Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tài liệu ôn thi môn Xã hội học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.2 KB, 18 trang )

LƯU Ý: Câu 1 có 2 phương án tiếp cận trả lời. Mọi người nghiên cứu tham khảo.
Câu 1: Trình bày quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về xóa đói, giảm
nghèo. Từ góc độ Xã hội học hãy phân tích và đề xuất giải pháp để giải quyết những
vấn đề đó.
Ở nước ta, chính sách xóa đói, giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ
phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư. Thành tựu xóa đói
giảm nghèo trong những năm qua đã góp phần tăng trưởng KT bền vững và thực hiện
công bằng XH, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Xóa đói giảm nghèo là chủ trương
nhất quán của Đảng ta trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội:
- Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) đã đề ra chủ trương xóa đói giảm nghèo trong
chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân cũng như trong chiến lược phát
triển chung của xã hội và đã trở thành một chủ trương chiến lược, nhất quán, liên tục
được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội của Đảng.
- Đại hội lần thứ VIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của công
tác xóa đói giảm nghèo, xác định phải nhanh chóng đưa các hộ nghèo thoát ra khỏi hoàn
cảnh túng thiếu và sớm hòa nhập với sự phát triển chung của đất nước; đề ra Chương
trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo trong 5 năm 1996 – 2000 cùng với 10 Chương trình
kinh tế - xã hội khác.
- Thực hiện chủ trương của Đảng, đầu năm 1998, Chính phủ chính thức phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo (Chương trình 133) cho giai đoạn
1998-2000. Tháng 7/1998, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục bổ sung Chương trình 135
-Chương trình hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu các xã miền núi, vùng sâu, vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn.
- Quan điểm giảm nghèo bền vững đã được đề cập và thể hiện trong Nghị quyết Đại hội
IX của Đảng là: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo.
- Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế quốc tế, phải luôn coi trọng yêu cầu nâng cao các phúc lợi xã hội cơ
bản của nhân dân, đặc biệt là đối với người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính
sách
- Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Thực hiện có hiệu


quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa nguồn lực và
phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các
vùng đặc biệt khó khăn, khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu
nhập trung bình khá trở lên. Có các chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân
hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị”.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã đề ra 4 quan điểm cơ bản nhằm chỉ đạo công tác xóa
đói, giảm nghèo, điều chