Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng dịch vụ chăm sóc trước, trong và sau sinh của các bà mẹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.34 KB, 57 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăm sóc sức khoẻ sinh sản là lĩnh vực y tế luôn được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm và giành nhiều ưu tiên trong sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc
sức khoẻ nhân dân [3]. Trong giai đoạn hiện nay, công tác này được tiếp cận
một cách bao quát, rộng lớn hơn thể hiện bằng các chiến lược, chính sách, các
văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe
sinh sản, cụ thể như “Chiến lược Quốc gia về CSSKSS giai đoạn 2001 -
2010”; “Hướng dẫn Chuẩn Quốc gia về các dịch vụ CSSKSS” . . .
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, mỗi năm có hơn 585.000 phụ nữ tử vong
do các nguyên nhân sản khoa, 640 triệu phụ nữ ốm yếu do liên quan đến thai
nghén, 64 triệu phụ nữ phải chịu đựng những biến chứng khi sinh, 500 triệu
phụ nữ phải chịu đựng sự thiếu hụt dinh dưỡng. Trong đó 90% trường hợp tử
vong mẹ xảy ra ở Châu Á và Châu Phi, 25-30% số tử vong ở vào độ tuổi sinh
sản ở các nước đang phát triển [1],[22],[41].
Tại các nước đang phát triển, mang thai và sinh đẻ là nguyên nhân
chính dẫn đến tử vong, bệnh tật và tàn phế cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ,
chiếm ít nhất 18% gánh nặng bệnh tật ở nhóm tuổi này - nhiều hơn bất kỳ một
vấn đề sức khoẻ nào khác [34]. Hàng năm có 8 triệu thai nhi và trẻ sơ sinh
chết vào cuối thời kỳ thai nghén, vào lúc lọt lòng và ngay sau khi sinh ít lâu,
nguyên nhân chủ yếu là do sức khỏe của bà mẹ kém hay biến chứng sau sinh.
Tử vong sơ sinh chủ yếu xảy ở các nước đang phát triển, chiếm 96% trẻ sơ
sinh chết hàng năm trên thế giới [22].
Tại Việt Nam tỷ lệ tử vong mẹ toàn quốc là 80/100.000 trẻ đẻ sống vào
năm 2005[5]. Tỷ lệ tử vong mẹ khác nhau ở từng khu vực, ở miền núi và
vựng sõu, vựng xa tỷ lệ tử vong mẹ cao hơn khu vực đồng bằng. Năm 2002,
Vụ Bảo vệ bà mẹ trẻ em ước tính tử vong mẹ ở miền núi và trung du là
269/100.000 và ở đồng bằng là 81/100.000. Về nguyên nhân, 75 - 80% trường
1
hợp tử vong mẹ là do các biến chứng và bệnh nhiễm trùng xảy ra trong quá
trình mang thai [34].
Nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế sinh sản là rất khác nhau ở cỏc nhúm đối


tượng; đặc biệt các bà mẹ nuôi con nhỏ dưới 2 tuổi thì nhu cầu này là rất cao,
bởi lẽ sự thay đổi về tâm sinh lý và những thách thức mà họ phải đối mặt sau
khi vượt cạn: chăm sóc bé sơ sinh như thế nào? Chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt,
nghỉ ngơi, vệ sinh cá nhân và quan hệ tình dục sau sinh . .ra sao để đảm bảo
cho mẹ khỏe, con khỏe và gia đình hạnh phúc? Mối quan tâm này không chỉ
gặp ở phụ nữ miền xuôi mà còn cả miền ngược. Vì rất nhiều lý do nên việc
đáp ứng nhu cầu cho các bà mẹ có con nhỏ dưới 2 tuổi vẫn chưa được cải
thiện như mong muốn.
Trên phạm vi cả nước đó cú khá nhiều nghiên cứu về kiến thức và thực
hành CSSKSS của bà mẹ giai đoạn trước sinh tuy nhiên nghiên cứu giai đoạn
trong sinh và sau sinh vẫn còn rất ít [25].
Cho đến nay tại Bình Định nghiên cứu dành cho các bà mẹ có con nhỏ
dưới 2 tuổi là rất hạn chế, mặc khác cũng chưa có nghiên cứu nào tập trung
sâu về thực trạng kiến thức, thực hành và tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến
kiến thức và thực hành chăm sóc trước, trong và sau sinh của các bà mẹ trên.
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu một
số yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng dịch vụ chăm sóc trước, trong và sau
sinh của các bà mẹ nuôi con nhỏ dưới 2 tuổi tại Bình Định năm 2008-
2009 ” với các mục tiêu:
1. Mô tả việc sử dụng dịch vụ chăm sóc trước, trong và sau sinh của các
bà mẹ nuôi con nhỏ dưới 2 tuổi tại tỉnh Bình Định, năm 2008-2009.
2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ chăm
sóc trước, trong và sau sinh của các bà mẹ nêu trên.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới, “Sức khoẻ sinh sản là sự
thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội, không chỉ đơn thuần là
không có bệnh tật hoặc tàn phế của hệ thống sinh sản. Điều này cũng hàm ý là
mọi người, kể cả nam và nữ, đều có quyền được nhận thông tin và tiếp cận

