Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống - Sở Xây dựng Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.72 KB, 65 trang )

1
Lời nói đầu

Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình cần phải có một lượng vốn tiền tệ nhất định. Đây có thể coi là
một tiền đề cần thiết cho việc hình thành và phát triển hoạt động sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp hiện nay hoạt động kinh doanh trong điều kiện của nền
kinh tế mở, với xu thế quốc tế hoá ngày càng cao, sự kinh doanh trên thị trường
ngày càng mạnh mẽ. Do vậy nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh, cho đầu tư
phát triển ngày càng lớn. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải huy động cao độ
không những nguồn vốn bên trong mà phải tìm cách huy động nguồn vốn bên
ngoài, đồng thời phải bảo đảm sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhằm đáp ứng
với nhu cầu đầu tư và phát triển, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tài chính,
tín dụng.
Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế đất nước, với chủ trương phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần, có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định
hướng XHCN. Các doanh nghiệp lúc này được quyền tự chủ trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, tự chủ bảo đảm vốn, đồng thời có trách nhiệm bảo toàn
vốn của mình. Nhờ đó, nhiều doanh nghiệp đã thích nghi kịp thời với tình hình
mới, hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên rõ rệt. Nhưng, bên cạnh đó có không
ít các doanh nghiệp lúng túng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm ăn thua
lỗ, kéo dài, doanh thu không đủ bù chi phí bỏ ra, không bảo toàn được vốn dẫn
tới phá sản. Thực tế này là do nhiều nguyên nhân, một trong các nguyên nhân
quan trọng là công tác tổ chức và sử dụng vốn của doanh nghiệp còn nhiều hạn
chế, hiệu quả sử dụng vốn còn quá thấp.
Xuất phát từ vấn đề thực tiễn bức thiết đặt ra cho các doanh nghiệp hiện
nay là phải xác định và đáp ứng được nhu cầu vốn thường xuyên, cần thiết, tối
thiểu, phải xác định được doanh nghiệp mình hiện nay đang thừa hay thiếu vốn,
hiệu quả sử dụng vốn ra sao? Các giải pháp nào cần thực hiện để nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp mình. Đây là vấn đề nóng bỏng có tính thời


sự không những được các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm mà còn thu hút
được sự chú ý của các nhà đầu tư trong lĩnh vực tài chính vào doanh nghiệp.
2
Qua thời gian thực tập tại công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống được sự
giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn và ban lãnh đạo công ty, cùng với
những kiến thức, lý luận đã được trang bị trong Nhà trường em đã từng bước
vận dụng vào tìm hiểu tình hình thực tế của công ty Vật liệu xây dựng Cầu
Đuống, đồng thời từ những thực tế đó bổ xung và rút ra kinh nghiệm quý báu
cho bản thân. Qua đó càng thấy rõ được tầm quan trọng và bức thiết của vấn đề
quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp nói chung và
của công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống nói riêng. Em đã mạnh dạn đi sâu tìm
hiểu nghiên cứu vấn đề:
"Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
tại công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống - Sở Xây dựng Hà Nội"
Chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong cơ
chế thị trường.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Vật liệu
xây dựng Cầu Đuống.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Vật
liệu xây dựng Cầu Đuống.
3

Chương I
VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG

I. VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm về vốn:
* Theo quan điểm của Marx, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư,

là một đầu vào của quá trình sản xuất.
* Theo các nhà kinh tế học hiện đại: Vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị
của tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Vốn và tài sản là hai mặt giá trị và
hiện vật của một bộ phận nguồn lực sản xuất mà doanh nghiệp huy động vào
quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
* Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là toàn bộ
những giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh
nghiệp.
Như vậy, vốn là yếu tố số một của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, nó
đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lý và sử dụng có hiệu quả để bảo toàn và
phát triển vốn, đảm bảo cho doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh. Vì vậy các
doanh nghiệp cần thiết phải nhận thức đầy đủ hơn về vốn cũng như những đặc
trưng của vốn.
2. Các đặc trưng cơ bản của vốn.
- Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định: Có nghĩa là vốn được
biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp.
- Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có thể
phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
- Vốn có giá trị về mặt thời gian.
4
- Vốn phải được gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn
vô chủ.
- Vốn được quan niệm như một hàng hoá và là một hàng hoá đặc biệt có
thể mua bán quyền sử dụng vốn trên thị trường.
3. Phân loại vốn
Trong quá trình sản xuất kinh doanh để quản lý và sử dụng vốn một cách
có hiệu quả các doanh nghiệp đều tiến hành phân loại vốn.
Tuỳ vào mục đích và loại hình của từng doanh nghiệp mà mỗi doanh

nghiệp phân loại vốn theo các tiêu thức khác nhau.
3.1. Phân loại vốn theo nguồn hình thành.
3.1.1. Vốn chủ sở hữu
a. Vốn pháp định:
Vốn pháp định là số vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do
pháp luật quy định đối với từng ngành nghề. Đối với doanh nghiệp Nhà nước,
nguồn vốn này do ngân sách Nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách Nhà
nước.
b. Vốn tự bổ xung:
Vốn tự bổ xung là vốn chủ yếu do doanh nghiệp được lấy một phần từ lợi
nhuận để lại doanh nghiệp, nó được thực hiện dưới hình thức lấy một phần từ
quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính. Ngoài ra, đối với doanh nghiệp
Nhà nước còn được để lại toàn bộ khấu hao cơ bản tài sản cố định để đầu tư,
thay thế, đổi mới tài sản cố định. Đây là nguồn tự tài trợ cho nhu cầu vốn của
doanh nghiệp.
3.1.2. Vốn huy động của doanh nghiệp.
Đối với một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, vốn chủ
sở hữu có vai trò rất quan trọng nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải tăng
cường huy động các nguồn vốn khác dưới hình thức vay nợ, liên doanh liên kết,
phát hành trái phiếu và các hình thức khác.
a. Vốn vay:
5
Doanh nghiệp có thể vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các cá nhân, đơn
vị kinh tế để tạo lập hoặc tăng thêm nguồn vốn.
* Vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng rất quan trọng đối với các
doanh nghiệp. Nguồn vốn này đáp ứng đúng thời điểm các khoản tín dụng ngắn
hạn và dài hạn tùy theo nhu cầu của doanh nghiệp trên cơ sở các hợp đồng tín
dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
* Vốn vay trên thị trường chứng khoán:

Doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu, đây là một công cụ tài chính
quan trọng dễ sử dụng vào mục đích vay dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất
kinh doanh. Việc phát hành trái phiếu cho phép doanh nghiệp có thể thu hút
rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong xã hội để mở rộng hoạt động kinh doanh của
mình.
b. Vốn liên doanh liên kết:
Doanh nghiệp có thể liên doanh, liên kết, hợp tác với doanh nghiệp khác để
huy động thực hiện mở rộng hoạt động sản xuất - kinh doanh.
c. Vốn tín dụng thương mại:
Tín dụng thương mại là các khoản mục chịu từ người cung cấp hoặc ứng
trước của khách hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Đây là phương
thức tài trợ tiện lợi, linh hoạt trong kinh doanh và nó còn tạo khả năng mở rộng
các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Tuy nhiên các khoản tín dụng
thương mại thường có thời hạn ngắn nhưng nếu doanh nghiệp biết quản lý một
cách có khoa học có thể đáp ứng phần nào nhu cầu vốn lưu động cho doanh
nghiệp.
d. Vốn tín dụng thuê mua:
Đây là phương thức tài trợ thông qua hợp đồng thuê giữa người thuê và
người cho thuê. Người thuê được sử dụng tài sản và phải trả tiền cho người cho
thuê theo thời hạn mà hai bên thoả thuận, người cho thuê là người sở hữu tài sản
và nhận được tiền cho thuê tài sản.
Tín dụng thuê mua có hai phương thức giao dịch chủ yếu là thuê vận hành
và thuê tài chính.
* Thuê vận hành:
6
Phương thức thuê vận hành hay còn gọi là thuê hoạt động là một hình thức
thuê ngắn hạn tài sản.
* Thuê tài chính:
Thuê tài chính là một phương thức tài trợ tín dụng trung hạn và dài hạn
theo hợp đồng. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết

bị mà người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua tài sản từ
người cho thuê.
Trên đây là cách phân loại vốn theo nguồn hình thành, nó là cơ sở để doanh
nghiệp lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp theo loại hình sở hữu, ngành nghề kinh
doanh, quy mô, trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật cũng như chiến lược
phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp. Bên cạnh đó đối với việc quản
lý vốn ở doanh nghiệp trọng tâm cần đề cập là hoạt động luân chuyển của vốn,
sự ảnh hưởng qua lại của các hình thái khác nhau của tài sản và hiệu quả quay
vòng vốn. Do đó doanh nghiệp cần phân loại vốn theo phương thức chu chuyển.
3.2. Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển.
3.2.1. Vốn cố định của doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp việc mua sắm hay lắp đặt các tài sản cố định đều phải
thanh toán chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay
lắp đặt tài sản cố định hữu hình hay vô hình gọi là vốn cố định của doanh
nghiệp. Nói cách khác, vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn
đầu tư ứng trước về tài sản cố định của doanh nghiệp. Số vốn này nếu được sử
dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu
thụ sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ của mình. Quy mô của vốn cố định nhiều
hay ít sẽ qui định đến quy mô của tài sản cố định, ngược lại những đặc điểm vận
động của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định,
chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển vốn cố định.
Đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh:
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm. Có đặc điểm
này là do tài sản cố định tham gia trực tiếp hay gián tiếp và phát huy tác dụng
trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì vậy vốn cố định là hình thái biểu hiện bằng tiền
của tài sản cố định cùng tham gia vào các chu kỳ tương ứng.
- Vốn cố định được luân chuyển giá trị dần dần từng phần trong các chu kỳ
sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất tài sản cố định không bị thay đổi
7
hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng và công suất của nó bị giảm dần tức

là nó bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó
cũng bị giảm đi theo đó, vốn cố định được tách thành hai bộ phận:
+ Bộ phận thứ nhất tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố định được
luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu
hao và được tích luỹ thành quỹ khấu hao, sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu
thụ, quỹ khấu hao này sẽ được sử dụng để tái sản xuất tài sản cố định nhằm duy
trì năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
+ Bộ phận thứ hai đó chính là phần còn lại của vốn cố định được gọi là giá
trị còn lại của tài sản cố định.
Sau mỗi một chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản
phẩm dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định lại dần
giảm xuống tương ứng với mức giảm dần giá trị sử dụng của tài sản cố định. Kết
thúc quá trình vận động đó cũng là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng giá
trị của nó được dịch chuyển hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất, và khi đó vốn
cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Trong các doanh nghiệp, vốn cố định là bộ phận quan trọng và chiếm tỷ
trọng tương đối lớn trong vốn đầu tư nói riêng, vốn sản xuất kinh doanh nói
chung. Do ở một vị trí then chốt và đặc điểm luân chuyển của nó lại tuân theo
quy luật riêng, nên việc quản lý vốn cố định đòi hỏi phải luôn gắn liền với việc
quản lý hình thái hiện vật của nó là các tài sản cố định vì điều này sẽ có ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Bên cạnh các tư liệu lao động mà bộ phận quan trọng nhất là tài sản cố định
để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp còn cần có các đối tượng lao
động. Khác với tư liệu lao động, các đối tượng lao động chỉ tham gia vào một
chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái hiện vật ban đầu, giá trị của nó
được dịch chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm.
Vậy nếu xét về hình thái hiện vật thì các đối tượng lao động trên gọi là các
tài sản lưu động, còn về hình thái giá trị thì được gọi là vốn lưu động của doanh
nghiệp.

