động tài chính ngân hàng, lựa chọn bất lợi sẽ xuất hiện khi nguồn vốn khan
hiếm, lãi suất cho vay bị đẩy lên cao. Theo nguyên tắc "rủi ro cao - lợi nhuận cao” và nguyên
tắc loại trừ, khi nguồn cung tín dụng dồi dào, mức lãi suất cho vay thấp thì các dự án có suất
sinh lợi thấp - rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả nợ một cách chắc chắn và các dự án có suất
sinh lợi cao - rủi ro cao với khả năng trả nợ ít chắc chắn hơn đều được cấp tín dụng để thực
hiện. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh khi nguồn vốn khan hiếm, lãi suất cho vay bị đẩy lên cao.
Khi đó các dự án an toàn không được cấp tín dụng mà chỉ có những dự án có mức độ rủi ro
cao, với suất sinh lợi cao được vay vốn để thực hiện. Đây chính là vấn đề lựa chọn bất lợi
trong hoạt động tài chính ngân hàng đã xảy ra. Khi mà chỉ các dự án có độ rủi ro cao được
thực hiện thì nguy cơ vỡ nợ của các tổ chức tài chính là rất cao.
Hình vẽ dưới đây được dùng để mô tả vấn đề:
Giả sử lúc ban đầu cung cầu vốn cắt
nhau ở điểm E0 với lãi suất cho vay là
r
0
và lượng vốn cho vay là Q
0
. Các dự
án có rủi ro thấp (Q
1
Q
0
) và các dự án
có rủi ro cao (OQ
1
) đều được thực
hiện (để đơn giản cho việc mô tả mô
hình, giả sử rằng đối với các dự án rủi
ro thấp coi như tổn thất bằng 0). Lúc
19
Tài chính tiền tệ
Q
1
Dự án rro cao
Lnhuận cao
Q
Q
0
O
r
D
S
0
S
1
E
0
E
1
r
0
r
1
Dự án
rro thấp
Lnhuận
thấp
D: Đường cầu vốn
S
0
,S
1
: Đường cung vốn
Trục hoành OQ: Lượng vốn
Trục tung Or: Lãi suất
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
này, một trong hai trường hợp sẽ xảy
ra:
Thứ nhất, nếu thu nhập từ việc cấp tín
dụng cho các dự án đủ để bù đắp các
chi phí hoạt động, các rủi ro xảy ra do
các dự án không thành công mang lại
và đảm bảo lợi nhuận biên theo yêu
cầu, thì các tổ chức tín dụng vẫn duy
trì ở mức lãi suất cho vay r0. Giả sử
lúc này "tương quan" giữa các dự án
rủi ro thấp và rủi ro cao là cân bằng
nhau. Ở điểm cần bằng này, dù lợi
nhuận các dự án mang lại có cao bao
nhiêu thì thu nhập tối đa của bên cho
vay chỉ là OQ
0
E
0
r
0
Thứ hai, nếu thu nhập từ việc cấp tín dụng cho các dự án không đủ để bù đắp các chi phí hoạt
động, các rủi ro xảy ra do các dự án không thành công mang lại và không đảm bảo lợi nhuận
biên thì các tổ chức tín dụng sẽ tăng lãi suất cho vay. Lúc này các dự án rủi ro thấp bị giảm đi
và các dự án rủi ro cao vẫn không thay đổi, "tương quan" sẽ nghiêng về phía các dự án rủi ro
cao. Nếu cứ tiếp tục như vậy, đường cung bị đẩy dần lên đi đến điểm E
1
. Kết quả là, không
còn dự án ít rủi ro mà toàn bộ là các dự án có mức độ rủi ro cao được thực hiện. Ở điểm cần
bằng này, dù lợi nhuận các dự án mang lại có cao bao nhiêu thì thu nhập tối đa của bên cho
vay chỉ là OQ
1
E
1
r
1
, trong khi các dự án không thành công nhiều gây ra tổn thất rất lớn dẫn
đến nguy cơ vỡ nợ. Đây chính là kết quả của lựa chọn bất lợi.