các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, các biện pháp kế hoạch hoá gia đình an toàn,
có hiệu quả và chấp nhận được theo sự lựa chọn của mình, bảo đảm cho
người phụ nữ trải qua quá trình thai nghén và sinh đẻ an toàn, tạo cho các cặp
vợ chồng cơ may tốt nhất để sinh được đứa con lành mạnh” [3].
Thai nghén và sinh đẻ là quá trình sinh lý tự nhiên, đồng thời có nhiều
thay đổi về giải phẫu, tâm sinh lý của người mẹ. Những thay đổi này có thể
xảy ra rất sớm và diễn ra liên tục trong suốt thời kỳ thai nghén để đáp ứng với
nhu cầu sinh lý của người mẹ và sự phát triển của thai nhi.
Trong mỗi lần mang thai và sinh nở, người phụ nữ phải đối mặt với nhiều
nguy cơ liên quan tới những tai biến đột ngột và khó lường trước. Những tai biến
này có thể dẫn tới thương tật thậm chí tử vong cho bà mẹ và thai nhi.
1.1. Chăm sóc trước sinh:
1.1.1. Khái niệm:
Chăm sóc bà mẹ khi có thai còn được gọi là chăm sóc trước sinh. Chăm sóc
trước sinh là những chăm sóc sản khoa cho người phụ nữ tính từ thời điểm có thai
cho đến trước khi đẻ nhằm đảm bảo cho quá trình mang thai được an toàn, sinh con
khỏe mạnh.
Chăm sóc bà mẹ khi có thai có tầm quan trọng to lớn, vì nếu khám thai đầy
đủ sẽ giảm được tử vong và bệnh tật cho cả mẹ lẫn con [11].
Chǎm sóc chu đáo trong thời kỳ mang thai là đǎng ký quản lý thai và theo dõi
thai từ khi mang thai cho đến khi chuyển dạ và phải khám thai ít nhất là 3 lần để xác
định những nguy cơ, biến chứng của thai nghén; Giáo dục vệ sinh và hiểu biết về
thai nghén [11].
3
Diễn biến sức khỏe của người phụ nữ trong giai đoạn mang thai có ảnh
hưởng sâu sắc đến sự phát triển của thai nhi, của em bé trong giai đoạn sơ
sinh. Ví dụ: tình trạng thiếu máu nặng ở mẹ sẽ dẫn đến trẻ có thể bị ngạt, bị
chết lưu hoặc nhẹ cân; hay điều kiện thiếu vệ sinh khi đẻ rất có thể dẫn đến
việc trẻ sơ sinh bị uốn ván, bị nhiễm khuẩn v.v
1.1.2. Một số nội dung trong chăm sóc trước sinh:

Nội dung chǎm sóc trước sinh bao gồm: giáo dục, điều trị những tình trạng
bệnh lý hoặc biến chứng xảy ra trong thời kỳ có thai, sàng lọc những nguy cơ,
hướng dẫn và xác định nơi thai phụ sinh để đảm bảo an toàn. Giải thích những biến
chứng có thể xảy ra và sẽ thường xảy ra khi nào và nếu xảy ra thỡ nờn đến khám và
xử trí ở đâu để đảm bảo độ an toàn, sinh phải được thực hiện một cách toàn diện và
có hệ thống [11].
Chăm sóc trước sinh còn bao gồm chế độ ăn, chế độ làm việc, khám thai, tiêm
phòng uốn ván và uống viên sắt/folic.
1.1.2.1. Sơ đồ chăm sóc trước sinh [4]
4
1.1.2.2. Tiêm phòng uốn ván
Bệnh uốn ván là một trong năm tai biến sản khoa thường gặp, đây là
một bệnh nặng, tỷ lệ tử vong cao cho mẹ và trẻ sơ sinh [4]. Để dự phòng tai
biến này, khi có thai các thai phụ cần đi khám thai sớm và khám thai định kỳ
đủ 3 lần, qua khám thai cán bộ y tế sẽ giúp thai phụ tiêm phòng uốn ván, đồng
thời kiểm tra xem việc tiêm phòng uốn ván có được thực hiện đầy đủ không.
1.1.2.3. Khám thai
Thai nghén là giai đoạn nhiều nguy cơ tiềm ẩn, có thể dẫn dến những
vấn đề sức khoẻ trầm trọng như bệnh tật và tử vong mà bất cứ một phụ nữ nào
cũng có thể mắc phải trong thời kỳ mang thai. Để hạn chế những vấn đề sức
khỏe đó, khám thai là một biện pháp hết sức quan trọng. Ở Việt Nam, theo
qui định của Bộ Y tế, trong một kỳ thai nghén người phụ nữ cần được khám
thai định kỳ ít nhất 3 lần [4],[11].
Người mẹ đi khám thai sớm và đầy đủ cho đến khi sinh là yếu tố quan
trọng để tránh rủi ro cho bà mẹ và thai nhi. Khám thai mỗi tháng 1 lần cho
đến khi được 28 tuần tuổi, sau đó cứ hai tuần một lần cho đến khi được 36
tuần, và sau đó nờn khỏm hàng tuần cho đến tuần thứ 40. Chất lượng bảo vệ
thai tăng lên theo số lần khám thai [4].
Bảng 1.1. Số lần khám thai và chất lượng bảo vệ thai [2]
Số lần Quí 1 Quí 2 Quí 3

Nhận xét
Khám
thai
T 2 T 3 T 4 T 5 T 6 T 7 T 8 T 9
0 lần Thai hoàn toàn
không được bảo vệ
1 lần x Tác dụng bảo vệ rất
kém
2 lần x x Tác dụng bảo vệ
kém
3 lần x x x Chỉ thích hợp với
thai thường
5 lần x x x x x Chất lượng bảo vệ
thai tăng dần theo số
lần khám thai
10 lần x x x x x x xx
xx
12- 13
lần
xx x x x xx xx xx
xx
5
1.1.2.4.Tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ
• Giải thích lợi ích của bú mẹ.
• Hỏi kinh nghiệm nuôi con của bà mẹ.
• Giải thích tầm quan trọng của việc chăm sóc vú và núm vú, xin phép
khám.
• Tạo niềm tin là tất cả bà mẹ đều có thể nuôi con bằng sữa mẹ.
1.1.3. Tình hình chăm sóc trước sinh trên thế giới:
Tỷ lệ phụ nữ có thai khám thai ít nhất 1 lần trên toàn thế giới là 68%,