3.2.2. Vốn lưu động của doanh nghiệp
Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn sản xuất kinh
doanh ứng trước về tài sản lưu động sản xuất và nó nhằm đảm bảo cho quá trình
8
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành một cách thường xuyên liên
tục.
Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động, nên đặc điểm vận động của
vốn lưu động luôn chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động.
Trong các doanh nghiệp tài sản lưu động bao gồm các loại nguyên nhiên vật
liệu, phụ tùng thay thế, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang,... đang trong quá
trình dự trữ sản xuất hoặc chế biến còn tài sản lưu động ở khâu lưu thông bao
gồm các sản phẩm, thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các tài
khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả
trước,... Trong quá trình sản xuất kinh doanh các tài sản lưu động luôn vận động
thay thế hoặc đổi chỗ cho nhau đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh được tiến hành thuận lợi.
Khác với tài sản cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh tài sản lưu
động của doanh nghiệp luôn luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm
hàng hoá và do đó phù hợp với đặc điểm của tài sản lưu động, vốn lưu động của
doanh nghiệp cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh
doanh: dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên
tục và thường xuyên lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn của
vốn lưu động.
Trong quá trình vận động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần,
qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, vốn lưu động lại thay đổi hình thái
biểu hiện từ hình thái tiền tệ ban đầu chuyển sang vốn hình thái vật tư hàng hoá
dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất, vật tư được đưa vào chế tạo thành các bán thành
phẩm và thành phẩm sau khi sản phẩm được liên tục, vốn lưu động lại trở về
hình thái tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu của nó. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất,
vốn lưu động mới hoàn thành một vòng chu chuyển. Có thể thấy, trong cùng

một lúc vốn lưu động của doanh nghiệp được phân bố trên khắp các giai đoạn
luân chuyển và chuyển hoá hình thái của vốn trong quá trình luân chuyển được
thuận lợi doanh nghiệp phải có đủ vốn lưu động đầu tư vào các hình thái khác
nhau.
4. Vai trò của vốn đối với các doanh nghiệp
Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh dù với bất kỳ quy mô nào cũng
cần phải có một lượng vốn nhất định, nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và
phát triển của các doanh nghiệp.
9
* Về mặt pháp lý: Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu
tiên doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải
bằng lượng vốn pháp định, khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác
lập. Trường hợp trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn của doanh nghiệp
không đạt điều kiện mà pháp luật qui định doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố chấm dứt
hoạt động như phá sản, giải thể, sát nhập,... Như vậy vốn có thể được xem là
một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân
của một doanh nghiệp trước pháp luật.
* Về kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những
yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Vốn không
những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ để
phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
doanh diễn ra thường xuyên, liên tục.
Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều này
càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày
càng gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu
tư hiện đại hoá công nghệ,... tất cả những yếu tố này muốn thành đạt được thì
đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.
Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của
doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh

doanh vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có
lãi đảm bảo vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để
doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng phạm vi sản xuất, thâm nhập vào thị
trường tiềm năng từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh
nghiệp trên thương trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy thì doanh nghiệp mới
có thể sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả hơn và luôn tìm cách nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn.
II. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
1. Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn.
Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của
mỗi doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh
10
của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai giác
độ: Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh nghiệp,
người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù kinh tế
phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả
cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn
vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Vì thế việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính
thường xuyên và bắt buộc đối với doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và quản lý sử
dụng vốn nói riêng.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh
trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lời tối
đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của
chủ sở hữu.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu về
khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn,... Nó phản ánh
quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua

thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí
bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so
với chi phí vốn bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn có hai phương pháp để phân tích tài
chính cũng như phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đó là phương
pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ.
* Phương pháp so sánh:
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh
được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung,
tính chất và đơn vị hạch toán,...) và theo mục đích phân tích để chọn gốc so
sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích
được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được chọn là số
tuyệt đối, số tương đói, hoặc số bình quân.
* Phương pháp tỷ lệ:
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài
chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ lệ cố nhiên là sự biến đổi
của các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác
11
định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính
của doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ
lệ tham chiếu.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp các tỷ lệ tài chính được phân thành
các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt
động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ
lệ cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh,
nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời,... Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản
ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính, trong mỗi trường hợp khác
nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn những nhóm chỉ tiêu
khác nhau phù hợp với mục đích phân tích.
2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp

trong cơ chế thị trường.
Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều
mục tiêu và tuỳ thuộc vào giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có những mục tiêu
được ưu tiên thực hiện nhưng tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá
giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn
tại và phát triển được.
Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động
kinh doanh có hiệu quả, một trong các yếu tố có tính chất quyết định đến hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp là việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh là quy luật của thị trường, nó
cho phép tận dụng triệt để mọi nguồn lực của doanh nghiệp và của toàn xã hội vì
nó khiến cho doanh nghiệp phải luôn tự đổi mới, hạ giá thành, tăng năng suất
lao động, cải tiến mẫu mã chất lượng sản phẩm để có thể đứng vững trên thương
trường và làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn có vị trí quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh
nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn
đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng
trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu
quả sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng huy động các nguồn vốn tài trợ dễ
dàng hơn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được đảm bảo, doanh nghiệp
có đủ tiềm lực để khắc phục những khó khăn và một số rủi ro trong kinh doanh.
12
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh
tranh. Để đáp ứng các yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản
phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm,... doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó
vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là rất
cần thiết.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu
tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như

nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người lao
động,... Vì khi hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể
mở rộng quy mô sản xuất tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức
sống của người lao động cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó giúp cho năng
suất lao động của doanh nghiệp ngày càng nâng cao, tạo sự phát triển cho doanh
nghiệp và các ngành liên quan. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp
cho ngân sách Nhà nước.
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không
những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó
còn ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế và toàn xã hội. Do đó, các
doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp.
Qua việc phân tích trên đây, có thể thấy rõ sự cần thiết mang tính tất yếu
khách quan phải bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh
nghiệp. Để thực hiện được vấn đề này một trong các phương pháp hết sức quan
trọng là các doanh nghiệp phải thiết lập và nghiên cứu các đặc trưng tài chính
của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
3. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp một cách chung nhất
người ta thường dùng một số chỉ tiêu tổng quát như: Hiệu suất sử dụng tổng tài
sản, doanh lợi vốn, doanh lợi vốn chủ sở hữu.
+ Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Error!
Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay của toàn bộ vốn, nó cho biết một
đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu vì vậy nó càng lớn càng tốt.
+ Doanh lợi vốn = Error!
13
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của
một đồng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này còn được gọi là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư, nó cho
biết một đồng vốn đầu tư đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
+ Doanh lợi vốn chủ sở hữu = Error!


Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, trình độ sử
dụng vốn của người quản lý doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
Ba chỉ tiêu trên cho ta một cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp nhưng như ta đã biết nguồn vốn của doanh nghiệp được dùng để
đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do
đó các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng của
tổng nguồn vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu
thành nguồn vốn của doanh nghiệp đó là vốn cố định và vốn lưu động.
3.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Như trong phần trước ta đã trình bày, tài sản cố định là hình thái biểu hiện
vật chất của vốn cố định. Vì vậy, để đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn cố định
thì cần phải đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định qua các chỉ tiêu:
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Error!
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh
thu thuần trong một năm. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
- Suất hao phí tài sản cố định = Error!
Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì phải bỏ ra
bao nhiêu đồng nguyên giá tài sản cố định. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt.
- Sức sinh lời của tài sản cố định = Error!
Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ việc sử dụng tài sản cố định là
có hiệu quả.
Bên cạnh đó người ta còn sử dụng hai chỉ tiêu hệ số đổi mới tài sản cố định
và hệ số loại bỏ tài sản cố định để xem xét tình hình đổi mới nâng cao năng lực
sản xuất của tài sản cố định.
- Hệ số đổi mới tài sản cố định = Error!
- Hệ số loại bỏ tài sản cố định =
Giá trị TSCĐ định lạc hậu
cũ giảm trong kỳ;Giá trị TSCĐ có ở đầu kỳ


14
Hai chỉ tiêu này không những chỉ phản ánh sự tăng giảm thuần tuý về tài
sản cố định mà còn phản ánh trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật, tình hình đổi
mới trang thiết bị của doanh nghiệp.
Để đánh giá trực tiếp hiệu quả sử dụng vốn cố định, doanh nghiệp sử dụng
hai chỉ tiêu.
+ Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Error!
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu thuần.
+ Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Error!
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn cố định bình quân trong kỳ sẽ tạo
ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó phản ánh khả năng sinh lời của vốn cố định, chỉ
tiêu này càng lớn càng tốt.
3.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả vốn lưu động
Khi phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta thường
dùng các chỉ tiêu:
+ Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = Error!
Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì cần bao nhiêu
đồng vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động
càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều và ngược lại.
+ Sức sinh lời của vốn lưu động = Error!
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động tham gia vào hoạt động
sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này
càng lớn càng tốt.
Đồng thời, để đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta cũng
đặc biệt quan tâm đến tốc độ luân chuyển vốn lưu động vì trong quá trình sản
xuất kinh doanh vốn lưu động vận động không ngừng qua các hình thái khác
nhau. Do đó, nếu đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải
quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng

vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển của vốn lưu động người ta dùng chỉ tiêu
sau:
+ Số vòng quay của vốn lưu động = Error!
15
Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển vốn lưu động, nó cho biết
vốn lưu động được quay mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng thì chứng
tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược lại.
+ Thời gian của một vòng luân chuyển = Error!
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được một
vòng, thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của
vốn lưu động càng lớn và làm ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng hiệu quả
hơn.
Mặt khác vốn lưu động thể hiện dưới nhiều dạng tài sản lưu động khác
nhau như tiền mặt, nguyên vật liệu, các khoản phải thu,... nên khi đánh giá hiệu
quả sử dụng vốn lưu động người ta còn đánh giá các mặt cụ thể trong công tác
quản lý sử dụng vốn lưu động. Sau đây là một số chỉ tiêu cơ bản nhất phản ánh
chất lượng của công tác quản lý ngân quỹ và các khoản phải thu.
+ Tỷ suất thanh toán ngắn hạn = Error!
Tỷ suất này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn (phải thanh
toán trong vòng một năm, hay một chu kỳ kinh doanh) của doanh nghiệp là cao
hay thấp. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính của doanh nghiệp là bình
thường hoặc khả quan.
+ Tỷ suất thanh toán tức thời = Error!
Thực tế cho thấy, tỷ suất này lớn hơn 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối
khả quan còn nếu nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong thanh
toán công nợ. Tuy nhiên nếu tỷ lệ này quá cao lại phản ánh một tình trạng không
tốt vì vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay tiền chậm làm giảm hiệu quả sử dụng
vốn.
+ Số vòng quay của các khoản phải thu = Error!

