Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tham luận minh họa thử tích hợp các học phần Tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.67 KB, 10 trang )

THỬ TÍCH HỢP CÁC HỌC PHẦN TIẾNG VIỆT
Lê Duy Trinh
I. DẪN NHẬP
Theo cách hiểu chung, tích hợp là một trong những quan điểm giáo
dục nhằm đào tạo con người có đầy đủ phẩm chất và năng lực để giải quyết
các vấn đề phải đối mặt ở mọi tình huống. Quan điểm tích hợp bắt nguồn từ
cơ sở khoa học và đời sống. Bởi lẽ, mọi tình huống xảy ra trong khoa học
và đời sống bao giờ cũng là những tình huống tích hợp. Không thể giải
quyết bất kỳ một vấn đề nào của lí luận và thực tiễn mà lại không sử dụng
tổng hợp kiến thức, kĩ năng của nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đào tạo theo hướng tích hợp là xu hướng Dạy - Học hiện đại, mà qua
đó, người dạy sẽ giúp cho người học vận dụng kiến thức, hình thành kĩ
năng một cách toàn diện, sáng tạo và hài hòa bằng việc thường xuyên giải
quyết các tình huống khác nhau trong quá trình học tập. Với tư cách là một
trong hai phân ngành của ngành đào tạo giáo viên Ngữ văn, các học phần
Tiếng Việt không thể nằm ngoài xu hướng trên.
II. NỘI DUNG
1. Một số vấn đề hữu quan
Vấn đề giảng dạy theo định hướng tích hợp có liên quan đến khái
niệm “đổi mới”. Trong giáo dục, đổi mới (innovation) được coi là thường
xuyên đưa cái mới vào giáo dục nhằm tạo ra sự phát triển mới, nâng cao
hiệu quả giáo dục và đào tạo mà vẫn giữ được sự ổn định cần thiết; còn tích
hợp là sự lồng ghép, sự kết hợp những nội dung các môn học (hoặc các
phân môn trong một môn học) theo những cách khác nhau. Theo mối liên
quan này, “tích hợp” không phải là phủ nhận hoàn toàn cái hiện có mà là kế
thừa và phát huy cái hiện có, thậm chí cả cái đã có; đồng thời tìm kiếm
những con đường, giải pháp mới nhằm đáp ứng những nhu cầu mới của sự
1
giáo dục. Thực tiễn ở nhiều nước đã chứng tỏ rằng, việc thực hiện quan
điểm tích hợp trong giảng dạy và học tập, một mặt, sẽ giúp cho người học
phát triển được năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp; mặt khác, làm


cho việc học tập trở nên có ý nghĩa hơn so với việc các môn học được thực
hiện riêng lẻ.
Theo các nhà giáo dục, việc hình thành môn học tích hợp trong giáo
dục phải dựa vào ba cơ sở: a. Cơ sở khoa học: tính thống nhất của thế giới
tự nhiên và xã hội; b. Cơ sở tâm lý - giáo dục: dạy học theo con đường tích
hợp có khả năng tăng cường hiệu quả của quá trình học tập; c. Cơ sở xã hội
và thực tiễn: Tích hợp làm cho người học gắn hiểu biết với thực tiễn, thiết
lập quan hệ chặt chẽ giữa kiến thức và cách thức truyền đạt kiến thức, tạo
tiềm năng có tính đa dạng cho người học, v.v. Dạy học tích hợp nói chung,
dạy học tích hợp các nội dung tri thức về Việt ngữ nói riêng là định hướng
dạy học trong đó giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh biết huy động tổng
hợp kiến thức,kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các
nhiệm vụ học tập; thông qua đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới;
phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề
trong học tập và trong thực tiễn cuộc sống.
Trong một số môn học, quan điểm tích hợp được tiếp nhận và thể hiện
với các mức độ khác nhau như: Lồng ghép - là đưa thêm nội dung cần học
có quan hệ tương cận với môn học chính; tích hợp - là sự kết hợp tri thức
của nhiều môn học tạo nên môn học mới
2. Hiện trạng phân bố các học phần Tiếng Việt thuộc chương đào
tạo giáo viên Ngữ văn
Tên học phần Số tiết Ghi chú
Dẫn luận Ngôn ngữ học
30
Đại cương về tiếng Việt
- Ngữ âm tiếng Việt
30
Vốn đã được ghép
2
Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt 30