3. Tâm lý ỷ lại và hoạt động tín dụng
Như đã trình bày ở trên, để có sự tồn tại của tâm lý ỷ lại, ba điều kiện phải được thỏa mãn.
Trong đó, điều kiện thứ ba là phải tồn tại những khó khăn trong việc xác định xem các điều
kiện thỏa thuận có đúng là được tuân thủ và thực hiện hay không.
Trong hoạt động tín dụng, việc giám sát việc sử dụng các khoản tín dụng của ngân hàng
thường vấp phải nhiều khó khăn đến từ cả phía ngân hàng cũng như người đi vay.
Bản thân các ngân hàng có thể gặp phải những rủi ro do tâm lý ỷ lại ở người đi vay khi ngân
hàng khi không giám sát được đầy đủ người đi vay, kích thích người này dùng khoản vay một
cách mạo hiểm quá mức.
Tâm lý ỷ lại xảy ra sau cho vay, khi khách hàng có động cơ đầu tư vào những dự án có độ rủi
ro cao. Nếu dự án đó thành công thì khách hàng sẽ thu được lợi rất lớn, ngược lại nếu dự án
thất bại thì ngân hàng sẽ phải gánh chịu hậu quả do khách hàng thua lỗ. Tâm lý ỷ lại cũng có
thể xảy ra khi khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, đầu tư vào dự án kém hiệu
quả, lừa đảo ngân hàng Xung đột về lợi ích giữa người vay và ngân hàng từ vấn đề tâm lý ỷ
lại dẫn đến tình trạng một số ngân hàng quyết định giảm cho vay, ảnh hưởng đến cả nền kinh
tế.
20
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
Ngoài ra, còn có tâm lý ỷ lại của các tổ chức tín dụng sau khi cho vay. Thiếu sót trong quá
trình kiểm tra sử dụng vốn vay có đúng mục đích.
Để hiểu rõ hơn về tâm lý ỷ lại trong hoạt động tín dụng, chúng ta sẽ nghiên cứu ví dụ sau:
Giả sử bạn có một người bà con, ông bác Melvin, vay một món 1000 đôla, ông này cần số
tiền này để mua một máy chuyên dùng cho doanh nghiệp. Khi bạn đã cho vay, ông Melvin có
thể tới thẳng trường đua để chơi cá ngựa. Nếu thắng, ông ta đủ khả năng trả lại bạn món 1000
đôla và nhận thêm 19000 đôla nữa. Nhưng nếu ông ta thua, như thường xảy ra, thì bạn không
đòi được tiền và tất cả những gì ông ta mất chỉ là danh tiếng một ông bác thẳng thắn và đáng
tin cậy. Do đó, ông bác Melvin có ý muốn tới trường đua bởi vì cái được của ông ta nếu ông
ta thắng cược có thể lớn hơn nhiều so với giá mà ông ta phải trả nếu ông ta thua cược. Nếu
lúc ấy bạn biết ý định của ông bác Melvin thì bạn sẽ ngăn ông ta tới trường đua và ông ta sẽ
không thể làm chuyện rủi ro. Tuy nhiên, bạn khó có được thông tin về ông ta – tức là xảy ra
thông tin không cân xứng – nên có một cơ hội tốt để ông bác Melvin có thể tới trường đua và
bạn có thể không đòi được tiền.
Tâm lý ỷ lại trong các hoạt động giao dịch vay nợ là khá phổ biến. Nó đặt ra câu hỏi “kiểm
soát” đối với các Tổ chức tài chính trong việc giám sát việc sử dụng “đồng vốn” của khách
hàng
4. Xử lý thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng
21
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
Giải pháp lý thuyết về xử lý vấn đề thông tin bất cân xứng được trình bày ở mục II đã cung
cấp ba cơ chế cơ bản là cơ chế phát tín hiệu, cơ chế sàng lọc và cơ chế giám sát. Sang phần
này, chúng ta sẽ cùng nghiên cứu việc vận dụng cụ thể ba cơ chế này cũng như cơ chế khuyến
khích – một cơ chế được xem là đặc thù trong việc hạn chế thông tin bất cân xứng đối với
hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại.
