Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.94 KB, 23 trang )

Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia trong
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay

Lê Thị Thanh Hảo

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật quốc tế; Mã số: 60 38 60
Người hướng dẫn: PGS. TS. Nguyễn Bá Diến
Năm bảo vệ: 2013

Abstract: Hệ thống hóa cơ sở lý luận đối với chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế.
Chỉ rõ thời cơ và thách thức của hội nhập với chủ quyền quốc gia trong điều kiện hiện
nay, thực trạng thực hiện nguyên tắc của các nước trên thế giới. Đưa ra một số quan điểm
và giải pháp để các nước trên thế giới nghiêm túc thực hiện nguyên tắc và một số biện
pháp giúp Việt Nam hội nhập thành công nhưng vẫn giữ vững chủ quyền quốc gia.

Keywords: Luật Quốc tế; Hội nhập quốc tế; Chủ quyền quốc gia

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tự do thương mại quốc tế hiện nay, vấn đề tôn trọng chủ
quyền quốc gia ngày càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Chủ quyền quốc gia là tối cao, bất khả
xâm phạm, mỗi quốc gia đều bình đẳng trên trường quốc tế và có quyền tài phán tối cao trong
phạm vi lãnh thổ quốc gia mình. Trong xu thế toàn cầu hóa và đa phương hóa hiện nay chỉ cần
lơ là chút chủ quyền quốc gia sẽ bị xâm phạm ngay và một khi quốc gia bị mất chủ quyền sẽ dễ
dàng bị chi phối trong mọi hoạt động đối nội và đối ngoại. Một số siêu cường trên thế giới
đang giương cao ngọn cờ nhân quyền, lợi dụng can thiệp nhân đạo và chống khủng bố để thao
túng một số quốc gia nhỏ nhằm đạt được lợi ích kinh tế và chính trị từ đó biến những quốc gia
này thành thuộc địa kiểu mới, thực hiện giấc mơ bá chủ thế giới của mình.
Quá trình toàn cầu hóa thúc đẩy các quốc gia hội nhập phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tuy


nhiên nó cũng bắt buộc các quốc gia phải thích ứng với các điều kiện trên sân chơi chung của
nhân loại. Vấn đề an ninh quốc phòng, kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, chống lại những
luồng văn hóa tư tưởng trái với chính sách phát triển, chế độ chính trị của mỗi quốc gia. Tham
gia vào quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, các quốc gia phải chấp nhận giới hạn quyền
lực riêng của mình trên một số lĩnh vực. Vậy chủ quyền quốc gia sẽ bị ảnh hưởng thế nào trong
thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế?. Có hay không vấn đề chủ quyền quốc gia đang bị
"thay đổi, thu hẹp", "mài mòn" trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay? Các quốc gia nhận
thức về vấn đề này như thế nào và làm thế nào để quốc gia có thể hội nhập quốc tế vẫn đảm bảo
chủ chủ quyền quốc gia?
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đồng thời mong muốn được đóng góp một phần
công sức vào việc nghiên cứu về tác động của hội nhập quốc tế đối với mỗi quốc gia nói chung
và việc bảo vệ và thực hiện chủ quyền của Việt Nam nói riêng. Do vậy, tôi mạnh dạn chọn đề
tài: "Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay" để
làm luận văn thạc sĩ luật học nhằm khẳng định đường lối chính sách của nhà nước Việt Nam
trong quá trình hội nhập luôn hướng tới những giá trị chung của nhân loại nhưng vẫn giữ vững
chủ quyền quốc gia.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích
Trong khuôn khổ của đề tài, luận văn đã nghiên cứu nguồn, nội dung của nguyên tắc, làm rõ
vai trò và ý nghĩa quan trọng của nguyên tắc này trong bối cảnh toàn cầu hóa và đa phương hóa.
Qua việc phân tích, bình luận để đi tìm câu trả lời cho khẳng định đây là một trong những
nguyên tắc cơ bản nhất, ảnh hưởng nhất đến chủ quyền tối cao của mỗi quốc gia. Luận văn cũng
đưa ra những kiến nghị, chỉ ra những khó khăn và thách thức của Việt Nam trong quá trình hội
nhập. Qua đó, luận văn mong muốn đóng góp tiếng nói khoa học pháp lý trong việc khẳng định
việc tham gia vào quá trình hội nhập là tất yếu của các quốc gia trên thế giới nhưng phải hội
nhập ra sao để phát triển kinh tế mà vẫn giữ vững chủ quyền quốc gia.
Luận văn là tài liệu có giá trị tham khảo cho các cơ quan nhà nước trong nghiên cứu các vấn
đề liên quan đến chủ quyền quốc gia và việc bảo vệ chủ quyền quốc gia và là tài liệu tham khảo
cho sinh viên, học viên khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, đại học Luật nghiên cứu, tìm hiểu
về các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế.

2.2. Nhiệm vụ
Với mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được xác định gồm:
- Luận giải những vấn đề lý luận chung về chủ quyền quốc gia, nguyên tắc tôn trọng chủ
quyền quốc gia và hội nhập quốc tế.
- Đánh giá những tác động của hội nhập quốc tế với chủ quyền quốc gia và thực trạng thực
hiện nguyên tắc của Việt Nam và thế giới.
- Đưa ra định hướng và đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện nguyên tắc tôn trọng
chủ quyền quốc gia trên thế giới và đưa ra một số giải pháp cụ thể với Việt Nam trong quá
trình hội nhập quốc tế để phát triển kinh tế nhưng vẫn giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội và chủ quyền quốc gia.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Những trường phái, học thuyết, tư tưởng trong Luật quốc tế hiện đại về nguyên tắc tôn
trọng chủ quyền quốc gia.
- Hiến chương Liên hợp quốc, Hiến chương ASEAN, Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hợp
quốc và các quy định hiện hành trong Luật quốc tế, Luật quốc gia liên quan đến nguyên tắc tôn
trọng chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế.
- Những sự kiện chính trị, xã hội trong quan hệ khu vực và quốc tế liên quan đến nguyên tắc
tôn trọng chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với các
phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh.
- Phương pháp bình luận, diễn giải được sử dụng trong chương 1 của luận văn khi nghiên
cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của chủ quyền quốc gia nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc
gia và hội nhập quốc tế.
- Phương pháp so sánh luật học, phương pháp đánh giá, phân tích được sử dụng trong
chương 2 của luận văn khi nghiên cứu về hội nhập quốc tế, thời cơ và thách thức với chủ quyền
quốc gia.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá, sử dụng lý luận khoa học pháp lý được sử dụng
ở chương 2 và chương 3 khi xem xét nghiên cứu và thực tiễn giải quyết những vụ việc liên quan

để đưa ra những kiến nghị, giải pháp đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập.
4. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Tổng quan những vấn đề lý luận về nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và
hội nhập quốc tế.
Chương 2: Hội nhập quốc tế - thời cơ và thách thức với chủ quyền quốc gia.
Chương 3: Thực trạng thực hiện nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và giải pháp với
Việt Nam.
Chương 1
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN
VỀ NGUYÊN TẮC TÔN TRỌNG CHỦ QUYỀN QUỐC GIA
VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. Tổng quan về chủ quyền quốc gia
1.1.1. Khái quát về chủ quyền quốc gia
Quốc gia được coi là thực thể chính trị pháp lý bao gồm các yếu tố cơ bản: dân cư, lãnh thổ,
bộ máy nhà nước và quyền năng chủ thể. Chủ quyền quốc gia được coi là thuộc tính cơ bản của
quốc gia, là phạm trù chính trị, pháp lý có liên hệ mật thiết với vấn đề độc lập chính trị, an ninh,
kinh tế của quốc gia.
1.1.1.1. Sự xuất hiện khái niệm chủ quyền quốc gia trong lịch sử
Khái niệm chủ quyền quốc gia xuất hiện khá sớm trong lịch sử pháp luật quốc tế và được
phát triển liên tục cho đến ngày nay. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chủ quyền quốc gia và
quan điểm chính trị pháp lý về nó:
- Quan niệm chủ quyền tuyệt đối: Đại diện của quan niệm này cho rằng chủ quyền quốc gia
phải tuyệt đối trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, phải được đặt trên mọi quyền lực khác.
- Quan niệm chủ quyền độc lập: Chủ quyền quốc gia phải toàn vẹn, chính quyền được phép
can thiệp vào mọi lĩnh vực xét thấy có lợi cho sự tồn tại và phát triển bền vững của quốc gia.
- Một số quan niệm khác về chủ quyền quốc gia: Chủ quyền quốc gia tối đa, quan niệm chủ
quyền đối ngoại, Chủ quyền pháp luật quốc gia và chủ quyền pháp luật quốc tế.
1.1.1.2. Chủ quyền quốc gia theo quan niệm hiện nay

Chủ quyền quốc gia là quyền làm chủ một cách độc lập, toàn vẹn và đầy đủ về mọi mặt lập
pháp, hành pháp, tư pháp của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Quốc gia thể
hiện chủ quyền của mình trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao. Chủ
quyền quốc gia bao gồm quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền
độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế:
* Quyền tối cao của quốc gia dân tộc trong phạm vi lãnh thổ thể hiện ở hai phương diện:
- Quyền sở hữu của mỗi quốc gia dân. Quốc gia có quyền sở hữu đầy đủ và trọn vẹn trên cơ
sở phù hợp với lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên vùng lãnh thổ đó và phù hợp với các
quyền dân tộc cơ bản.
- Quyền lực của quốc gia dân tộc: Là quyền lực hoàn toàn, riêng biệt và không thể chia sẻ
của quốc gia dân tộc trong phạm vi lãnh thổ.
* Quyền độc lập của quốc gia dân tộc trong quan hệ quốc tế:
Trong quan hệ quốc tế mọi quốc gia dân tộc đều độc lập và bình đẳng, không một chủ thể
nào được đứng trên chủ quyền quốc gia, được đưa ra các mệnh lệnh buộc quốc gia khác phải
phục tùng.
1.1.1.3. Một số đặc tính của chủ quyền quốc gia
Thứ nhất, chủ quyền quốc gia là duy nhất và không thể phân chia.
Thứ hai, chủ quyền quốc gia có tính tối cao. Điều đó có nghĩa là không có quyền lực nào đặt lên
trên quyền lực của quốc gia, buộc các quốc gia phải tuân theo.
Thứ ba, chủ quyền quốc gia là bình đẳng. Tính bình đẳng của chủ quyền quốc gia được nhìn
nhận trong mối quan hệ tương quan giữa chủ quyền của các quốc gia với nhau.
1.1.2. Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia
1.1.2.1. Khái niệm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia
Tôn trọng quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập của quốc gia
trong quan hệ quốc tế
1.1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc
Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia là nguyên tắc xuất hiện sớm trong đời sống quốc
tế. Nó được hình thành trong thời kỳ loài người chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản
chủ nghĩa và trở thành nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thời kỳ tư bản chủ nghĩa.
1.1.2.3. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc

Nó được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc Hiến chương ASEAN và điều lệ của
của các tổ chức thuộc Liên hợp quốc, của tuyệt đại đa số các tổ chức quốc tế phổ cập và tổ chức
quốc tế khu vực. trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương, được thể chế hóa rất rõ
ràng trong pháp luật Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành luật.
1.1.2.4. Vai trò, ý nghĩa, của nguyên tắc
Thứ nhất, nguyên tắc là thước đo giá trị hợp pháp của mọi nguyên tắc, mọi quy phạm pháp
luật của Luật quốc tế.
Thứ hai, nguyên tắc là căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp quốc tế.
Thứ ba, nguyên tắc là công cụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
Luật quốc tế.
1.1.2.5. Tầm quan trọng của nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia
* Với phát triển bền vững toàn cầu: Nguyên tắc chính là cơ sở cho sự hợp tác phát triển giữa
các nước.
* Với việc giải quyết các tranh chấp trên thế giới và trong khu vực nguyên tắc có ý nghĩa vô
cùng quan trọng và là căn cứ pháp lý trong đường lối giải quyết tranh chấp quốc tế và khu vực.
* Với việc bảo toàn lãnh thổ của các quốc gia. Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia
chính là căn cứ pháp lý quan trọng để các quốc gia vận dụng trong việc giải quyết các tranh chấp
lãnh thổ.
1.1.2.6. Mối quan hệ của nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia với các nguyên tắc khác
7 nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế không tồn tại một cách độc lập riêng lẻ với nhau,
không phân chia theo một trật tự, giá trị pháp lý nào, không nguyên tắc nào cao hơn nguyên tắc
nào, vi phạm một nguyên tắc dẫn đến vi phạm những nguyên tắc khác. Nguyên tắc tôn trọng
chủ quyền quốc gia bao hàm nội dung các nguyên tắc khác, là kim chỉ nam trong ứng xử quốc
tế.
1.2. Hội nhập quốc tế
1.2.1. Khái niệm về hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự
gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và tuân
thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.
1.2.2. Lịch sử quá trình hội nhập quốc tế

Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải mở rộng các thị trường quốc gia,
hình thành thị trường khu vực và quốc tế thống nhất. Đây là động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung.
1.2.3. Các hình thức hội nhập
* Hội nhập kinh tế quốc tế: Đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh
tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo những hình
thức khác nhau.
* Hội nhập chính trị: Hội nhập về chính trị là quá trình các nước tham gia vào các cơ chế
quyền lực tập thể nhằm theo đuổi những mục tiêu nhất định và hành xử phù hợp với các luật chơi
chung.
* Hội nhập an ninh, quốc phòng: Hội nhập về an ninh, quốc phòng là sự tham gia của quốc
gia vào quá trình gắn kết họ với các nước khác trong mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh.
* Hội nhập về văn hóa-xã hội: Hội nhập về văn hóa, xã hội là quá trình mở cửa, trao đổi văn
hóa với các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các giá trị văn
hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân tộc;
1.2.4. Vai trò, ý nghĩa của hội nhập quốc tế
Thứ nhất, tham gia hội nhập khu vực và quốc tế cho phép quốc gia sử dụng những cơ sở
pháp lý cần thiết như chế độ tối huệ quốc (MFN); đối xử quốc gia (NT);
Thứ hai, hội nhập giúp các nước đang phát triển có cơ hội chuẩn bị mọi mặt, xây dựng, củng
cố các ngành kinh tế mũi nhọn, có được những chuẩn bị cần thiết để tham gia các thiết chế kinh
tế.
Thứ ba, tham gia vào các tổ chức liên kết kinh tế, các quốc gia cần điều chỉnh lại cơ chế kinh
tế, sắp xếp, bố trí lại ngành, lĩnh vực kinh tế, sắp xếp, đẩy mạnh các cải cách hành chính, chống
tiêu cực, tham nhũng qua đó tăng cường vai trò và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước.
Thứ tư, hội nhập quốc tế đã xóa đi nhiểu bức tường ngăn cách dân chúng và nối cả thế giới
với nhau, tạo cơ hội cho bất cứ quốc gia hay cá nhân nào trong tiến trình tìm kiếm và khai thác
những thị trường tiềm năng để phát triển kinh tế.
Chương 2
HỘI NHẬP QUỐC TẾ - THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC
VỚI CHỦ QUYỀN QUỐC GIA

2.1. Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia
2.1.1. Nội dung nguyên tắc
Tôn trọng chủ quyền quốc gia là tôn trọng quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh
thổ và tôn trọng quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ của
mình quốc gia có quyền tối cao về lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong quan hệ quốc tế, quyền
độc lập của quốc gia thể hiện ở chỗ quốc gia có quyền tự quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại
* Các nội dung cụ thể của nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia:
- Tôn trọng chủ quyền quốc gia trước hết là tôn trọng quyền lực tối cao của quốc gia trong
phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế.
- Tôn trọng chủ quyền quốc gia cũng có nghĩa là tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự lựa
chọn cho mình chế độ kinh tế, chính trị và xã hội.
- Tôn trọng chủ quyền quốc gia còn có nghĩa là tôn trọng sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia.
2.1.2. Ngoại lệ của nguyên tắc
Luật quốc tế trong một số trường hợp đã có những quy phạm nhằm trao cho một số quốc gia
nhất định những quyền đặc biệt mà các quốc gia khác không có.
Trong một số trường hợp các quốc gia tự hạn chế chủ quyền của mình. Đây là trường hợp
các quốc gia tự lựa chọn vì lợi ích của chính mình hoặc họ tự hạn chế chủ quyền của mình bằng
cách trao quyền cho một thể chế được thay mặt mình trong các hoạt động liên quan đến lợi ích
của quốc gia.
Một số trường hợp khác các quốc gia bị hạn chế chủ quyền. Trường hợp này chỉ đặt ra đối
với các chủ thể có hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế, và việc bị hạn chế chủ quyền
là một biện pháp trừng phạt từ phía cộng đồng quốc tế đối với quốc gia đó.
2.2. Sự tương tác của nguyên tắc với hội nhập quốc tế
2.2.1. Tác động của hội nhập quốc tế
2.2.1.1. Tác động tích cực của hội nhập quốc tế
- Về kinh tế: Hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho sự phát triển kinh tế
Hội nhập giúp các quốc gia mở rộng thị trường từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế, xã hội.
Hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công nghệ quốc gia.

Hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, có
cơ hội phát triển và tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
Hội nhập cũng tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và
xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước và
không bị lề hóa.
- Về chính trị: Hội nhập quốc tế giúp cho việc củng cố quốc phòng và an ninh quốc gia bảo
vệ sự xâm lấn lãnh thổ của các thế lực thù địch, bảo vệ đất nước.
Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế,
giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế
Hội nhập giúp các quốc gia tạo ra những liên minh chính trị như tương hỗ lẫn nhau, bảo vệ
chủ quyền quốc gia cho nhau
- Về văn hóa, xã hội: Hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lưu quốc tế, tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc; tạo điều kiện cho việc tiếp thu những thành tựu của
văn hóa nhân loại cũng như phổ biến và khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
Hội nhập giúp giải quyết các vấn đề xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, đảm bảo công
bằng về giới, bảo vệ môi trường giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu.
2.2.1.2. Tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế
- Về kinh tế: Hội nhập làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành
kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều hậu quả về mặt kinh tế, xã hội.
Hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài và do vậy
khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường quốc tế.
Hội nhập không phân phối công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong
xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu, nghèo.
Trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, họ dễ có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị
cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường.
Hội nhập có thể làm gia tăng nợ nước ngoài của các quốc gia, cũng làm tăng sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia, làm suy giảm sự độc lập tự chủ về kinh tế của các nước chậm và
đang phát triển
- Về chính trị: Hội nhập cũng dẫn các nước chậm phát triển tới nguy cơ xói mòn quyền lực

nhà nước, thu hẹp đáng kể quyền lực, đồng thời từ chỗ phụ thuộc về kinh tế sẽ dẫn đến phụ thuộc
về chính trị.
Hội nhập có thể tạo ra một số thách thức đối với độc lập, tự chủ và quyền lực nhà nước và
phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định ở các nước đang phát triển, nguy cơ gia tăng của
tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp
pháp…
- Về văn hóa: Hội nhập có nguy cơ làm mai một bản sắc văn hóa dân tộc. Thông qua hội
nhập lối sống thực dụng, vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân
Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống bị xói mòn
trước sự "xâm lăng" của văn hóa nước ngoài, văn hóa đồi trụy đi ngược lại giá trị truyền thống
ảnh hưởng không nhỏ tới giới trẻ.
2.2.2. Thời cơ và thách thức của hội nhập với chủ quyền quốc gia
2.2.2.1. Quan điểm các quốc gia về vấn đề hội nhập
Quan điểm hội nhập kinh tế làm xói mòn chủ quyền quốc gia. Quan điểm này cho rằng, hội
nhập kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đối với chủ quyền quốc gia làm lung lay cả những quan niệm
truyền thống về nhà nước, vai trò chức năng của nhà nước và chủ quyền quốc gia, chủ quyền
kinh tế của mỗi nước dẫn đến sự tiêu vong của nhà nước, làm lu mờ chủ quyền của các quốc gia.
Quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế là sự thực hiện chủ quyền quốc gia: Với sự chủ động hội
nhập, các chính phủ không hề từ bỏ hoặc giảm bớt quyền lực nhà nước của mình, thậm chí về
một số mặt quyền lực này, nhất là khả năng thực thi quyền lực, còn được củng cố và mở rộng
hơn nhờ có sự hợp tác quốc tế.
Quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế góp phần củng cố chủ quyền quốc gia Cơ sở của lập
luận này là không hội nhập thì sớm muộn sẽ lệ thuộc vào nền kinh tế nước lớn này hay nước lớn
khác. Hội nhập giúp tranh thủ được các lợi thế của sự hợp tác, có cơ hội đấu tranh bảo vệ lợi ích
quốc gia, giữ vững chủ quyền, chủ quyền quốc gia có thể được củng cố và đảm bảo hơn.
2.2.2.2. Tác động của hội nhập với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia và ngược lại
Hội nhập quốc tế và chủ quyền quốc gia có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Một mặt hội nhập
tạo ra những tiền đề hấp dẫn cho tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi vùng, thậm chí mỗi
đơn vị kinh tế và cá nhân, mặt khác những yêu cầu của hội nhập cũng thách thức việc thực hiện
và đảm bảo chủ quyền quốc gia, thậm chí chủ quyền quốc gia có thể bị "bào mòn", "gặm nhấm"

khi tham gia vào quá trình hội nhập và toàn cầu hóa. Theo chiều ngược lại, Nhà nước với việc
nắm giữ và thực hiện chủ quyền quốc gia cũng tác động đến tiến trình hội nhập.
Chủ quyền quốc gia, quá trình "mềm hóa". Quyền lực tuyệt đối của chủ quyền quốc gia dần
bị "mềm" đi bởi tác động của nhiều yếu tố cả bên trong và bên ngoài. Hội nhập quốc tế luôn gắn
liền với trách nhiệm quốc tế và để thực hiện được những trách nhiệm này, đôi khi phải chấp nhận
hy sinh một phần lợi ích quốc gia, và sâu xa hơn, là một phần chủ quyền quốc gia.
Hội nhập tạo ra cơ hội cho tăng trưởng kinh tế, tạo ra tiền đề vật chất cho tăng cường hiệu
quả của nhà nước và giải quyết những vấn đề của xã hội, mang lại kinh nghiệm quản lý cho các
nhà nước. Tuy nhiên, tham gia vào toàn cầu hóa tức là quốc gia phải chấp nhận hạn chế quyền
lực của mình trong các quyết sách vì những lợi ích lớn hơn của quốc gia. Hội nhập quốc tế đã,
đang và sẽ thách thức độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia của các dân tộc tự quyết một cách
hiện thực.
Trong quá trình toàn cầu hóa, sự gia tăng ngày càng lớn vị trí, vai trò và quyền lực của các
thể chế quốc tế kéo theo sự thu hẹp quyền tự chủ của các quốc gia đang dần mất đi sứ mệnh của
mình, quyền lực riêng mối nước ngày càng chuyển sang quyền lực chung của cộng đồng quốc tế;
chủ quyền quốc gia ngày nay không còn giữ nguyên giá trị cơ bản như trước đây nữa, địa vị của
nhà nước bị hạ xuống hàng thứ yếu.
Sự ảnh hưởng của hội nhập với chủ quyền quốc gia cụ thể là đối nội và đối ngoại như sau:
Trong hoạch định chính sách kinh tế. Các quốc gia sẽ không còn giữ quyền tối cao trong
việc hoạch định các chính sách kinh tế, thương mại của mình như trước đây mà phải căn cứ vào
chính sách kinh tế chung của những thiết chế kinh tế mà mình là thành viên.
Trong điều chỉnh pháp luật quốc gia: Các thiết chế kinh tế đều yêu cầu các quốc gia thành
viên phải có những điều chỉnh thích hợp các quy định, luật lệ quốc gia cho phù hợp, tiến hành
những cải cách, đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới cách thức quản lý và điều hành nền
kinh tế.
Trong thực thi chính sách: Các chính sách của quốc gia từ đây sẽ phải phù hợp với những
chính sách chung của các thiết chế. Điều này sẽ tác động đến phạm vi thẩm quyền của Chính phủ
trong lĩnh vực hành pháp.
Trong thực hiện chính sách đối ngoại: Việc ký kết điều ước quốc tế phải phù hợp với những
nguyên tắc và quy định của mỗi thiết chế, các quốc gia xin gia nhập phải chủ động đưa ra những

"nhượng bộ" cần thiết thậm chí phải tham gia những thỏa thuận không có tính bắt buộc.
2.2.2.3. Ảnh hưởng của việc thực hiện nguyên tắc với hội nhập quốc tế
Việc các quốc gia nghiêm túc tuân thủ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia sẽ khiến các
quốc gia cùng tồn tại trong trạng thái hòa bình. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế lại thường bị coi như
là "con dao hai lưỡi", chỉ có những người biết sử dụng nó thì mới đạt được hiệu quả như mong
muốn.
Mối quan hệ giữa hội nhập và chủ quyền quốc gia đã chỉ ra thời cơ và thách thức của hội
nhập và đảm bảo chủ quyền quốc gia. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh các chính sách về kinh tế,
chính trị, văn hóa cả trong phạm vi quốc gia lẫn quan hệ quốc tế, một trong những biểu hiện cụ
thể của việc thực hiện chủ quyền quốc gia cũng có tác động đến xu thế toàn cầu hóa, có thể theo
hướng tích cực hoặc tiêu cực tùy theo sự lựa chọn của quốc gia.
2.3. Sự lựa chọn của các quốc gia khi tham gia hội nhập quốc tế
Có những quốc gia theo đuổi toàn cầu hóa nửa chừng một số khác theo đuổi với tiêu chí phù
hợp với bản sắc văn hóa của họ, một số khác lại nói không với hội nhập, có một số xu hướng sau
đây.
2.3.1. Xu hướng nói không với hội nhập
Ngày nay, sự phản ứng chống đối nhằm vào hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đã trở lên tràn
lan hơn, có nhiều lý do khác nhau.
2.3.2. Xu hướng hội nhập không quan tâm đến chủ quyền quốc gia
Những quốc gia theo quan điểm này hội nhập và tham gia vào quá trình toàn cầu hóa hoàn
toàn.
2.3.3. Xu hướng hội nhập vì mục tiêu quốc gia
Để dung hòa mọi lợi ích trong xã hội và bảo vệ chủ quyền quốc gia thì quốc gia đó cần có
những quyết sách hợp lý, lựa chọn con đường phát triển bền vững và không quá lệ thuộc vào các
quốc gia khác. Quốc gia cần phát triển nền kinh tế theo thị trường nhưng có định hướng và có
những công cụ kiểm soát, điều tiết nền kinh tế một cách hiệu quả để kinh tế phát triển đúng hướng.

Chương 3
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
TÔN TRỌNG CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ GIẢI PHÁP VỚI VIỆT NAM

3.1. Vấn đề thực thi nguyên tắc của các quốc gia trên thế giới
3.1.1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc
3.1.1.1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc các quốc gia trên thế giới.
Đại đa số các quốc gia trên thế giới tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và đặc
biệt là tuân thủ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia. Các tổ chức quốc tế, các quốc gia luôn
đấu tranh lên án các hành vi vi phạm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên, một
số nước luôn lợi dụng các chiêu bài vi phạm nguyên tắc.
3.1.1.2. Thực trạng thực hiện nguyên tắc trong khu vực ASEAN.
Các nước trong khu vực ASean đã nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tôn trọng chủ quyền
quốc gia. ASean còn thành lập ra cơ quan nhân quyền ASEAN nhưng hoạt động của cơ quan này
hoạt động trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và không can thiệp vào công việc nội bộ
của các quốc gia trong khối
3.1.2. Một số biến tướng của việc vi phạm nguyên tắc
3.1.2.1. Một số dân tộc thiểu số đòi có nhà nước riêng
Hiện nay nảy sinh một vấn đề một số dân tộc thiểu số nằm trong quốc gia nào đó đòi có nhà
nước riêng. Đa số các quan điểm không đồng ý với việc các dân tộc thiểu số đòi có nhà nước
riêng và có chủ quyền.
3.1.2.2. Lợi dụng can thiệp nhân đạo để thực hiện mưu đồ chính trị
Một số tổ chức quốc tế và quốc gia đã lợi dụng can thiệp nhân đạo để can thiệp vào công
việc nội bộ các quốc gia, vi phạm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia. Nhìn chung dư luận
quốc tế đều cho rằng trong trường hợp đặc biệt cấp bách, cần phải có sự can thiệp nhưng phải
tiến hành trong khuôn khổ Liên hợp quốc, nếu không sẽ là phi pháp.
3.1.2.3. Lợi dụng chống khủng bố để lật đổ các nhà nước hợp hiến, hợp pháp
Luật pháp quốc tế không cho phép các quốc gia sử dụng vũ lực đối với những nước đã tiến
hành khủng bố, lợi dụng chống khủng bố lật đổ các chính quyền hợp pháp, hợp hiến vì như vậy vi
phạm nghiêm trọng các nguyên tắc của luật quốc tế và trước hết là nguyên tắc tôn trọng chủ
quyền quốc gia.
3.1.2.4. Lợi dụng vấn đề nhân quyền để thao túng các quốc gia
Không thể một quốc gia nào áp đặt giá trị nhân quyền của quốc gia mình lên một quốc gia
khác. Nếu một quốc gia hoặc một giai cấp, một thế lực nào đó tự coi mình là đại diện cho nhân

quyền toàn nhân loại, lấy tiêu chuẩn giá trị nhân quyền của nước mình áp đặt cho các nước khác,
lấy quan điểm "nhân quyền cao hơn chủ quyền", "nhân quyền không biên giới" để làm cơ sở cho
sự can thiệp vào nội bộ các quốc gia độc lập, có chủ quyền là vi phạm nghiêm trọng những
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
3.2. Vấn đề bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trong điều kiện hội nhập
3.2.1. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam hội nhập
3.2.1.1. Thuận lợi của Việt Nam khi hội nhập quốc tế.
Thứ nhất, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc xác định chủ động tham
gia vào tiến trình toàn cầu hóa, khu vực hóa, coi đây là "xu thế của sự phát triển".
Thứ hai, Việt Nam có những lợi thế về tự nhiên cho phát triển kinh tế.
Thứ ba, Việt Nam được đánh giá cao về chỉ số nguồn nhân lực. Với thị trường gần 90 triệu
dân, trong đó số người trong độ tuổi lao động cao, có trình độ văn hóa, cần cù lao động, đặc biệt
là lao động giá rẻ.
Thứ tư, Việt Nam có môi trường chính trị, xã hội ổn định. Chính sách của Đảng và nhà nước
ta là nhất quán, đồng thời pháp luật cũng từng bước được bổ sung, hoàn thiện và cụ thể hóa phù
hợp với tiến trình hội nhập.
Thứ năm, sau 20 năm đổi mới và hội nhập Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng
khích lệ tạo tiền đề cho quá trình hội nhập:
- Về kinh tế: Nền kinh tế nước ta vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao,
năm sau cao hơn năm trước và phát triển tương đối toàn diện. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển đúng
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, công nghiệp và thương mại dịch vụ tăng, giảm tỷ trọng
nông nghiệp.
- Về văn hóa - xã hội: Bước đầu gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, nhất
là trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, giải quyết các chính sách cho người có công, các vấn đề
an sinh xã hội.
- Về đối ngoại: Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế và trong khu vực và trở thành
một thành viên tích cực của ASEAN với những đóng góp được đánh giá cao.
3.2.1.2. Thách thức của Việt Nam khi hội nhập quốc tế
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, hội nhập quốc tế với xuất phát điểm thấp và
đương nhiên thuộc vào nhóm các quốc gia bất lợi trong quá trình này. Việt Nam đang phải đối

mặt với những thách thức về độc lập chủ quyền mà nếu không vượt qua chúng, hậu quả tiêu cực
cũng rất khó lường:
- Thách thức trước áp lực ngày càng tăng của bối cảnh quốc tế và trong tương quan so sánh
lực lượng trên thế giới.
- Thách thức trước âm mưu diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng toàn cầu hóa để tiến hành
"diễn tiến hòa bình" kết hợp với gây bạo loạn nhằm tấn công thẳng vào chế độ, xã hội ta.
- Thách thức suy giảm chủ quyền quốc gia về kinh tế, thách thức chính trị to lớn đối với Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Mất tự chủ về kinh tế dần dần mất tự chủ về chính trị.
3.2.1.3. Tác động của hội nhập với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia
Việt Nam khi hội nhập quốc tế, tham gia vào các thiết chế kinh tế chủ quyền quốc gia sẽ
được củng cố và khẳng định.
Thứ nhất, chủ quyền quốc gia sẽ được củng cố và bảo đảm hơn. Tham gia hội nhập khu vực và quốc
tế cho phép Việt Nam sử dụng những cơ sở pháp lý cần thiết như quy chế tối huệ quốc (MFN); đối xử
quốc gia (NT); cơ chế giải quyết tranh chấp để đấu tranh chống bị phân biệt đối xử, chèn ép trong
thương mại quốc tế.
Thứ hai, hội nhập quốc tế giúp Việt Nam tranh thủ và khai thác những quy chế, điều kiện ưu
đãi mà phần lớn các thể chế quốc tế dành cho các nước đang phát triển.
Thứ ba, tham gia vào các tổ chức liên kết kinh tế tăng cường hiệu lực quản lý kinh tế của nhà
nước.
Thứ tư, tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế mà cụ thể là WTO, Việt Nam có được vị trí
và tiếng nói trong đàm phán đa phương có cơ hội tham gia bình đẳng vào quá trình hình thành
luật pháp quốc tế sao cho đảm bảo được quyền lợi của nước mình.
Việc tham gia các thiết chế kinh tế quốc tế nói trên đặt ra các nghĩa vụ mà Việt Nam phải
thực hiện, điều đó dẫn đến chủ quyền quốc gia có một số thay đổi trong các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập quốc tế việc hoạch định
chính sách kinh tế của Việt Nam luôn phải vận hành theo các nguyên tắc mới và cuối cùng là đáp
ứng đầy đủ các yêu cầu của các thiết chế.
Thứ hai, thực hiện mục tiêu chung của các thể chế kinh tế, Việt Nam sẽ cam kết mở cửa thị
trường nội địa ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực kinh tế.

Thứ ba, Việt Nam cần có và từng bước hình thành những thiết chế mới hoặc hoàn thiện các
thiết chế trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế
Thứ tư, để phù hợp với những nguyên tắc của các thể chế kinh tế, Việt Nam phải tiến hành
những điều chỉnh chính sách và pháp luật về thuế, bảo hộ, trợ cấp cắt giảm, tiến tới xóa bỏ
hoàn toàn hàng rào phi quan thuế.
Thứ năm, tham gia các thể chế kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ phải chấp nhận những tiêu
chuẩn, quy tắc mới, áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường
Thứ sáu, một nghĩa vụ của thành viên các thể chế kinh tế quốc tế hiện nay đó là chấp nhận sự
giám sát, thực hiện chế độ theo dõi, báo cáo thông tin cho những cơ quan lập ra có chức năng theo
dõi tình hình thực hiện ở từng quốc gia.
Thứ bảy, trong chính sách đối ngoại Việt Nam trả "phí hội viên" bằng những nhượng bộ về
thuế, các cam kết về trợ cấp nông nghiệp và thương mại dịch vụ để đổi lấy quyền được hưởng
những lợi ích của tự do hóa.
3.2.2. Bảo vệ chủ quyền Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
* Quan điểm của các nhà khoa học về vấn đề bảo vệ chủ quyền
Đối với Việt Nam chân lý lớn nhất được kết tinh trong mệnh đề bất hủ: "Không có gì quý
hơn độc lập, tự do". Tuy nhiên trong khi nêu cao vấn đề cốt tử là độc lập, chủ quyền quốc gia
dân tộc chúng ta cũng thừa nhận rõ ràng rằng "toàn cầu hóa, khu vực hóa, hội nhập kinh tế quốc
tế và những hiện tượng mới đòi hỏi cách đề cập hoàn toàn mới trong việc bảo vệ độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ". Toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã làm cho
khái niệm chủ quyền quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ theo cách hiểu cũ không còn đứng vững,
mặc dầu về hình thức, mỗi nước thành viên vẫn có chủ quyền và lãnh thổ riêng. Cụ thể ở đây
khái niệm chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ theo quan niệm cũ cũng không còn đứng
vững thể hiện ở mấy phương diện sau:
Một là, khái niệm độc lập về kinh tế chính trị và kinh tế cũng đang biến đổi theo, nước nào
càng tạo cho mình một tư thế quốc tế năng động, linh hoạt và đa dạng hóa được quan hệ đối
ngoại thì càng có khả năng thực hiện được chính sách độc lập, tự chủ hơn.
Hai là, Trước đây chỉ có một loại đối tượng có hoạt động xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đó là các tập đoàn hiếu chiến, phản động nước ngoài,
còn có bọn phản động lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, luôn kích động, lôi kéo tập hợp quần