Ngữ pháp tiếng Việt 1 30
Ngữ pháp tiếng Việt 2 30
Phong cách học tiếng Việt 30
Văn bản tiếng Việt 30
Ngữ dụng học 30
Phương pháp giảng dạy Tiếng Việt
- Tập làm văn
45 Vốn đã được ghép
2.1. Xoay quanh hiện trạng trên, trước mắt, có mấy điểm cần nhấn
mạnh:
+ Học phần Dẫn luận Ngôn ngữ học cung cấp cho người học các kiến
thức cơ bản, đại cương về ngôn ngữ & ngôn ngữ học (Ngữ âm học, Từ
vựng học/ Ngữ nghĩa học, Ngữ pháp học) cùng những hiểu biết ban đầu về
phương pháp và thao tác nghiên cứu ngôn ngữ, làm cơ sở cho việc học tập,
nghiên cứu các học phần Việt ngữ và giảng dạy môn Tiếng Việt ở nhà
trường phổ thông sau này.
+ Với các học phần Đại cương về tiếng Việt - Ngữ âm tiếng Việt, Từ
vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Ngữ pháp tiếng Việt, Phong cách học tiếng
Việt, Văn bản tiếng Việt trước khi học các kiến thức cụ thể về bình diện
ngôn ngữ ( ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, văn bản, phong cách chức năng ) ở
tiếng Việt, người học được cung cấp các kiến thức cơ bản, đại cương về các
bình diện này. Ví dụ: học phần Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt gồm những
tri thức về từ vựng, ngữ nghĩa nói chung và từ vựng, ngữ nghĩa của tiếng
Việt nói riêng.
+ Học phần Phương pháp giảng dạy Tiếng Việt – Tập làm văn bao
gồm những kiến thức về lý luận dạy học, các hoạt động dạy - học, kiểm tra
đánh giá kết quả học tập ở hai phân môn trên. Trong học phần này, nội
dung phương pháp giảng dạy Tiếng Việt có các phần cụ thể là:
- Phương pháp dạy những vấn đề lý thuyết chung về ngôn ngữ và
Tiếng Việt.

3
- Phương pháp dạy học từ ngữ
- Phương pháp dạy học ngữ pháp
- Phương pháp giảng dạy phong cách học
2.2. Nhận xét sơ bộ:
- Các học phần Ngữ âm tiếng Việt, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Ngữ
pháp tiếng Việt, Phong cách học tiếng Việt, Văn bản tiếng Việt có nội dung
kiến thức đại cương về các bình diện ngôn ngữ tương ứng trùng lặp với các
nội dung vốn đã được cung cấp ở học phần Dẫn luận Ngôn ngữ học.
- Nội dung kiến thức về tiếng Việt được dạy riêng lẻ và gián cách khá
xa với nội dung về phương pháp giảng dạy tiếng Việt (có nội dung kiến
thức được dạy ở năm II nhưng nội dung về phương pháp giảng dạy kiến
thức này lại được giới thiệu ở năm thứ IV đối với hệ đại học).
- Tính độc lập tương đối của từng môn thể hiện ở mức độ cao trong
khi tính liên môn rất thấp.
3. Thử tích hợp các học phần Tiếng Việt
Vận dụng quan điểm tích hợp, chúng tôi thử đề xuất các kiểu tích hợp
sau. Ứng với từng kiểu tích hợp là từng cấp độ tích hợp.
3.1. Kiểu 1 (cấp độ 1): Tích hợp các nội dung kiến thức giữa các học
phần để không trùng lặp và để kết nối các kiến thức một cách logic, có hệ
thống nhưng không tạo nên môn học mới.
Theo kiểu này, các nội dung thuộc phần những vấn đề chung về ngôn
ngữ của học phần Dẫn luận ngôn ngữ học (gọi tắt là D) được lồng ghép với
nội dung đại cương về Tiếng Việt để hình thành học phần có thể đặt tên là
Đại cương về ngôn ngữ và tiếng Việt. Phần Ngữ âm học của (D) được lồng
ghép với học phần Ngữ âm tiếng Việt hình thành học phần Ngữ âm học và
Ngữ âm tiếng Việt. Phần Từ vựng học của (D) được lồng ghép vào học
phần Từ vựng tiếng Việt hình thành học phần Từ vựng học và Từ vựng
tiếng Việt. Phần Ngữ pháp học của (D) được lồng ghép vào học phần Ngữ
pháp tiếng Việt đồng thời kết hợp với học phần Văn bản tiếng Việt (vì văn