Chỉ tiêu này cho thấy để thu hồi được các khoản phải thu cần một thời gian
là bao nhiêu. Nếu số ngày này mà lớn hơn thời gian bán chịu quy định cho
khách hàng thì việc thu hồi các khoản phải thu là chậm và ngược lại số ngày qui
định bán chịu cho khách lớn hơn thời gian này thì có dấu hiệu chứng tỏ việc thu
hồi nợ đạt trước kế hoạch về thời gian.
Trên đây là các chỉ tiêu cơ bản được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng
vốn tại các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình quản lý hoạt động sản xuất
16
kinh doanh nói chung cũng như quản lý và sử dụng vốn nói riêng doanh nghiệp
luôn chịu tác động của rất nhiều các nhân tố. Do vậy khi phân tích, đánh giá để
đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì doanh nghiệp phải xem
xét đến các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp cũng như ảnh hưởng gián tiếp tới hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
4.1. Chu kỳ sản xuất.
Đây là một đặc điểm quan trọng gắn trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp. Nếu chu kỳ ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái
tạo, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kỳ sản xuất dài doanh
nghiệp sẽ chịu một gánh nặng ứ đọng vốn và lãi phải trả cho các khoản vay.
4.2. Kỹ thuật sản xuất.
Nếu kỹ thuật sản xuất đơn giản, doanh nghiệp dễ có điều kiện sử dụng máy
móc thiết bị nhưng lại phải luôn đối phó với các đối thủ cạnh tranh và yêu cầu
của khách hàng ngày càng cao về sản phẩm. Do vậy doanh nghiệp dễ dàng tăng
doanh thu, lợi nhuận trên vốn cố định nhưng khó giữ được chỉ tiêu này lâu dài.
Nếu kỹ thuật sản xuất phức tạp, trình độ trang bị máy móc thiết bị cao doanh
nghiệp có lợi thế trong cạnh tranh song đòi hỏi công nhân có tay nghề, chất
lượng nguyên liệu cao sẽ làm giảm lợi nhuận trên vốn cố định.
4.3. Đặc điểm của sản phẩm.
Sản phẩm của doanh nghiệp là nơi chức đựng chi phí và việc tiêu thụ sản
phẩm mang lại doanh thu cho doanh nghiệp qua đó quyết định lợi nhuận cho

doanh nghiệp.
Nếu sản phẩm của doanh nghiệp là sản phẩm công nghiệp nhẹ như rượu,
bia, thuốc lá,... thì sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh và do đó giúp doanh
nghiệp thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa những máy móc dùng để sản xuất ra những
sản phẩm này có giá trị không quá lớn do vậy doanh nghiệp dễ có điều kiện đổi
mới. Ngược lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài có giá trị lớn, được sản xuất trên
dây chuyền công nghệ có giá trị lớn như ô tô, xe máy,... việc thu hồi sẽ lâu hơn.
4.4. Tác động của thị trường
Thị trường tiêu thụ sản phẩm có tác động rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp. Nếu thị trường sản phẩm ổn định thì sẽ là tác nhân tích cực
thúc đẩy cho doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng và mở rộng thị trường. Nếu sản
17
phẩm mang tính thời vụ thì ảnh hưởng tới doanh thu, quản lý sử dụng máy móc
thiết bị và tác động tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
4.5. Trình độ đội ngũ cán bộ và lao động sản xuất
* Trình độ tổ chức quản lý của lãnh đạo:
Vai trò của người lãnh đạo trong quá trình sản xuất kinh doanh là rất quan
trọng. Sự điều hành và quản lý sử dụng vốn hiệu quả thể hiện ở sự kết hợp một
cách tối ưu các yếu tố sản xuất, giảm chi phí không cần thiết đồng thời nắm bắt
các cơ hội kinh doanh đem lại cho doanh nghiệp sự tăng trưởng và phát triển.
* Trình độ tay nghề của người lao động.
Nếu công nhân sản xuất có trình độ tay nghề cao phù hợp với trình độ công
nghệ của dây chuyền sản xuất thì việc sử dụng máy móc thiết bị sẽ tốt hơn, khai
thác tối đa công suất máy móc thiết bị làm tăng năng suất lao động, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
4.6. Trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh
Đây cũng là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải trải qua 3
giai đoạn là cung ứng, sản xuất và tiêu thụ.
- Cung ứng là quá trình chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất

như nguyên vật liệu, lao động,... nó bao gồm các hoạt động mua và dự trữ. Một
doanh nghiệp tổ chức hoạt động kinh doanh tốt tức là doanh nghiệp đó phải xác
định được lượng nguyên vật liệu phù hợp của từng loại với chi phí thấp nhất và
mức dự trữ tối ưu đảm bảo cho quá trình sản xuất không bị gián đoạn.
- Khâu sản xuất: trong giai đoạn này phải sắp xếp dây chuyền sản xuất
cũng như công nhân sao cho sử dụng máy móc thiết bị có hiệu quả nhất khai
thác tối đa công suất, thời gian làm việc của máy đảm bảo kế hoạch sản xuất sản
phẩm.
- Khâu tiêu thụ sản phẩm: là khâu quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải xác định giá bán tối ưu
đồng thời cũng phải có những biện pháp thích hợp để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm
nhanh chóng. Khâu này quyết định đến doanh thu, là cơ sở để doanh nghiệp tái
sản xuất.
18
4.7. Trình độ quản lý và sử dụng các nguồn vốn
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp. Công cụ chủ yếu để theo dõi, quản lý sử dụng vốn là hệ thống kế toán -
tài chính. Công tác kế toán thực hiện tốt sẽ đưa ra các số liệu chính xác giúp cho
lãnh đạo nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung cũng như
việc sử dụng vốn nói riêng trên cơ sở đó ra quyết định đúng đắn. Mặt khác, đặc
điểm hạch toán, kế toán nội bộ doanh nghiệp luôn gắn với tính chất tổ chức sản
xuất của doanh nghiệp nên cũng tác động tới việc quản lý vốn. Vì vậy thông qua
công tác kế toán mà thường xuyên kiểm tra tình hình sử dụng vốn của doanh
nghiệp, sớm tìm ra những điểm tồn tại để có biện pháp giải quyết.
4.8. Các nhân tố khác
- Cách chính sách vĩ mô của Nhà nước: Vai trò điều tiết của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường là điều tất yếu nhưng các chính sách vĩ mô của Nhà
nước tác động một phần không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Cụ thể hơn từ cơ chế giao vốn, đánh giá tài sản cố định, sự thay đổi các chính
sách thuế, chính sách tín dụng, bảo hộ và khuyến khích nhập một số loại nhất

định, các quy định của Nhà nước về phương hướng, định hướng phát triển của
các ngành nghề kinh tế đều có thể làm tăng hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
- Tiến bộ khoa học kỹ thuật: Trong điều kiện hiện nay, khoa học công nghệ
phát triển với tốc độ chóng mặt thị trường công nghệ biến động không ngừng và
chênh lệch trình độ công nghệ giữa các nước là rất lớn, làn sóng chuyển giao
công nghệ ngày càng gia tăng một mặt nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi
mới công nghệ sản xuất mặt khác nó đặt doanh nghiệp vào môi trường cạnh
tranh gay gắt. Do vậy để sử dụng vốn có hiệu quả doanh nghiệp phải xem xét
đầu tư vào công nghệ nào và phải tính đến hao mòn vô hình do phát triển của
khoa học kỹ thuật.
- Môi trường tự nhiên: là toàn bộ các yếu tố tự nhiên tác động đến doanh
nghiệp như khí hậu, thời tiết, môi trường,... Các điều kiện làm việc trong môi
trường tự nhiên phù hợp sẽ tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả công việc,
và sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Trên đây là một số vấn đề liên quan tới vốn và hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Trong Chương I chúng ta đã tìm hiểu về
vốn, phân loại vốn, vai trò của vốn đối với doanh nghiệp. Chúng ta cũng đã tìm
19
hiểu về sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như các chỉ tiêu,
các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Sau đây chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại
công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống thuộc Sở Xây dựng Hà Nội.

20

Chương II
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
TẠI CÔNG TY VẬT LIỆU XÂY DỰNG CẦU ĐUỐNG -
SỞ XÂY DỰNG HÀ NỘI


I. MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY VẬT LIỆU XÂY DỰNG
CẦU ĐUỐNG
1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của công ty Vật liệu xây
dựng Cầu Đuống
Tiền thân của công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống là cơ sở sản xuất gạch
ngói của nhà tư sản Hưng Ký được thành lập từ thời Pháp thuộc. Cơ sở nằm
cách Hà Nội về phía Bắc 10Km ngay cạnh bờ sông Đuống và ngã 3 Hà Nội -
Bắc Ninh - Thái Nguyên.
Năm 1958 Nhà nước ta đã tiếp quản dây chuyền sản xuất của nhà tư sản
Hưng Ký và thành lập xí nghiệp hợp doanh giữa Nhà nước và nhà tư sản Hưng
Ký. Với nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất các sản phẩm phục vụ xây dựng như gạch
nung, ngói nung,...
Bước vào thời kỳ đổi mới để đứng vững và phát triển Nhà nước đã quyết
định thành lập doanh nghiệp Nhà nước theo Quyết định 3352/QĐ-UB ngày
22/12/1992 mang tên Xí nghiệp gạch ngói Cầu Đuống với nhiệm vụ chủ yếu là
sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng, sản phẩm của xí nghiệp chủ yếu là
gạch, ngói phục vụ xây dựng.
Năm 1995 để đáp ứng nhu cầu về vật liệu xây dựng, UBND thành phố Hà
Nội đã ra Quyết định 130/QĐ-UB ngày 20/01/1995 về việc đổi tên và xác định
lại nhiệm vụ của xí nghiệp.
Từ đó xí nghiệp mang tên công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống.
Trụ sở của công ty chuyển về Km 14 quốc lộ số 3 - Mai Lâm - Đông Anh -
Hà Nội.
Số điện thoại: 8.832346 - 8.832711 - 8.780036
21
Số Fax: 8.800258
Công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống là một doanh nghiệp Nhà nước trực
thuộc Sở Xây dựng Hà Nội, là tổ chức kinh tế cơ sở, có tư cách pháp nhân, sản
xuất kinh doanh theo nhiệm vụ Nhà nước giao, hạch toán kinh tế độc lập, có tài

khoản tại ngân hàng và được sử dụng con dấu theo quy định.
Công ty có nhiệm vụ:
- Sản xuất kinh doanh các loại vật liệu xây dựng và cấu kiện bê tông nhỏ.
- Chuyển giao công nghệ sản xuất gạch ngói nung và vận hành lò Tuylen.
- Nhận thầu san ủi và xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng, công trình
dân dụng, công trình công nghiệp quy mô vừa và nhỏ, trang trí nội thất theo giấy
phép hành nghề.
- Được mở các cửa hàng để kinh doanh và đại lý uỷ thác vật liệu xây dựng
tại các vị trí được cấp có thẩm quyền cho phép.
- Được liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước để đầu tư
phát triển công nghệ sản xuất kinh doanh của công ty.
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao và có đủ sức cạnh tranh trên thị trường
công ty đã không ngừng nâng cấp các dây chuyền sản xuất và đã đưa dây
chuyền sản xuất gạch ngói bằng lò Tuylen vào sản xuất nhằm nâng cao chất
lượng cũng như số lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường.
Song song với việc đổi mới, phát triển cơ sở kỹ thuật và công nghệ công ty
đã đặc biệt chú trọng đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho cán bộ khoa
học kỹ thuật và quản lý không ngừng nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân
sản xuất.
2. Bộ máy tổ chức quản lý của công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống
Công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống tổ chức quản lý theo chế độ thủ
trưởng có Giám đốc và một số Phó giám đốc giúp việc. Để thực hiện chức năng
và nhiệm vụ của công ty, Giám đốc công ty tổ chức các phòng ban giúp việc
quản lý từng mặt công tác và các xí nghiệp thành viên.
- Mỗi phòng ban nghiệp vụ được giao thực hiện một số chức năng riêng.
Cơ cấu của mỗi phòng có 1 trưởng phòng và 1 đến 2 phó phòng cùng một số
nhân viên.
22
- Mỗi xí nghiệp thành viên được giao thực hiện một số chức năng nhiệm vụ
riêng và có cơ cấu 1 giám đốc xí nghiệp, 1 hoặc 2 phó giám đốc xí nghiệp và bộ

máy giúp việc. Giám đốc xí nghiệp do công ty bổ nhiệm và chịu trách nhiệm
trước Giám đốc công ty về kết quả hoạt động của xí nghiệp.
Các phòng ban của công ty hoạt động theo chức năng tham mưu giúp việc
giám đốc, được giao nhiệm vụ cụ thể trong các lĩnh vực công tác. Mối quan hệ
giữa các phòng ban là mối quan hệ phối hợp, cộng đồng trách nhiệm nhằm tham
mưu giúp giám đốc chỉ đạo sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.
Quan hệ giữa các phòng ban và các xí nghiệp thành viên là quan hệ ngang
có tính chất hữu cơ, có sự tác động qua lại vì vậy phải có sự phối hợp chặt chẽ
và đồng bộ nhằm tạo điều kiện để các xí nghiệp hoàn thành toàn diện các chỉ
tiêu kinh tế kỹ thuật. Mặt khác thông qua đó các phòng ban cũng thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình là hướng dẫn giúp đỡ xí nghiệp về công tác nghiệp vụ, quản
lý theo chức năng đã được phân công.
2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức công ty Vật liệu xây dựng Cầu Đuống















Phòng
Kế hoạch -

Vật tư
Phòng
Tổ chức -
Hnh chính
Phòng
Kỹ thuật -
Công nghệ
Phòng
Bảo vệ
Phòng
Kế toán -
Ti chính
Xí nghiệp
Kinh doanh
vật liệu
xây dựng
Xí nghiệp
Gốm
xây dựng
Cầu Đuống
Xí nghiệp
Gốm
xây dựng
Mai Lâm
Xí nghiệp
Xây lắp
Phó giám đốc
Kế hoạch -
tiền lương
Phó giám đốc

Kỹ thuật -
an ninh
Phó giám đốc
Kinh doanh
Giám đốc công ty
23

2.2. Cơ cấu tổ chức của công ty
Đứng đầu công ty là Ban giám đốc, giúp việc cho giám đốc là ba phó giám
đốc dưới là các phòng ban nghiệp vụ, các xí nghiệp thành viên làm nhiệm vụ sản
xuất hay phục vụ sản xuất.
2.2.1. Ban giám đốc gồm có:
+ Giám đốc công ty: vừa đại diện cho Nhà nước, vừa đại diện cho công
nhân viên chức, quản lý công ty theo chế độ thủ trưởng, có quyền quyết định
điều hành mọi hoạt động của công ty theo đúng kế hoạch, chính sách, pháp luật
Nhà nước và Nghị quyết Đại hội công nhân viên chức. Chịu trách nhiệm trước
Nhà nước và tập thể công nhân lao động về kết quả sản xuất kinh doanh của
công ty.
Giám đốc công ty phụ trách chung và trực tiếp chỉ đạo.
- Công tác tổ chức bộ máy quản lý, công tác cán bộ, tuyển dụng lao động.
- Công tác tài chính kế toán.
- Ký các văn bản báo cáo cấp trên văn bản pháp quy nội bộ.
- Ký các quy định về định mức kinh tế kỹ thuật, đơn giá tiền lương định kỳ
báo cáo Đảng uỷ về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
- Ký kết các hợp đồng kinh tế.
- Ký duyệt các chứng từ chi tiền.
- Làm việc với công đoàn về quyền lợi nghĩa vụ của người lao động và
những việc phát sinh trong vấn đề thực hiện thoả ước lao động.
+ Phó giám đốc kế hoạch tiền lương: Thay mặt giám đốc điều hành phòng
kế hoạch - vật tư, phòng tổ chức hành chính và trực tiếp chỉ đạo:

- Công tác vật tư phục vụ cho sản xuất.
- Công tác lao động và tiền lương.
- Công tác quản trị hành chính khối văn phòng cơ quan.
+ Phó giám đốc kỹ thuật - an ninh: Thay mặt giám đốc điều hành phòng kỹ
thuật công nghệ và phòng bảo vệ. Trực tiếp chỉ đạo:
- Công tác kỹ thuật, công nghệ.
24
- Công tác xây dựng cơ bản nội bộ.
- Công tác bảo vệ, quân sự, an ninh trật tự trong công ty.
- Công tác an toàn, vệ sinh công nghiệp, phòng chống lụt bão thiên tai.
+ Phó giám đốc kinh doanh: điều hành phòng kế toán tài chính và trực tiếp
chỉ đạo:
- Công tác dự án đầu tư.
- Công tác kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
2.2.2. Các phòng nghiệp vụ công ty.
* Phòng tổ chức hành chính: chịu sự chỉ đạo trực tiếp của phó giám đốc kế
hoạch tiền lương. Có nhiệm vụ giúp giám đốc trong công tác điều hành cán bộ,
công nhân lao động, quản lý hành chính trong công ty.
Phòng có chức năng:
- Thực hiện chính sách đối với người lao động, chăm sóc sức khoẻ cán
bộ công nhân viên.
- Tham mưu giúp giám đốc về tuyển dụng, bố trí, đào tạo và bồi dưỡng cán
bộ.
* Phòng kế toán - tài chính: Do sự chỉ đạo của phó giám đốc kinh doanh có
nhiệm vụ giúp giám đốc công ty tổ chức, chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác
thống kê thông tin kinh tế và hạch toán kinh tế ở công ty theo pháp lệnh thống
kê kế toán hiện hành. Thu thập, xử lý và cung cấp thông tin cho giám đốc nhằm
phục vụ công tác quản lý.
* Phòng kế hoạch vật tư: Chịu sự chỉ đạo trực tiếp của phó giám đốc kế
hoạch tiền lương.

Chức năng của phòng là giúp giám đốc công ty về công tác kế hoạch hoá
và điều độ sản xuất, tổ chức cung cấp vật tư phục vụ sản xuất kinh doanh.
Nhiệm vụ: căn cứ vào khả năng, năng lực của công ty và nhu cầu của thị
trường để lập kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, vật tư,... cho giám đốc công ty.
* Phòng kỹ thuật công nghệ: chịu sự chỉ đạo của phó giám đốc kỹ thuật -
an ninh, là phòng giúp giám đốc công ty triển khai công tác kỹ thuật công nghệ
sản xuất, kỹ thuật máy móc thiết bị. Triển khai công tác an toàn vệ sinh công
nghiệp, chuyển giao công nghệ sản xuất vật liệu xây dựng.
25
* Phòng bảo vệ: trực thuộc phó giám đốc kỹ thuật - an ninh.
Phòng có chức năng giúp giám đốc công ty triển khai tổ chức công tác bảo
vệ pháp chế và công tác quân sự trong công ty, và có nhiệm vụ lập kế hoạch
triển khai công tác bảo vệ, huấn luyện quân sự hàng năm, phòng cháy chữa
cháy,...
2.2.3. Các xí nghiệp thành viên
* Xí nghiệp gốm xây dựng Cầu Đuống và gốm xây dựng Mai Lâm.
Đứng đầu xí nghiệp là giám đốc xí nghiệp là người chịu trách nhiệm trước
giám đốc về toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
Là đơn vị sản xuất ra sản phẩm vật liệu xây dựng. Căn cứ vào nhiệm vụ kế
hoạch được công ty giao cho xí nghiệp tổ chức mọi hoạt động sản xuất trên cơ
sở khoán gọn tiền lương.
* Xí nghiệp xây lắp:
Đứng đầu xí nghiệp là giám đốc xí nghiệp là người chịu trách nhiệm trước
giám đốc về kết quả kinh doanh của xí nghiệp.
Xí nghiệp có chức năng thực thi xây dựng công trình, lắp đặt thiết bị công
nghệ. Có nhiệm vụ xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng, công trình dân
dụng, công trình công nghiệp qui mô vừa và nhỏ, khảo sát tổ chức thi công lắp
đặt thiết bị các công trình trên cơ sở dự toán và thiết kế được phê duyệt.
* Xí nghiệp kinh doanh vật liệu và xây dựng kỹ thuật hạ tầng.
Đứng đầu xí nghiệp là giám đốc xí nghiệp là người được giám đốc công ty

bổ nhiệm, là người chịu trách nhiệm trước giám đốc công ty về kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
Xí nghiệp có chức năng kinh doanh các loại vật liệu xây dựng, vận chuyển
nguyên vật liệu cho sản xuất, tổ chức thi công các công trình được giao. Nhiệm
vụ đào đắp đất đá, nề mộc, bê tông, sắt thép trong xây dựng lắp đặt điện nước
thông dụng, sản xuất cấu kiện bê tông nhỏ, trang trí nội thất, ngoại thất công
trình.
Nhận san ủi và xây dựng các công trình công nghiệp qui mô vừa và nhỏ.

×