chúng vào các hoạt động chống lại chính quyền, làm mất ổn định chính trị.
Ba là, Trong hoàn cảnh hiện nay chỉ có sức mạnh quân sự không thôi thì chưa đủ để đảm
bảo vững chắc chủ quyền và an ninh quốc gia cũng như toàn vẹn lãnh thổ nên cần có một sức
mạnh tổng hợp hay sức mạnh tổng lực bao gồm cả sức mạnh về chính trị, sự phát triển về kinh
tế, sự ổn định về xã hội, thậm chí cả bản sắc văn hóa.
Bốn là, chúng ta chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế theo phương châm:
"Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu
vì hòa bình và độc lập phát triển".
Năm là, để sự hòa nhập có hiệu quả, người ta phải làm chủ được cả nghệ thuật thỏa hiệp nữa.
Chúng ta phải thông qua giao lưu quốc tế mà phát triển. Phải vượt qua cái nhỏ để có được cái
lớn, hy sinh bộ phận vì toàn cục, nhân nhượng cái trước mắt để được cái lâu dài.
3.2.3. Một số giải pháp, đề xuất, kiến nghị
3.2.3.1. Giải pháp để các quốc gia nghiêm túc thực hiện nguyên tắc
Tác giả xin đóng góp một số đề xuất để các quốc gia trên thế giới thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia trong điều kiện hội nhập hiện nay được thực hiện một
cách nghiêm túc như sau:
Thứ nhất: Củng cố cơ sở pháp lý của nguyên tắc bằng việc thể chế hóa trong các văn bản
luật quốc tế và quốc gia.
Để nguyên tắc được thực hiện triệt để thì cần được ghi nhận trong các hiệp định song
phương và đa phương giữa các quốc gia và cần được thể chế hóa trong luật của các quốc gia.
Thứ hai: Các quốc gia tự nguyện thực hiện nguyên tắc
Cho dù đã có pháp luật, nhưng chỉ dựa vào bản thân pháp luật thì chưa đủ quan trọng hơn chính
là việc các quốc gia phải tự giác tuân thủ pháp luật, thực hiện nguyên tắc và có sự giám sát của
Liên hợp quốc, cần trao thêm quyền cho Liên hợp quốc và có sự đồng thuận nhất trí cao với các
quyết định của Hội đồng bảo an trong việc cưỡng chế một số quốc gia vi phạm nguyên tắc.
Thứ ba: Bảo đảm việc thực thi nguyên tắc trong những quan hệ cụ thể
Cần có chính sách đối nội, đối ngoại một cách hợp lý để không bị chèn áp khi tham gia các
quan hệ quốc tế. Thứ hai, trong đàm phán cần cử các chuyên gia đàm phán có trình độ, hiểu sâu
về lĩnh vực đó để không bị gài bẫy hay bị chèn ép trong quá trình đàm phán.
Thứ tư: Ngăn chặn việc vi phạm nguyên tắc bằng nhiều biện pháp khác.

Ngăn chặn việc vi phạm nguyên tắc bằng sức ép dư luận. Các quốc gia trên thế giới cần hợp
tác lên án các hành vi vi phạm nguyên tắc của các quốc gia trên thế giới.
Ngăn chặn việc vi phạm nguyên tắc bằng việc đưa ra tòa án quốc tế. Nếu sức ép dư luận
không thể ngăn chặn hành vi vi phạm của một số quốc gia cần có sự can thiệp của LHQ để ngăn
chặn vi phạm hoặc đưa ra tòa án quốc tế hoặc tòa án về luật biển quốc tế, nên chăng cần tăng
cường thẩm quyền cho hai tòa này và cần quy định chế tài cụ thể nhằm cưỡng chế các quốc gia
nghiêm túc thực hiện các phán quyết trên.
Theo tác giả, nên chăng đưa thêm vào một điều khoản trong luật quốc tế là chỉ cần một
trong các bên tranh chấp đồng ý đưa vụ việc nhất là những tranh chấp về chủ quyền, tranh chấp về
vùng biển thuộc quyền chủ quyền hay tranh chấp biển ra giải quyết tại tòa án thì vụ việc sẽ được giải
quyết tại tòa án.
3.2.3.2. Một số giải pháp để Việt Nam bảo vệ chủ quyền trong tiến trình hội nhập quốc tế
* Giải pháp tổng thể
Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rất rõ vấn đề này và trong tất cả các văn kiện đều nhấn
mạnh đến việc "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế", đồng thời chỉ rõ "hội nhập kinh tế quốc tế có
hiệu quả sẽ tạo thêm điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ". Vấn đề đặt ra
là phải có quan niệm đúng đắn về khái niệm chủ quyền quốc gia trước xu thế mới và làm thế nào
để có thể tận dụng một cách có hiệu quả và phát huy những lợi thế của mình mà vẫn bảo đảm giữ
gìn bản sắc, bảo đảm chủ quyền quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước
đã đề ra, cụ thể:
- Cần có sự nhìn nhận mới về chủ quyền quốc gia, coi việc tham gia vào các tổ chức, liên kết
kinh tế sự thay đổi chủ quyền quốc gia là tất yếu và cần thiết cũng chính là sự thực hiện chủ
quyền quốc gia.
- Nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ. Hiện nay, vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan
điểm, đường lối chính trị độc lập mà còn là đòi hỏi của thực tiễn nhằm bảo đảm tự chủ về chính
trị.
- Xây dựng lộ trình gia nhập tổng thể gắn với những điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt
Nam, phù hợp với những thể chế kinh tế khác nhau và tính đến những ưu đãi, miễn giảm mà Việt
Nam được hưởng, lưu ý đến tính toán về lâu dài khi Việt Nam không còn được hưởng những ưu

đãi đó nữa.
- Có lộ trình hợp lý, khoa học cho việc hoàn thiện, điều chỉnh hệ thống pháp luật phù hợp,
tránh những xáo trộn, biến động trong xã hội nói chung và hệ thống pháp luật nói riêng.
- Cần nghiên cứu, đánh giá những thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam về mọi mặt
trong điều kiện thực tế của Việt Nam, có chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lý nhằm tận
dụng, phát huy tối đa lợi thế và khắc phục, hạn chế những thách thức đặt ra trong tiến trình hội
nhập.
- Tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Nhà nước ta cần phải tạo ra
môi trường thuận lợi về luật pháp và kinh tế để cho mọi tổ chức kinh doanh thuộc mọi thành
phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài,
- Tăng cường đối ngoại, đặc biệt hợp tác các nước khu vực, các nước đang phát triển, tận dụng
các diễn đàn để tạo dựng vị thế, đấu tranh hợp pháp bảo vệ quyền lợi của nhà nước, nâng cao vị
trí của Việt Nam trên trường quốc tế.
* Giải pháp cụ thể
Thứ nhất: Phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
* Phát huy nội lực và ngoại lực: Kết hợp nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển, phải
có chính sách phù hợp để phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và tinh thần của mọi người
dân, của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân, thu hút và sự dụng tốt nhất ngoại lực.
Phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị, xã hội, coi đây là tiền đề để phát
triển nhanh và bền vững.
* Hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ: Hội nhập kinh tế quốc tế
là yêu cầu khách quan, phải chủ động, có lộ trình phù hợp với bước đi tích cực, vững chắc, không
được nóng vội, giản đơn. Cần tích cực mở rộng thị trường bên ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu, đồng
thời phải chủ động mở cửa thị trường trong nước, kể cả thị trường dịch vụ để thu hút mạnh vốn
đầu tư, công nghệ nâng cao hiệu quả sức mạnh của nền kinh tế.
Thứ hai: Hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng nguồn nhân lực
* Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật:Để thúc đẩy kinh tế phát triển, kiểm soát nền kinh
tế ở tầm vĩ mô nhà nước ta cần xây dựng bộ máy chính quyền năng động, thông minh và chất
lượng.
Nhà nước ta cần ban hành một hệ thống pháp luật đồng bộ, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực

của đời sống xã hội, tham gia phê chuẩn nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương có
lợi cho Việt Nam.
Cần đào tạo một đội ngũ chuyên gia giỏi về luật và trang bị kỹ năng đàm phán, nâng cao dân
trí cho người dân về các lĩnh vực kinh tế, chính trị và đặc biệt là luật pháp.
* Bảo vệc chủ quyền lãnh thổ quốc gia: Việt Nam cần thực sự tỉnh táo và cứng rắn trong việc
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ qua các hình thức tuyên truyền, vận động tranh thủ sự đồng tình ủng
hộ của thế giới và cả luật pháp quốc tế. Trong quá trình đàm phán ký kết chúng ta cần cử các
chuyên gia đầu ngành và thực sự tỉnh táo trên bàn đàm phán để có được lợi thế nhất định cho
Việt Nam. Chúng ta phải có đủ bằng chứng lịch sử, có căn cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền
của mình.
Thứ ba: Chính sách đối ngoại của nhà nước ta
Những định hướng lớn về đối ngoại của Đại hội XI:
Về quan hệ song phương: Tiếp tục phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối
ngoại, Việt Nam sẽ ưu tiên phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị truyền thống với các nước
láng giềng có chung biên giới, đồng thời nỗ lực làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các đối tác chủ
chốt.
Là thành viên ASEAN: Việt Nam sẽ chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây
dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì và củng cố vai
trò quan trọng của ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương
Về ngoại giao đa phương: Việt Nam sẽ mở rộng tham gia và đóng góp ngày càng tích cực,
chủ động, trách nhiệm vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu, đặc
biệt là Liên hợp quốc.
Về biên giới lãnh thổ: Thúc đẩy giải quyết những vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh
giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực;
Về các lĩnh vực khác: Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ đối ngoại đảng với các đảng cộng
sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và các đảng khác, tiếp tục coi trọng và nâng cao
hiệu quả công tác ngoại giao nhân dân.
Các hoạt động đối ngoại sẽ được triển khai đồng bộ, toàn diện trên cơ sở phát huy tiềm lực
của mọi lực lượng và thực thi trên mọi kênh, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc

trên mặt trận đối ngoại.

KẾT LUẬN
Tóm lại, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, chủ quyền quốc gia là một vấn đề nóng, có rất
nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề chủ quyền quốc gia trong thời kỳ hội nhập, trong đó có
quan điểm cho rằng hội nhập quốc tế có thể làm "xói mòn" chủ quyền quốc gia, chủ quyền quốc
gia "có thể bị thu hẹp, thay đổi" trong thời đại hội nhập quốc tế hiện nay.
Các quan điểm trên chỉ nhìn hội nhập ở khía cạnh tiêu cực, phiến diện mà chưa đánh giá hết
những tích cực của hội nhập. Chúng ta cần phải khẳng định rằng hội nhập quốc tế là tất yếu,
không thể đảo ngược và "góp phần để thực hiện chủ quyền quốc gia tốt hơn, hiệu quả hơn". Vì
nếu không tham gia vào hội nhập, quốc gia sẽ bị lệ thuộc vào các nước có tiềm lực kinh tế, chính
trị mạnh hơn. Ngược lại, nếu tham gia vào hội nhập, chủ quyền quốc gia được thực thi tốt hơn vì
các vấn đề như môi trường, nhân quyền, hiểm họa của thế giới được các nước cùng nhau "chung
tay" giải quyết.
Tuy nhiên, hội nhập không chỉ tạo ra cơ hội mà cũng mang đến nhiều thách thức cho các
quốc gia trong quá trình tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa. Vấn đề là ở chỗ quốc gia cần phải
có những điều chỉnh hợp lý để tận dụng được những lợi thế của hội nhập và giảm thiểu rủi ro.
Trong thời đại toàn cầu hóa với biên giới khai thông vai trò của nhà nước quan trọng hơn bao giờ
hết. Một bộ máy nhà nước năng động, hiệu quả với nền hành chính tinh gọn, hệ thống pháp luật
đồng bộ, hợp lý là một mô hình lý tưởng để phát triển đất nước trong thời đại toàn cầu hóa đảm
bảo hòa nhập nhưng không hòa tan, hội nhập nhưng vẫn bảo vệ giữ vững chủ quyền quốc gia.
Các siêu cường trên thế giới luôn mang trong mình tham vọng bá chủ, họ sử dụng đủ các
chiêu bài dưới các hình thức khác nhau kể cả dùng vũ lực để can thiệp kinh tế, chính trị thậm chí
xâm phạm chủ quyền lãnh thổ các quốc gia nhỏ hơn. Vấn đề các quốc gia làm thế nào để tham
gia vào tiến trình toàn cầu hóa mà vẫn giữ vững chủ quyền quốc gia. Do vậy, các quốc gia trên thế
giới cần hợp tác cùng nhau để lên án những hành vi vi phạm luật quốc tế, nguyên tắc tôn trọng chủ
quyền quốc gia. Các quốc gia trên thế giới cần "luật hóa" nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia
trong luật quốc gia và các điều ước quốc tế song phương và đa phương thì nguyên tắc sẽ được thực
thi hiệu quả. Ngoài ra, Liên hợp quốc cần có một cơ chế giám sát chặt chẽ vấn đề tôn trọng chủ
quyền quốc gia, có một chế tài đủ mạnh hợp lý để xử lý những quốc gia vi phạm nguyên tắc, nhưng

trên hết các quốc gia cần tự giác thực hiện nguyên tắc thì thế giới mới bình yên và phát triển bền
vững, trật tự thế giới không bị đảo lộn.