4
bản có quan hệ mật thiết với ngữ pháp cho nên có tài liệu gọi tên học phần
này là Ngữ pháp văn bản) hình thành học phần có thể đặt tên là Ngữ pháp
học và Ngữ pháp tiếng Việt.
3.2. Kiểu 2 (cấp độ 2): Tích hợp nội dung kiến thức giữa các học phần
và phương pháp giảng dạy kiến thức tương ứng thành môn ghép (bởi lẽ
tích hợp không chỉ chi phối nội dung giảng dạy, mà còn chi phối phương
pháp giảng dạy).
Theo kiểu này phần phương pháp dạy những vấn đề lý thuyết chung
về ngôn ngữ và Tiếng Việt của học phần Phương pháp giảng dạy tiếng Việt
(gọi tắt là P) được lồng ghép vào học phần Đại cương về tiếng Việt hình
thành học phần Đại cương về tiếng Việt và phương pháp giảng dạy những
vấn đề chung. Phần phương pháp giảng dạy từ ngữ của (P) được lồng ghép
vào học phần Từ vựng tiếng Việt hình thành học phần có thể đặt tên là Từ
vựng tiếng Việt và Phương pháp giảng dạy từ vựng . Phần phương pháp
giảng dạy ngữ pháp của (P) được lồng ghép vào học phần Ngữ pháp tiếng
Việt hình thành học phần có thể đặt tên là Ngữ pháp tiếng Việt và Phương
pháp giảng dạy ngữ pháp. Phần phương pháp giảng dạy phong cách học
được lồng ghép vào học phần Phong cách học tiếng Việt hình thành học
phần Phong cách học tiếng Việt và Phương pháp giảng dạy phong cách
học.
( Điều cần nói thêm: Đối với các học phần thuộc về văn học, việc tích
hợp nội dung kiến thức và phương pháp giảng dạy đã được Bộ thực hiện
bước đầu. Cụ thể là, khi xây dựng chương trình đào tạo giáo viên Ngữ văn
THCS, ở học phần Văn học trung đại, ngoài kiến thức văn học về giai đoạn
văn học này, chương trình còn kèm theo nội dung phương pháp giảng dạy
văn học trung đại.)
3.3. Kiểu 3 (cấp độ 3): Tích hợp các nội dung kiến thức để không
trùng lắp đồng thời tích hợp nội dung kiến thức và phương pháp giảng dạy
kiến thức tương ứng thành môn học mới.

5
Theo kiểu này tích hợp các học phần được hình thành ở cấp độ 1 và 2
vào một học phần, có thể đặt tên là:
Tiếng Việt 1: bao gồm những kiến thức đại cương về ngôn ngữ và
tiếng Việt + phương pháp giảng dạy những vấn đề chung về tiếng Việt.
Tiếng Việt 2: bao gồm những kiến thức Ngữ âm học và Ngữ âm tiếng
Việt + phương pháp giảng dạy chính tả chữ viết.
Tiếng Việt 3: bao gồm những kiến thức Từ vựng học và Từ vựng tiếng
Việt + phương pháp giảng dạy từ vựng tiếng Việt.
Tiếng Việt 4: bao gồm những kiến thức Ngữ pháp học và Ngữ pháp -
văn bản tiếng Việt + phương pháp giảng dạy ngữ pháp tiếng Việt.
Tiếng Việt 5: bao gồm những kiến thức Phong cách học + phương
pháp giảng dạy phong cách học tiếng Việt.
Đối với học phần Ngữ dụng học do việc sử dụng ngôn ngữ không
thuộc cấp độ ngôn ngữ mà thuộc bình diện dụng học nên giữ nguyên.
Ngoài ra, hoàn toàn có khả năng tiếp tục đưa các nội dung của học
phần Tiếng Việt thực hành (rèn luyện kỹ năng chính tả, rèn luyện kỹ năng
dùng từ, rèn luyện kỹ năng đặt câu, tạo lập và tiếp nhận văn bản) vào nội
dung thực hành, bài tập ở các học phần tương ứng bên trên.
Tương tự, phần nội dung về ngôn ngữ địa phương của chuyên đề Văn
hóa , văn học, ngôn ngữ địa phương cũng được lồng ghép vào các học phần
tương ứng. Cụ thể là, nội dung ngữ âm địa phương sẽ trở thành một chương
của học phần Tiếng Việt 2, còn nội dung từ ngữ địa phương sẽ trở thành
một chương của học phần Tiếng Việt 3. Hai nội dung còn lại của chuyên đề
nói trên sẽ chuyển cho các học phần Văn học Việt Nam và học phần Cơ sở
văn hóa Việt Nam đảm nhiệm.
Chúng tôi thấy, nếu tích hợp triệt để như vậy, có thể giảm đi 4 học
phần (Dẫn luận Ngôn ngữ học, Phương pháp giảng dạy Tiếng Việt, Tiếng
Việt thực hành, Văn hóa - văn học - ngôn ngữ địa phương) nhưng nội dung
kiến thức cơ bản vẫn đảm bảo đầy đủ, tính hệ thống chặt chẽ hơn và thời