thấp nhất là ở Châu Phi 63%, Châu Á 65%, châu Mỹ La Tinh 73%, cao nhất
là Bắc Mỹ và Châu Âu 97%. Ở cấp độ quốc gia việc sử dụng dịch vụ này còn
thấp hơn nhiều như ở Nepal 15%. Độ bao phủ của các dịch vụ chăm sóc trước
sinh ở các nước cũng khác nhau, tại Srilanka là 97%, Mexico 91%, Pakistan
26% [24]. Một cuộc điều tra ở Ấn độ cho thấy khoảng 60% phụ nữ cảm thấy
chăm sóc thai nghén là không cần thiết [34]. Ndyomugyenyi và cộng sự
(1998) thấy rằng rất nhiều phụ nữ trong nghiên cứu của họ tại vùng nông
thôn Uganda không biết rằng chăm sóc thai nghén là để theo dõi sự
phát triển của thai nhi và tình trạng sức khoẻ của bà mẹ.
Theo WHO, có khoảng 550.000 trẻ sơ sinh chết vì uốn ván rốn mỗi
năm, trong đó có 220.000 trường hợp ở khu vực Đông Nam Á, chiếm 37%
uốn ván rốn trên thế giới .Theo Caro Bellamy, giám đốc điều hành UNICEF,
một trong những nguyên nhân làm cho phụ nữ mang thai ít nhận được các
dịch vụ chăm sóc trước sinh là do những ưu điểm của nó chưa được nhấn
mạnh và chịu ảnh hưởng của trình độ văn hoá cũng như điều kiện kinh tế của
bà mẹ [30].
6
1.1.4. Tình hình chăm sóc trước sinh ở Việt Nam:
1.1.4.1. Khám thai.
Bên cạnh với việc đi khám thai sớm, khám thai định kỳ đủ 3 lần là hết
sức cần thiết.
Theo báo cáo tổng kết của Vụ Sức khỏe sinh sản năm 2003 có 83,79%
thai phụ khám thai từ 3 lần trở lên, trong đó cao nhất là vùng đồng bằng Sông
Hồng (96,28%), thấp nhất là vùng Tây Bắc (74,57%) [9].
Một số nghiên cứu trong các năm gần đây cho thấy các bà mẹ đi khám
thai từ 3 lần trở lên như sau: Tại Hương Long - Huế 60,6% (2002) [15], tại
Chí Linh - Hải Dương 70,2% (2002) [29], tại Hà Tây 71,3% [14], tại Tiên Du
- Bắc Ninh 70,7% (2003) [21].
Báo cáo điều tra ban đầu về thực trạng cung cấp và sử dụng dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ sinh sản năm 2003 tại Bình Định của Quỹ dân số Liên

Hiệp quốc thì 2,9% phụ nữ không khám thai lần nào trước khi sinh; 21,4%
khám thai chưa đủ 3 lần;
Theo nghiên cứu của Hà Anh Thạch tại Bình Định năm 2004 có
96,47% phụ nữ có thai được khám thai; 74,87% số phụ nữ có thai được cán
bộ trạm y tế khám thai; tỷ lệ bà mẹ nuôi con nhỏ dưới 2 tuổi đi khám thai là
97,67%; tỷ lệ khám thai đủ 3 lần là 81,83%; tỷ lệ khám thai tại trạm y tế là
74% [19].
1.1.4.2. Tiêm phòng uốn ván:
Uốn ván sơ sinh là một trong 5 tai biến sản khoa mà chúng ta có thể
phòng chống được nếu trong thời gian mang thai người phụ nữ được tiêm đủ
2 mũi uốn ván (nếu người phụ nữ đã được tiêm phòng uốn ván trong lần
mang thai trước, thì lần mang thai này chỉ cần tiêm một mũi). Đây là một cấu
thành quan trọng của việc chăm sóc thai sản. Dưới đây là số liệu về tình hình
tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ có thai qua 2 lần điều tra nhân khẩu học.
7
Bảng 1.2. Tình hình tiêm phòng uốn ván [18],[19].
Tiêm phòng uốn ván
Nội dung điều tra
Không tiêm Tiêm 1 mũi Tiêm 2 mũi
Kết quả điều tra nhân khẩu học
năm 1997 (n = 1818)
28,3% 16,8% 54,6%
Kết quả điều tra nhân khẩu học
năm 2002 (n = 1321)
14,9% 14,37% 70,5%
Theo báo cáo tổng kết của Vụ Sức khỏe sính sản năm 2003 có 88,45%
thai phụ tiêm phong uốn ván đủ 2 mũi [8]. Một số nghiên cứu trong những
năm gần đây tại các địa phương cho kết quả như sau: Tại Hương Long - Huế
83,3% (2002) [12], tại Chí Linh - Hải Dương 85,4% (2002) [23], tại Tiên Du -
Bắc Ninh 90,5% (2003) [20].

1.2. Chăm sóc bà mẹ trong khi sinh:
Chuyển dạ là một quá trình quan trọng nhất, dễ xảy ra tai biến nhất cho
cả mẹ và đứa trẻ vì vậy cần phải chuẩn bị tâm lý tốt cho sản phụ và được
người có chuyên môn giúp đỡ trong qỳa trỡnh này.
1.2.1. Tư vấn cho sản phụ:
Nguyên tắc chung về tư vấn trong chuyển dạ là động viên để sản
phụ bớt lo âu, lắng nghe những điều khiến bản thân gia đình và sản
phụ lo lắng, thông cảm và tôn trọng những truyền thống văn hoá và tôn
giáo của sản phụ. Nói cho sản phụ và gia đình họ biết những điều có thể xảy
ra và làm cho sản phụ hiểu về tình trạng của sản phụ và cách xử trí để làm
giảm sự lo âu và giúp họ chuẩn bị trước cho những tình huống có thể xảy
ra. Thông báo cho sản phụ và gia đình về những tai biến thường gặp khi
chuyển dạ.
8
1.2.2. Các nguyên tắc theo dừi khi chuyển dạ thường:
Tốt nhất bà mẹ phải được theo dõi chuyển dạ tại cơ sở y tế. Người nữ
hộ sinh phải giải thích những lợi ích của việc đẻ tại cơ sở y tế để được
chăm sóc chu đáo. Trong trường hợp không thể đến được cơ sở y tế, nên mời
cán bộ y tế cú chuyờn môn đỡ.
Phải theo dừi chuyển dạ bằng biểu đồ chuyển dạ một cách toàn diện,
có hệ thống, phải thành thạo các thao tác chuyên môn, phải biết ghi và phân
tích được một biểu đồ chuyển dạ để phát hiện các yếu tố bất thường trong
theo dõi chuyển dạ, kịp thời gửi đi bệnh viện tuyến trên để đảm bảo sự an
toàn cho mẹ và con.
Nếu sản phụ được quyết định đẻ tại cơ sở y tế, người nữ hộ sinh cần
chuẩn bị những dụng cụ tối thiểu, cần thiết và đảm bảo vô khuẩn cùng với
những dụng cụ để chăm sóc sơ sinh ngay sau đẻ. Nếu sản phụ đẻ tại nhà phải
sử dụng gói đẻ sạch.
Khi đỡ đẻ, đỡ rau, kiểm tra rau, làm rốn sơ sinh phải thao tác đúng
qui trình. Một số trường hợp phải bóc rau nhân tạo, kiểm soát tử cung, khâu

tầng sinh môn cũng phải thao tác đúng qui trình và đảm bảo vô khuẩn mới hy
vọng góp phần hạ bớt tỷ lệ 5 tai biến sản khoa.
Tận tình, kiên nhẫn và tỷ mỷ là những đức tính cần thiết của người
chăm sóc chuyển dạ. Trong quá trình theo dõi chuyển dạ cán bộ y tế cần động
viên, hỗ trợ về tinh thần để giúp cho sản phụ giảm bớt sự lo âu.
1.2.3.Theo dõi - chăm sóc bà mẹ trong 2 giờ đầu sau đẻ
• Sản phụ vẫn nằm ở phòng đẻ.
• Theo dõi mẹ: theo dõi thể trạng, mạch, huyết áp, co hồi tử cung, ra
máu tại các thời điểm 15 phút, 30 phút, 45 phút, 60 phút, 90 phút và
120 phút.
9
1.2.4.Tư vấn nuôi con bằng sữa mẹ ngay sau đẻ
1.2.4.1.Tư vấn về con nằm chung với mẹ
• Mẹ sẽ chăm sóc con kịp thời hơn.
• Trẻ ớt khúc hơn.
• Thời gian bú mẹ sẽ được lâu hơn.
1.2.4.2.Tư vấn về bú sớm
• Lợi ích của sữa non.
• Không vắt bỏ sữa non, cần cho bú cả sữa non.
• Sữa về sớm hơn.
• Trẻ tăng cân tốt hơn.
• Ít bị cương vú tắc sữa.
1.2.4.3.Cách cho con bú
• Cho con bú ngay sau đẻ, càng sớm càng tốt, muộn nhất không quá 30
phút đầu sau đẻ.
• Cho trẻ nằm thoải mải trên ngực người mẹ, da áp da.
• Cho trẻ bắt vú (dấu hiệu trẻ sẵn sàng là mở miệng, quay về phía vú,
nhìn quanh).
1.2.4.4.Tư thế bỳ đỳng
• Giữ cho đầu và thõn bộ thẳng.

• Mặt bé hướng về phía vú, mũi ứng với núm vú.
• Áp thõn bộ vào thân người mẹ.
• Nâng toàn bộ thõn bộ, không chỉ nâng cổ và vai.
• Bà mẹ cho núm vú chạm vào mụi bộ.
10
• Ðợi khi miệng bé mở rộng chuyển nhanh núm vú vào miệng bộ, giỳp
bộ ngậm sâu tới tận quầng vú.
• Mỳt vú có hiệu quả là mút chậm, sõu, cú nghỉ.
• Hỗ trợ tại nhà nếu cần thiết.
• Hướng dẫn các tư thế cho trẻ bú: ngồi, nằm nghiêng.
1.2.5. Tình hình chăm sóc trong sinh trên Thế giới
Trên thế giới, hầu hết các ca chết mẹ đều chủ yếu do 5 nguyên nhân
chính: băng huyết, nhiễm trùng, tai biến do phá thai không an toàn, sản giật
và vỡ tử cung. Rất nhiều những bà mẹ dù đã qua được “cơn vượt cạn” lại phải
chịu các tai biến sau sinh.
1.2.6. Tình hình chăm sóc trong sinh tại Việt Nam
Đảm bảo cho cuộc đẻ an toàn có liên quan trực tiếp nhất đến vấn đề tử
vong mẹ. Ở Việt Nam có hai lựa chọn của người phụ nữ khi sinh: sinh ngoài
cơ sở y tế (sinh tại nhà và sinh ở nhà các bà mụ vườn) và sinh tại cơ sở y tế
(y tế tư nhân, trạm y tế xã và các cơ sở y tế tuyến cao hơn).
Sinh con tại cơ sở y tế đang trở nên là một lựa chọn phổ biến, đặc biệt
ở những nơi đô thị và có điều kiện kinh tế. Sinh con tại nhà cũng còn gặp
hầu hết các cộng đồng với mức độ phổ biến khác nhau, từ những cuộc đẻ
không có sự trợ giúp nào cho tới những cuộc đẻ được trợ giúp bởi những
người được đào tạo. Thực hành của những người trợ giúp các cuộc đẻ tại
nhà còn gây nhiều nguy cơ và hầu như không bao gồm chăm sóc trẻ sơ sinh
và theo dõi sau sinh.
Nghiên cứu thực trạng tình hình dịch vụ làm mẹ an toàn ở Việt Nam
tháng 7/2003 cho thấy, tỷ lệ sử dụng dịch vụ y tế cho cuộc đẻ khác nhau ở
các tỉnh khác nhau, trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất vẫn là trạm y tế xã và bệnh

11
viện huyện.
Theo cuộc điều tra về thực trạng tình hình dịch vụ làm mẹ an toàn ở
Việt Nam tháng 7/2003, người đỡ đẻ cho các sản phụ cũng khác nhau ở các
tỉnh khác nhau. Tỷ lệ sản phụ được người cú chuyờn môn đỡ đẻ cao nhất ở
những tỉnh đồng bằng (Hà Tõy, Kiờn Giang) và thấp nhất ở những tỉnh miến
núi (Đắc Lắc) và còn một tỷ lệ khá lớn các bà mẹ sinh con với sự giúp đỡ của
các bà mụ vườn (14,3% ở Đắc Lắc và 13,3% ở Cao Bằng).
Điều tra y tế Quốc gia 2001 - 2002 do Bộ Y tế phối hợp với Tổng cục
Thống kê thì tỷ lệ phụ nữ đẻ tại trạm y tế xã là 29,8% (thành thị 9,7%, nông thôn
35,1%), đẻ tại nhà là 22,5% (thành thị 5,5%, nông thôn 26,9%); Tỷ lệ phụ nữ
được cán bộ y tế trợ giúp khi đẻ là 82,4% (thành thị 96,6%, nông thôn 78,7%).
Báo cáo tổng kết công tác chăm sóc SKSS năm 2005 và phương hướng
năm 2006 của Bộ Y tế tỷ lệ phụ nữ toàn quốc đẻ có cán bộ y tế đỡ là 94,7%
(2004) và 93,26% (2005).
Báo cáo đánh giá cuối kỳ về thực trạng cung cấp và sử dụng dịch vụ
CSSKSS tại 11 tỉnh tham gia Chu kỳ Quốc gia 6 UNFPA Việt Nam năm 2005
thì tỷ lệ ca đẻ tại cơ sở y tế Nhà nước là 81,7% (2003) và 88,2%(2005); Tỷ lệ
ca đẻ được nhân viên y tế đỡ là 89,3% (2003) và 93,2% (2005).
Tại Binh Định tỷ lệ phụ nữ đẻ tại trạm y tế là 15,33%; tỷ lệ bà mẹ nuôi
con nhỏ dưới 2 tuổi đẻ tại các cơ sở y tế là 93,25%; tỷ lệ bà mẹ nuôi con nhỏ
dưới 2 tuổi đẻ tại trạm y tế xã là 15,58%; Còn 6,75% bà mẹ đẻ tại nhà; Tỷ lệ
bà mẹ đẻ được NVYT đỡ là 95,58%.
Báo cáo rà soát các nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam giai
đoạn 2000-2005 của Quỹ dân số Liên Hiệp quốc thì hầu hết các phụ nữ tử
vong ở trong giai đoạn sau sinh hơn 4/5 (80-83%) là chết ngay trong ngày đầu
tiên sau đẻ. Số còn lại chủ yếu chết trong tuần lễ đầu tiên [6], [8]. Các nghiên
12
cứu đều thống nhất rằng khoảng 80% phụ nữ Việt Nam sinh tại các cơ sở y tế
hay tại nhà với người đỡ được đào tạo [9], [13], [17], [18]. Tỷ lệ sinh tại nhà