4.1 Sử dụng hệ thống thông tin tín dụng
Hầu như không một ngân hàng nào có đủ khả năng tự mình xử lý được vấn đề thông tin bất
cân xứng mà cần phải có hệ thống thông tin phục vụ đánh giá xếp loại khách hàng và hệ
thống thông tin phục vụ cho việc thẩm định dự án.
Một hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như lịch sử hình thành và quá trình phát triển,
năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm, đội ngũ điều hành,… là cơ sở hết sức quan trọng giúp
cho việc thẩm định, xếp loại, lựa chọn khách hàng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Nếu hệ thống này không đầy đủ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng đánh giá, thẩm định khách
hàng của các ngân hàng.
Hệ thống thông tin tín dụng đóng vai trò như là người trung gian trong quá trình đánh giá
mức độ “an toàn” của khách hàng, là cơ sở cho các quyết định cấp tín dụng của các ngân
hàng.
Ngoài hệ thống thông tin tín dụng chung cho các ngân hàng thương mại, các ngân hàng
thường tự xây dựng cho mình cơ chế riêng trong việc đánh giá, thẩm định khách hàng của
mình.
22
Tài chính tiền tệ
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
Hệ thống thông tin tín dụng cùng với hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cung cấp những
thông tin cần thiết về người đi vay cho các ngân hàng thương mại. Trên cơ sở nắm đầy đủ
thông tin về các khách hàng của mình, các ngân hàng có thể hạn chế hữu hiệu rủi ro do lựa
chọn bất lợi nảy sinh từ vấn đề thông tin bất cân xứng.
4.2 Sử dụng hệ thống thông tin kinh tế phục vụ công tác thẩm định, kiểm tra sử dụng vốn vay
23
Tài chính tiền tệ
Các hệ thống thông tin tín dụng thông qua cơ chế xếp hạn tín dụng cung cấp cho các ngân
hàng những thông tin cần thiết trong việc đánh giá, thẩm định khách hàng.
Xếp hạng tín dụng hay xếp hạng tín nhiệm là những ý kiến đánh giá về rủi ro tín dụng và
chất lượng tín dụng, thể hiện khả năng và thiện ý trả nợ (gốc, lãi hoặc cả hai) của đối
tượng đi vay để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính một cách đầy đủ và đúng hạn thông qua
hệ thống xếp hạng theo ký hiệu. Hiện nay, trên thế giới có hai phương pháp xếp hạng tín
dụng chính là mô hình toán học và phương pháp chuyên gia.
Phương pháp xếp hạng mô hình toán học:
Chỉ số Z của Edward I. Altman: Chỉ số Z là công cụ được cả hai giới học thuật và thực
hành, công nhận và sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Mặc dù chỉ số Z được phát
minh tại Mỹ, nhưng hầu hết các nuớc vẫn có thể sử dụng với độ tin cậy khá cao như
Mexico, Indian Chỉ số này dựa trên phương pháp thống kê với công cụ phân tích
biệt số đa yếu tố (MDA).
Chỉ số Zeta: Zeta là một chỉ số được Altman cải tiến từ chỉ số Z, Zeta làm việc tốt với
dữ liệu tài chính của các công ty sản xuất và cả bán lẻ với độ chính xác hơn 90%
trước khi phá sản 1 năm và chính xác trên 70% từ năm thứ 5 trở đi trước khi phá sản.
Phương pháp chuyên gia:
Phương pháp xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp của Fitch: Fitch xếp hạng doanh nghiệp
dựa trên phân tích định tính và phân tích định lượng. Phân tích định tính gồm có
phân tích rủi ro ngành, môi trường kinh doanh, vị thế của doanh nghiệp trong ngành,
năng lực của ban quản trị, phân tích kế toán. Trong phân tích định lượng, Fitch nhấn
mạnh đến thước đo dòng tiền của thu nhập, các khoản đảm bảo (coverage) và đòn
bẩy.