References
1. Lê Văn Bính (2011), "Giải quyết các tranh chấp quốc tế liên quan đến hoạt động của các
quốc gia ở Đại dương", Nhà nước và pháp luật, (9).
2. Bộ Ngoại giao (1976), Hiệp ước TAC năm 1976, (Tài liệu dịch), Hà Nội.
3. Bộ Ngoại giao (1982), Hiệp định vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia, (Tài liệu dịch), ngày
07/7.
4. Bộ Ngoại giao (1999), Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, (Tài liệu dịch), ngày 30/12.
5. Bộ Ngoại giao (2000), Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ Việt Nam - Trung Quốc, (Tài liệu
dịch), ngày 25/12.
6. Bộ Ngoại giao (2003), Hiệp định phân định thềm lục địa Việt Nam - Inđonêxia, (Tài liệu
dịch), ngày 26/6.
7. Bộ Ngoại giao (2007), Hiến chương ASEAN, (Tài liệu dịch), Hà Nội.
8. Bộ Ngoại giao (2009), Hiệp định Quy chế quản lý Biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc,
(Tài liệu dịch), ngày 18/11.
9. Bộ Tư pháp (1996) Mối quan hệ giữu điều ước quốc tế của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và pháp luật Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
10. Chính phủ (1982), Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam ngày 12/11 về đường cơ sở để tính
chiều rộng lãnh hải, Hà Nội.
11. Chính phủ (2002), Quyết định số 37/2002/QĐ-TTg ngày 14/3 về chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 07, Hà Nội.
12. Ngô Huy Cương (2005), "Chủ quyền quốc gia, những luận điểm cơ bản và một số vấn đề
liên quan", Nhà nước và pháp luật, (6).
13. Nguyễn Văn Dân (2001), Những vấn đề của toàn cầu hóa kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
14. Nguyễn Bá Diến (2007) "Vấn đề phân định biển trong Luật Quốc tế hiện đại", Khoa học,
(Chuyên san Kinh tế - Luật), (1).

15. Nguyễn Tấn Dũng (2002), "Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ
nghĩa", Báo Nhân dân, ngày 13/9.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 27/11 của Bộ Chính trị về
hội nhập kinh tế quốc tế năm, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Thanh Giang (1999), "Hội nhập và chủ quyền", nguyenthanhgiang.com, ngày 16/12.
21. Nguyễn Thanh Giang (2006), "Nhân quyền và chủ quyền ở Việt Nam", amazonaws.com,
ngày 20/5.
22. Nguyễn Hoàng Giáp - Mai Hoàng Anh, "Chủ quyền quốc gia - dân tộc trước xu thế toàn cầu
hóa kinh tế hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (3).
23. Xuân Hải (2006), "Quan điểm của Đảng ta về hội nhập quốc tế", dangcongsan.vn, ngày
06/7.
24. Lê Quang Hòa (2005), Thách thức về chủ quyền quốc gia của Việt Nam trong quá trình toàn
cầu hóa ngày nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
25. Vũ Khoan (2001), "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa", Khoa học và Tổ quốc, (10).
26. Hồng Lam (1998), "Hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới", Tạp chí Cộng sản, (11).
27. Nguyễn Ngọc Lâm (2012), "Giải quyết tranh chấp về biển: nhìn từ thực tiễn một số vụ vi
phạm công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 trong vùng biển thuộc chủ quyền
Việt Nam" www.hcmulaw.edu.vn, ngày 26/3.
28. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (2004), "Giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong
quá trình giao lưu, hội nhập", luatminhkhue.vn, ngày 18/6.
29. Liên hợp quốc (1945), Hiến chương Liên hợp quốc, ngày 24/10.
30. Liên hợp quốc (1948), Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế, ngày 10/12.
31. Liên hợp quốc (1960), Nghị quyết số 1415 ngày 14/12 của Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố

trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa.
32. Liên hợp quốc (1965), Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm,
ngày 21/12.
33. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá, ngày 16/12.
34. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, ngày 16/12.
35. Liên hợp quốc (1970), Nghị quyết 2625 (XXV) của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 24/10
tuyên bố về các nguyên tắc của luật pháp quốc tế điều chỉnh những quan hệ hữu nghị và hợp
tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc.
36. Liên hợp quốc (1982), Công ước Luật biển.
37. Liên hợp quốc (2000), Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, ngày 08/9.
38. Liên hợp quốc (2009), Quy chế tòa án quốc tế.
39. Nguyễn Hạnh Lợi (2009), Chủ quyền quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
40. Trần Thăng Long (2003), "Chủ quyền quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế và vấn đề chủ
quyền quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", Khoa học pháp lý, (4).
41. Phạm Bình Minh (2011), "Đường lối đối ngoại của Đại hội XI và những phát triển quan
trọng trong tư duy đối ngoại của Đảng ta", mofahcm.gov.vn, ngày 20/5.
42. Lê Minh Nghĩa (2007) "Những vấn đề về chủ quyền Việt Nam và các nước láng giềng",
tapchithoidai.org, ngày 12/12.
43. Lê Hữu Nghĩa, Lê Ngọc Tòng (2004), Toàn cầu hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Nguyễn Nhã (2002), "Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa", nguyenthaihocfoundation.org, ngày 17/7.
45. Lê Văn Quang (2005), "Tư duy mới về độc lập, chủ quyền quốc gia dân tộc và bảo vệ độc
lập chủ quyền quốc gia dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế", Giáo dục lý luận, (2).
46. Quốc hội (1945), Hiến pháp, Hà Nội.
47. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
48. Quốc hội (2003), Luật biên giới quốc gia, Hà Nội.
49. Quốc hội (2005), Luật điều ước quốc tế, Hà Nội.

50. Ramses Amer (1997), "Các tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Việt Nam và sự ổn định
khu vực", Đông Nam Á hiện đại, tập 19, (1).
51. Phan Văn Rân, Nguyễn Hoàng Giáp (2010), Chủ quyền quốc gia dân tộc trong xu thế toàn
cầu hóa và vấn đề đặt ra với Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
52. Dương Xuân Sơn (2007), "Toàn cầu hóa - những mặt tích cực và tiêu cực, ảnh hưởng của nó
đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc" Hà nội tháng 7 năm 2007
53. Nguyễn Đức Thắng (2007), "Thực chất của luận thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền",
tapchicongsan.org.vn, ngày 13/9.
54. Duy Thao (2000), "Chủ quyền kinh tế của các nước đang phát triển trong toàn cầu hóa", Tạp
chí Cộng sản, (9), tr. 61- 64.
55. Nguyễn Viết Thảo (2011), "Đảm bảo mối quan hệ giữa độc lập và quyền tự chủ trong hội
nhập quốc tế", tapchiqptd.vn, ngày 22/8.
56. Đào Trí (2001), Những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý của quá trình hợp tác và hội
nhập quốc tế - khu vực của Việt Nam, Đề tài độc lập cấp nhà nước, Viện Nghiên cứu Nhà
nước và pháp luật, Hà Nội.
57. Phạm Quốc Trụ (2010), "Thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm qua và
triển vọng những năm tới", Nghiên cứu quốc tế, 1(80).
58. Phạm Quốc Trụ (2011), "Đảm bảo mối quan hệ giữa độc lập và quyền tự chủ trong hội nhập
quốc tế", nghiencuubiendong.vn, ngày 31/8.
59. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật quốc tế, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
60. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
61. Từ điển ngoại giao (1985), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
62. Nguyễn Thị Hồng Vân (2005), "Về nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực
trong quan hệ quốc tế", Khoa học pháp lý, (3).
63. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2001), Những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý
của quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế - khu vực của Việt Nam, Đề tài độc lập cấp nhà
nước, Hà Nội.
64. Vụ hợp tác kinh tế đa phương - Bộ Ngoại giao (2001), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu
thế toàn cầu hóa - vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

TIẾNG ANH
65. Ch. Rousseau. Principes Generaux du Droit International Public P 1944. 1, P394-400.
66. G.Scelle Cours de Droit International Public P.1948, P98-120.
67. Nico Schrijver, the Changing nature of State Sovereignty. British Yearbook of International
law

×