dao động từ khoảng 2% -16,7% ở các khu vực đồng bằng [13], [21] và 50 -
58% tại các khu vực miền sâu, xa và miền núi [9], [14], [17]. Ở một số vùng
nông thôn, phần lớn các ca đẻ diễn ra ở nhà với sự giúp đỡ của nữ hộ sinh
hoặc bà đỡ dân gian [7]. Trong các phụ nữ đẻ tại nhà thì 35,4% số người được
nhận gói đẻ sạch, song họ chỉ được sử dụng một số dụng cụ trong gói đẻ sạch
này [17].
Một nghiên cứu về sinh tại nhà ở tỉnh Ninh Bình chỉ ra tỷ lệ băng huyết là
3,3%, 30,6% trẻ được cắt rốn với dụng cụ không hợp vệ sinh và 41,7% trường
hợp không đạt tiêu chuẩn vệ sinh khác [13]. Các tai biến được báo cáo còn cao
hơn nhiều trong số các phụ nữ dân tộc ở cỏc vựng miền núi vì điều kiện thiếu vệ
sinh, thiếu người đỡ được đào tạo và các phong tục lạc hậu [10], [13].
Rất ít các nghiên cứu tìm hiểu về kiến thức của phụ nữ trong khi sinh
nở. Mặc dù thai phụ mong muốn được đến một cơ sở y tế khi sinh, nhưng
nhiều trong số họ đã không thể đến.
1.3. Chăm sóc sau khi sinh:
1.3.1. Khái niệm:
Chăm sóc sau sinh là những chăm sóc cho bà mẹ bao gồm chăm sóc
giai đoạn sau sinh, kế hoạch hóa gia đình, phòng chống nhiễm trùng, vệ sinh,
dinh dưỡng và cho con bú. Về mặt lý thuyết, phụ nữ sau sinh cần phải được
thăm khám 2 lần: một lần trong ngày đầu tiên và một lần trong vòng 42 ngày
sau sinh.
1.3.2. Theo dõi - chăm sóc bà mẹ từ giờ thứ ba đến hết ngày đầu
• Sau khi theo dõi tích cực 2 giờ đầu, nếu bình thường tiếp tục theo dõi
từ giờ thứ 3 đến giờ thứ 6 theo hướng dẫn sau:
13
• Ðưa bà mẹ và bé về phòng, theo dõi 1 giờ một lần.
• Ðặt bé nằm cạnh mẹ.
• Ủ ấm cho bé.
• Người mẹ có băng vệ sinh sạch, đủ thấm.
• Giúp người mẹ ăn uống, ngủ yên.

• Vận động nhẹ sau 6 giờ.
• Giúp và khuyến khích cho con bú sớm.
• Hướng dẫn người mẹ cách chăm sóc con, theo dõi chảy máu rốn.
• Yêu cầu bà mẹ và người nhà gọi ngay nhân viên y tế khi bộ khụng bỳ,
khụng thở, tím tái, chảy máu rốn.
• Yêu cầu gọi ngay nhân viên y tế khi sản phụ chảy máu nhiều, đau
bụng tăng, nhức đầu chóng mặt hoặc có bất cứ vấn đề gỡ khỏc.
• Theo dõi từ giờ thứ 7
• Theo dõi mẹ: thể trạng, co hồi tử cung (rắn-trũn), băng vệ sinh (kiểm
tra lượng máu mất).
• Theo dõi con: thở (nếu khó thở, đếm nhịp thở), da (nếu lạnh, đo thân
nhiệt, rốn (có chảy máu không), bú mẹ (đã bú mẹ chưa).
1.3.3. Chế độ ăn uống và sử dụng thuốc
• Uống nhiều nước.
• Ăn đủ chất và tăng bữa.
• Giải thích về những thức ăn và những yếu tố có ảnh hưởng đến số
lượng và chất lượng sữa (kể cả các thuốc)
14
• Sử dụng bất kỳ thuốc gì phải có ý kiến của thầy thuốc.
1.3.4.Cho con bú trong những ngày đầu
• Giải thích những thay đổi về vú trong những ngày đầu.
• Không hạn chế số lần bú.
• Bú theo nhu cầu.
• Bú hết sữa một bên vú mới chuyển sang bên kia.
• Không dứt vú khi bé chưa muốn thụi bỳ.
• Giải thích cho bà mẹ hiểu tại sao không cho uống thêm nước hoặc
thức ăn khác.
• Không dùng núm vú giả.
• Nếu đầu vú cương đau hoặc trẻ khó bắt vú giai đoạn đầu thì phải giải
thích, động viên mẹ cho bú.

1.3.5. Theo dõi - chăm sóc bà mẹ tuần thứ 6 sau đẻ
Hỏi Khám Phát hiện Xử trí
Tình hình chung.
Nghỉ, ngủ.
Ăn uống.
Sốt.
Ðại tiểu tiện.
Ðau bụng dưới.
Dịch âm đạo.
Sữa (có đủ cho con
bú).
Ðã uống
+ Viên sắt
+ Vitamin A
Có kinh lại chưa ?
Mạch.
Thân nhiệt .
Huyết áp.
Cân năng.
Kiểm tra vú (các
vấn đề về cho bú).
Bụng (tử cung đã
co hồi hoàn toàn?)
Tầng sinh môn.
Dịch âm đạo.
Ðặt mỏ vịt kiểm tra
(nếu nghi có viêm
sinh dục).
Có thiếu máu
Có nhiễm khuẩn

Có bệnh lý khác

Nếu bình
thường

Ðiều trị thiếu
máu
Ðiều trị nhiễm
khuẩn
Chuyển tuyến.

Thảo luận và
hướng dẫn thực
hiện một biện
pháp KHHGÐ.
Ghi phiếu theo
dõi.
15
Ðã giao hợp lại
chưa?
Các nhu cầu về
KHHGÐ.
1.3.6. Tình hình chăm sóc sau sinh trên Thế giới:
Ở nhiều nơi trên thế giới, nhiều phụ nữ thích sinh con ở nhà với sự giúp
đỡ của các bà mụ vườn hoặc người thõn. Một trong những nguyên nhân đó là yếu
tố văn hoá. Bên cạnh đó, còn có một vài lý do khác như môi trường chăm sóc y
tế không thân thiện hoặc sự thiếu cảm thông của nhân viên y tế. Ở một vài nơi
khác sự có mặt của các nam nhân viên y tế là điều không thể chấp nhận được đối
với nền văn hoá của một số dân tộc (Sundari,1992) [34].
1.3.7. Tình hình chăm sóc sau sinh tại Việt Nam:

Báo cáo rà soát các nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam giai đoạn
2000-2005 của Quỹ dân số liên hiệp quốc thì khoảng 3/4 phụ nữ biết về thời điểm
chính xác cho bú sữa/cai sữa [26], [35]. Nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số (54%) không
biết cách sử dụng sữa non cho con bú [35]. Trong giai đoạn sau sinh, phụ nữ không
biết thời điểm chính xác để có quan hệ tình dục trở lại, chế độ dinh dưỡng cần thiết
và các BPTT phù hợp [31]. Tỷ lệ phụ nữ khám sau sinh thấp hơn nhiều nếu so sánh
với tỷ lệ khám thai, dao động từ 1/4 (23,8%) cho đến 2/3 (70%) phụ thuộc từng
tỉnh. Chất lượng của chăm sóc sau sinh cũng không đáp ứng nhu cầu của bà mẹ. Chỉ
1/3 (31,0%) được khuyến khích nhận các thăm khám thường xuyên trong vòng 42
ngày sau đẻ [39]. Tỷ lệ cho con bú sữa mẹ cũng khác nhau giữa các nghiên cứu. Nói
chung, tỷ lệ này vào khoảng từ một nửa đến 2/3 ở cỏc vựng sõu, xa và miền núi [27]
,[35], [37]. Tuy thế, nhiều các bà mẹ dân tộc thiểu số không sử dụng sữa non cho
con bú và khoảng một nửa số trẻ được nuôi bằng các nguồn thực phẩm khác (như
gạo) trong tháng đầu sau đẻ [35]. Trái ngược với tình trạng này, tỷ lệ cho con bú
trong phụ nữ dân tộc Kinh cao hơn đạt tới 2/3 số các bà mẹ [32], [37].
16
Theo Báo cáo tổng kết công tác chăm sóc SKSS năm 2005 và phương
hướng năm 2006 của Bộ Y tế, tỷ lệ bà mẹ được chăm sóc sau sinh chung cả
nước là 86% (2003) và 86,2% (2005) và khu vực Nam Trung bộ là 90%
(2003) và 92,63% (2005).
Theo báo cáo của Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Bình
Định tỷ lệ sản phụ được chăm sóc sau khi sinh ít nhất 1 lần là 97,5% (2003)
và 97,92% (2005).
Tuy nhiên theo Báo cáo điều tra ban đầu về thực trạng cung cấp và sử
dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản năm 2003 tại Bình Định của Quỹ
dân số Liên Hiệp quốc thì có 27,1% các bà mẹ sinh con tại nhà, chỉ có 86,7%
bà mẹ được nhân viên y tế đỡ đẻ, 24,3% sử dụng các BPTT truyền thống
(tớnh vũng kinh, xuất tinh ngoài âm đạo), 19,5% không áp dụng BPTT nào
Theo nghiên cứu của Hà Anh Thạch tỷ lệ bà mẹ nuôi con nhỏ dưới 2
tuổi được cán bộ trạm y tế thăm khám tại nhà sau khi sinh là 75,33%.

1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ chăm sóc trước,
trong và sau sinh:
Tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ là dịch vụ chăm sóc đảm
bảo nhu cầu cho những người cần thiết: họ có thể dễ dàng và không có sự
cản trở nào trong việc sử dụng dịch vụ như là sự sẵn có của dịch vụ, hoặc là
vì quá nghèo khó hoặc chất lượng chăm sóc của cán bộ y tế không đảm bảo?
(World Health Day 1998)
Kinh nghiệm triển khai các chương trình dịch vụ y tế cho thấy, thiếu
tiếp cận với các dịch vụ y tế nói chung sẽ làm gánh nặng bệnh tật tăng lên
và trong một số trường hợp thậm chí còn dẫn đến tử vong.
Theo mô hình sử dụng dịch vụ y tế của Anderson 1968 và được
Friedler sửa đổi năm 1981. Có 3 nhóm yếu tố:
17
• Các yếu tố về đặc trưng cá nhân và các yếu tố về lịch sử sinh sản.
• Các yếu tố khả năng kinh tế, khả năng tiếp cận.
• Các yếu tố về dịch vụ y tế.
18
1.4.1 .Ảnh hưởng nhóm yếu tố về đặc trưng cá nhân và yếu tố về lịch sử sinh sản
Thực tế cho thấy phụ nữ tuổi càng cao thì càng ít tiếp cận với dịch vụ y
tế; những người dân tộc thiểu số thì khả năng tiếp cận kém hơn so với người
kinh; những phụ nữ sinh nhiều con, đẻ dày, nạo hút thai nhiều lần . . . thì càng
ít có cơ hội tiếp cận và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản.
1.4.2.Tiếp cận về địa lý:
Tiếp cận địa lý không chỉ bao gồm khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế
mà còn là chất lượng của đường xá, sự sẵn có của các loại phương tiện
giao thông. Sự khan hiếm của các phương tiện đi lại, đặc biệt ở những vùng
sâu vùng xa và điều kiện đường xá không đảm bảo đã ảnh hưởng đến việc
tiếp cận cơ sở y tế của phụ nữ. Ở nhiều nơi khó khăn, phụ nữ đi bộ đến cơ sở
y tế là việc thường gặp. Nhìn chung, khoảng cách đến cơ sở y tế thường
được đo lường bằng thời gian đến cơ sở y tế bởi các phương tiện thông