Phương pháp xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp của S&P: Cũng như Fitch, phương pháp
xếp hạng của S&P bao gồm cả phân tích định tính và định lượng. S&P cũng tập
trung nhiều vào phân tích dòng tiền và khả năng thanh toán trong quá khứ. Trong
quy trình xếp hạng, S&P không phân loại theo tính chất của dữ liệu mà phân loại
theo rủi ro là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.
Phương pháp xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp của Moody's: Moody's thiết lập 11 tỷ số
chung nhất để sử dụng trong phân tích so sánh, các tỷ số này được Moody's ứng
dụng rộng rãi ở những quốc gia khác nhau, những ngành khác nhau và cả ở các báo
cáo xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quy trình cụ thể, Moody's có
thể xem xét bớt hoặc thêm vào các chỉ tiêu cho phù hợp với từng ngành riêng biệt.
Thông tin bất cân xứng & hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại
Ngoài hệ thống thông tin dùng để đánh giá khách hàng, khi thẩm định dự án, phương án kinh
doanh, các tổ chức tín dụng cần phải có hệ thống thông tin nhằm xác định, kiểm tra các thông
số đầu vào và đầu ra của dự án, nhất là các thông số về thị trường các nguyên liệu đầu vào và
thị trường đàu ra của sản phẩm…
Khi thẩm định dự án, phương án kinh doanh, các ngân hàng thường xử dụng các tiêu chuẩn
thẩm đinh dự án đầu tư kết hợp với các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án.
Trong quá trình thẩm định một sự án, có rất
nhiều tiêu chuẩn để đánh giá dự án, nhưng
hai tiêu chuẩn thông dụng nhất là dựa vào
giá trị hiện tại ròng (NPV) và suất thu hồi
vốn nội bộ (IRR). Một dự án có NPV
dương hay suất thu hồi vốn nội bộ lớn hơn
một ngưỡng yêu cầu là có thể quyết định
đầu tư hoặc cấp tín dụng cho dự án đó. Vấn
đề khó khăn đầu tiên đối với các tổ chức tín
dụng khi tính NPV hoặc đánh giá theo tiêu
chuẩn IRR thì suất chiết khấu nào được sử
dụng ở đây. Có thể sử dụng mô hình định
giá tài sản vốn (CAPM) hoặc các mô hình
khác để xác định giá trị này. Điều này là
bất khả thi vì các hệ số gần như không thể
xác định được hoặc nếu có xác định được
thì chúng không có ý nghĩa xác thực để lấy
đó làm căn cứ.
Thực tế tại các tổ chức đang làm là lấy lãi
suất cho vay trung dài hạn của chính tổ
chức tín dụng đó cộng (+) thêm một tỷ lệ
nữa để có được suất chiết khấu. Với
phương thức này có thể tạm chấp nhận
được vì dù sao cũng có cơ sở. Nhưng cở sở
này là rất cảm tính.
24
Tài chính tiền tệ
Giá trị hiện tại ròng (NPV) là tổng giá trị
hiện tại của dòng thu nhập ròng mà dự án
cảng mang lại trong cả vòng
đời của nó.
đ
Trong đó:
n: Số năm hoạt động của dự án
t: Năm bắt đầu thực hiện dự án được coi là
năm gốc
CI
t
: Giá trị luồng tiền mặt thu tại năm t
CO
t
: Giá trị luồng tiền mặt chi tại năm t (gồm
chi phí đầu tư và chi phí vận hành hàng
năm của dự án)
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) là mức lãi suất
mà dự án có thể đạt được đảm bảo cho tổng
các khoản thu của dự án cân bằng với các
khoản chi ở thời gian mặt bằng hiện tại.
k
Trong đó:
IRR: Hệ số hoàn vốn nội bộ cần nội suy (%)
r
1
: Tỷ suất chiết khấu thấp hơn tại đó NPV
1
lớn hơn 0 và gần sát 0 nhất
r
2
: Tỷ suất chiết khấu cao hơn tại đó NPV
2
nhỏ hơn 0 và gần sát 0 nhất