6
lượng thực hiện chương trình giảm đi đáng kể, rất phù hợp với yêu cầu
giảm tải của nhà trường. Mặt khác, nếu phần nội dung phương pháp giảng
dạy tập làm văn được lồng ghép vào học phần Làm văn, phần văn hóa địa
phương được lồng ghép vào học phần Cơ sở văn hóa Việt Nam thì hợp lý
và dạy - học có hiệu quả hơn.
Qua những điều trình bày bên trên, có thể nhận ra rằng: Tích hợp là sự
lồng ghép, sự kết hợp những nội dung các môn học (hoặc các phân môn
trong một môn học) theo những cách khác nhau. Có hai cách cơ bản, một là
tích hợp các môn học/ nội dung riêng lẻ thành môn học mới và hai là tích
hợp không tạo nên môn học mới với 3 cấp độ: liên hệ, bộ phận và toàn
phần.
Theo chúng tôi, đối với chương trình đào tạo giáo viên ngành Sư phạm
Ngữ văn hiện tại, trước mắt chúng ta có thể vận dụng cách tích hợp thứ 2 ở
hai cấp độ: liên hệ và bộ phận. Có điều, khi tích hợp (dù theo trục ngang
hay theo trục dọc) thì đành phải chấp nhận phá vỡ, ở một mức độ nhất định,
tính hệ thống - logic trong nội bộ của từng môn học mà theo thói quen
truyền thống không phải dễ dàng được đồng thuận. Điều quan trọng ở đây
chính là vấn đề cân nhắc ưu khuyết của từng cách cấu trúc chương trình,
cách phân bố các học phần để lựa chọn phương án tối ưu nhằm đạt được
mục tiêu chung. Mặt khác, khi tích hợp không được lồng ghép khiên
cưỡng, gán ép mà phải tuân thủ nguyên tắc: Không đánh mất đặc trưng của
môn học; các nội dung lồng ghép phải thật sự hữu quan và được chọn lọc
có tập trung, tránh tràn lan.
III. KẾT LUẬN
Thật còn quá sớm để rút ra những khuyến nghị về việc tích hợp trong
giảng dạy nói chung, trong giảng dạy các học phần Tiếng Việt nói riêng.
Nhưng bước đầu có thể nêu lên một số ý kiến như sau :
7
1. Từ lâu, nhà trường phổ thông đã nói đến tính tích hợp, môn học tích

hợp với các mức độ khác nhau. Như vậy, với tư cách là đơn vị đào tạo, các
trường sư phạm / khoa sư phạm, không thể không chú ý đến kiến thức liên
bộ môn, liên ngành và phải xem đây là một yêu cầu cấp thiết. Hơn nữa, ở
nhà trường phổ thông, bản thân bộ môn Ngữ văn vốn đã được cấu thành
bởi ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn bằng mối quan hệ
đồng qui giữa các phân môn. Bởi thế, nghiên cứu việc giảng dạy tiếng Việt
theo hướng tích hợp cần được coi là hướng nghiên cứu ưu tiên nhằm phục
vụ không chỉ cho sinh viên sau này ra giảng dạy ở phổ thông mà còn có ích
cho cả bản thân người dạy trong việc đổi mới phương pháp dạy học tiếng Việt
bằng cách xác lập quan hệ đồng dạng giữa cấu trúc chương trình, nội dung
kiến thức, phương pháp dạy học, v.v ở các cấp học để tạo điều kiện tối ưu
đáp ứng mục tiêu đào tạo. Đương nhiên, không thể phủ nhận một tất yếu: bậc
học càng cao thì mức độ tích hợp càng thấp và mức độ phân hóa càng cao.
2. Việc đổi mới nội dung dạy học tiếng Việt phải song hành cùng đổi
mới phương pháp giảng dạy tiếng Việt. Các giảng viên trong quá trình
giảng dạy cần phải kết hợp các kiến thức khoa học cơ bản với nhau và kết
hợp kiến thức học thuật với kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm để “dạy nghề” cho
người học. Lợi ích trước mắt của việc làm này là có thể chủ động đón đầu
và góp phần thiết thực thực hiện Đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục Việt Nam khi đề án này được triển khai. Bởi lẽ, Dạy - học theo hướng
tích hợp, xét cho cùng, về phía người học cũng là một giải pháp để tích cực
hóa hoạt động nhận thức: thủ đắc tri thức một cách có hệ thống và logic,
thấy được mối quan hệ biện chứng giữa kiến thức và kỹ năng, đồng thời
nâng cao năng lực vận dụng kiến thức vào việc thực hành; về phía người
dạy, có cơ sở đổi mới phương pháp giảng dạy. Điều cần quan tâm: tích hợp
không phải là thực hiện phép cộng trừ đơn giản trong việc “lắp ghép” các
môn học mà phải chú ý tối đa đến mục tiêu đào tạo, đến việc phát triển
8
năng lực người học, trong khi điều này có liên quan trực tiếp đến hàng loạt
vấn đề (từ việc cấu trúc lại chương trình đào tạo, phân bố các học phần đến

đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy, cách đánh giá kết quả học tập
của người học v.v.) và cần sự đồng thuận của nhiều bộ phận, cấp quản lý
giáo dục khác nhau./.
9
10

×