thường. Theo Campell và cộng sự, các yếu tố ảnh hưởng đến việc tìm kiếm
dịch vụ chăm sóc trước sinh là địa điểm của cơ sở y tế và sự sẵn có của
phương tiện đi lại. Nếu thời gian đến cơ sở y tế trên 30 phút bằng các
phương tiện thông thường tại địa phương thì nhìn chung các bà mẹ sẽ
không đến cơ sở y tế mặc dù họ ốm nặmg. Điều này được giải thích bởi vấn
đề tài chính và chi phí cơ hội quá cao. Thêm vào đó người phụ nữ phải bỏ
thời gian để đi một quãng đường quá dài mà có thể cán bộ y tế lại không có
mặt tại cơ sở y tế.
1.4.3.Tiếp cận về kinh tế:
Đo lường bằng khả năng chi trả các loại chi phí trực tiếp (bằng tiền
túi của mình) để được chăm sóc y tế (gồm các loại chi phí chính thức và
không chính thức, phí vận chuyển, ăn ở, chi phí cho người chăm nuôi ).
Nghiên cứu ở Code D’Voire và Peru cho thấy chi phí là một yếu tố cản trở
hầu hết phụ nữ ở đây sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và những
19
những người nghèo hơn thì thường tìm đến những cơ sở kém chất lượng
hơn. Điều đó cũng có nghĩa là những người có thu nhập cao thì đến những
cơ sở y tế có chất lượng chăm sóc tốt cho dù khoảng cỏch cú xa hơn [40].
Những người phụ nữ nghèo thường ở nhà và tự điều trị bằng những
thuốc cổ truyền hoặc đến các bác sĩ tư gần nhà. Ở nhiều vùng của châu Phi,
điều kiện kinh tế là yếu tố ảnh hưởng quan trọng tới việc tiếp cận dịch vụ y
tế [40].
Bên cạnh đó, mùa màng và vụ thu hoạch cũng phần nào ảnh hưởng
tới việc sử dụng dịch vụ y tế. Ở Công gô, 13 bà mẹ chết trên tổng số 20
người thường xảy ra vào vụ mùa thu hoạch, đó là thời gian mà phụ nữ phải
làm việc vất vả trờn đồng ruộng không có thời gian đến cơ sở y tế
(Navvaro, 1998) [40].
1.4.4.Tiếp cận về văn hoá:
Đo lường bằng sự phù hợp về văn hoá, phong tục tập quán và khả
năng giao tiếp với các nhóm thiểu số không nói được ngôn ngữ phổ thông.

Niềm tin văn hoá, cấu trúc xã hôi và đặc tính của mỗi cá nhân cũng rất quan
trọng. Nhiều phụ nữ cho rằng không cần thiết phải đi khám thai. Một cuộc
điều tra ở Ấn độ cho thấy khoảng 60% phụ nữ cảm thấy chăm sóc thai
nghén là không cần thiết. Ở một số nơi, mang thai được xem như vấn đề sức
khoẻ bình thường không cần phải chăm sóc y tế, hoặc sự chăm sóc chỉ cần
thiết khi người phụ nữ mang thai cảm thấy có vấn đề. Ndyomugyenyi và
cộng sự (1998) thấy rằng rất nhiều phụ nữ trong nghiên cứu của họ tại vùng
nông thôn Uganda không biết rằng chăm sóc thai nghén là để theo dõi
sự phát triển của thai nhi và tình trạng sức khoẻ của bà mẹ. Sự thiếu hiểu
biết của phụ nữ về thai sản là một vấn đề chính. Sự mang thai ngoài ý muốn
cũng là lý do làm cho các bà mẹ không đi khám thai. 60% số người không
nhận được chăm sóc thai nghén là mang thai ngoài ý muốn [34].
20
Yếu tố bình đẳng về giới cũng là một vấn đề quan trọng ở nhiều
vùng trên thế giới. Việc quyết định sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho
bà mẹ nhiều khi được quyết định bởi mẹ chồng, chồng hoặc các thành viên
khác trong gia đình, còn tiếng nói của bản thân người phụ nữ lại rất ít trọng
lượng. Ở nhiều nơi trên thế giới, nhiều phụ nữ thích sinh con ở nhà với sự
giúp đỡ của các bà mụ vườn hoặc người thõn. Một trong những nguyên nhân
đó là yếu tố văn hoá. Bên cạnh đó, còn có một vài lý do khác như môi
trường chăm sóc y tế không thân thiện hoặc sự thiếu cảm thông của nhân
viên y tế. Ở một vài nơi khác sự có mặt của các nam nhân viên y tế là điều
không thể chấp nhận được đối với nền văn hoá của một số dân tộc
(Sundari,1992) [34].
Báo cáo rà soát các nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam
giai đoạn 2000-2005 của Quỹ dân số Liên Hiệp quốc thì:
Một số yếu tố kinh tế - xã hội được kể đến như học vấn thấp, tuổi trẻ,
tín ngưỡng (thiên chúa giáo), dân tộc thiểu số, và thu nhập thấp của bà mẹ có
tác động rõ rệt đến các thực hành sau sinh [29], [31], [33], [35].
Các yếu tố khác được coi là cản trở cho phụ nữ có thể tiếp cận chăm

sóc trước sinh và chăm sóc sau sinh như hiểu biết kém, khoảng cách sinh, xấu
hổ khi tiếp cận dịch vụ và yếu tố về di cư [36].
Chất lượng dịch vụ thấp cũng là rào cản đối với tiếp cận của thai phụ
[29], [38].
Trong giai đoạn sau khi sinh, phụ nữ có chăm sóc trước sinh tốt sẽ có
thực hành tốt hơn khi sinh, và phụ nữ có chăm sóc trước sinh và khi sinh tốt có
hành vi chăm sóc sau sinh tốt hơn [35]. Với các tập quán chăm sóc sau sinh
truyền thống, các thực hành này được tạo ra do văn hóa và các yếu tố xã hội.
Niềm tin tại địa phương, tập quán, phụ nữ có quan hệ thân thuộc có ảnh hưởng
21
quyết định việc các bà mẹ tuân thủ những hành vi này [28], [29], [32], [36],
[38].
Các yếu tố ảnh hưởng bao gồm cả việc thiếu nhân lực, do khoảng cách
xa, đường xỏ khú đi hay thiếu các phương tiện vận chuyển (đặc biệt ở vùng
sâu và xa), và thói quen, phong tục của người dân địa phương trong việc
chăm sóc bà mẹ tại nhà. Thêm vào đó, văn hóa, truyền thống, gia đình và các
yếu tố kinh tế cũng là yếu tố thuận lợi cản trở sự tiếp cận của phụ nữ đến dịch
vụ chăm sóc SKSS [8], [15].
Quyết định về địa điểm sinh bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau như
truyền thống đẻ tại nhà, đường đến các cơ sở y tế xa, thiếu người trông coi gia
đình khi phụ nữ sinh tại cơ sở y tế, chi phí và quan niệm về dịch vụ y tế cũn
kộm tại trạm y tế xã [16].
Sau khi sinh tại các cơ sở y tế, các bà mẹ trở về nhà và phải tuân theo
rất nhiều các phong tục truyền thống theo thiết chế gia đình và cộng đồng.
Nhiều nghiên cứu định tính và định lượng về các tập quán truyền thống chăm
sóc sau sinh đã được thực hiện. Tập quán này bao gồm rất nhiều các thực
hành như chế độ ăn, vệ sinh và các hành vi hồi sức sau sinh,… Nhiều các tập
quán này được thực hiện với niềm tin như “trỏnh giú”, ngồi hơ lửa, tránh ra
khỏi nhà, không tắm sau sinh. Thời gian cho mỗi tập quán theo mô tả có thể
từ 7 đến 100 ngày. Các thực hành sau khi sinh này là khác biệt giữa các dân

tộc [28], [29], [31], [36]. Một số thực hành được xếp là có lợi, tuy thế, rất
nhiều các tập quán khác là trung tính và/hoặc có hại [31].
Tại Bình Định các yếu tố có liên quan đến sự tiếp cận và sử dụng dịch
vụ CSSKSS tại trạm y tế của bà mẹ là khu vực, khoảng cách từ trung tâm xã
đến trung tâm y tế, bệnh viện tỉnh, trạm y tế xó đã đạt Chuẩn Quốc gia về y tế
hay chưa, dân tộc và trình độ văn hoá của bà mẹ.
22
Kết quả nghiên cứu “Đỏnh giỏ hành vi tìm kiếm và sử dụng dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ sinh sản của phụ nữ dân tộc thiểu số” của cho thấy kiến
thức, hiểu biết của phụ nữ dân tộc thiểu số Tõy Nguyờn về chăm sóc sức khoẻ
trước, trong và sau sinh còn rất hạn chế, mơ hồ thậm chí còn hiểu sai. Mô
hình hành vi tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ còn mang tính bị động. Ở
đây còn tồn tại nhiều phong tục tập quán, thói quen có ảnh hưởng xấu đến
hành vi chăm sóc sức khoẻ, coi việc sinh nở là chuyện kín đáo, cúng bái, tin
vào các bà đỡ. Bên cạnh đú thỡ khoảng cách địa lý, điều kiện kinh tế xã hội của
địa phương, năng lực kinh tế của gia đình, trình độ học vấn, ngôn ngữ cũng ảnh
hưởng rất lớn đến nhận thức, thái độ và hành vi tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ bà mẹ của phụ nữ dân tộc thiểu số. Ngoài ra, sự tham gia của cộng đồng
như chồng, người thân đối với hoạt động chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, chưa
khuyến khích được phụ nữ tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ y tế.
23
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu, địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Đối tượng: Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu:
- Các bà mẹ sinh con từ ngày 1 tháng 9 năm 2006 đến nay.
- Hiện đang sống tại tỉnh.
- Tự nguyện tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
- Những bà mẹ có con đã bị chết vì bất cứ lý do gì.

- Không tự nguyện tham gia nghiên cứu.
- Địa điểm: 30 xã được chọn ngẫu nhiên tại 11 huyện của tỉnh Bình Định
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10/2008 đến tháng 4/2009
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Đây là một nghiờn cứu mô tả (định lượng kết hợp với nghiên cứu định
tính).
2.2.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu
2.2.2.1. Nghiên cứu định lượng
- Cỡ mẫu: để đảm bảo cho kết quả nghiên cứu đại diện cho cả tỉnh nên
các bà mẹ từ cả vùng núi và vùng đồng bằng đều được chọn vào mẫu
nghiên cứu. Công thức tính cỡ mẫu :
n
1
=n
2
= Z
2
(1-
α
/2)
[p
1
(1-p
1
)/d
1
2
] + [p
2

(1-p
2
)/d
2
2
]
Trong đó:
* n
1
: cỡ mẫu cho vùng núi.
24
* n
2
: cỡ mẫu cho vùng đồng bằng.
* Z
(1-
α
/2)
: Hệ số tin cậy (Với độ tin cậy 95% thì Z = 1,96).
* p
1
: Tỷ lệ bà mẹ đẻ tại trạm y tế xã vùng núi năm 2005(= 16%) [5]
* p
2
: Tỷ lệ bà mẹ đẻ tại TYTX vùng đồng bằng năm 2005(= 80%) [5]
* d
1
: Độ chính xác mong muốn cho vùng núi (= 5%).
* d
2

: Độ chính xác mong muốn cho vùng đồng bằng (= 10%).
* DE: Hệ số chọn mẫu (1,5).
Vậy cỡ mẫu cần chọn là n
1
=n
2
= 300 bà mẹ.
Trong nghiên cứu có so sánh giữa 2 vùng sinh thái là đồng bằng và
miền núi nên cỡ mẫu được chọn là 600 bà mẹ.
2.2.2.2. Nghiên cứu định lượng
Phỏng vấn sâu 15 bà mẹ về chăm sóc trước sinh, trong sinh và sau sinh
2.2.3. Kỹ thuật chọn mẫu
2.2.3.1. Nghiên cứu định lượng: Áp dụng chọn mẫu nhiều bậc.
- Bước1: Lập danh sách 159 xã toàn tỉnh theo vùng miền núi và đồng bằng
- Bước 2: Tạo thăm (xã) theo 2 vùng miền núi và đồng bằng.
- Bước 3: Bốc thăm ngẫu nhiên chọn 15 xã từ mỗi vùng.
- Bước 4: Chon ngẫu nhiên 3 thụn / xó đó được chọn.
- Bước 5: Chọn ngẫu nhiên đơn từ 6-7 bà mẹ theo danh sách đã được lập, tùy
thuộc vào số lượng các bà mẹ trong thôn.
2.2.3.2. Nghiên cứu định tính:
Chọn 15 bà mẹ không thực hành tốt chăm sóc trước, trong, sau sinh từ
300 bà mẹ ở vùng nỳi đó tham gia vào nghiên cứu định lượng.
25

×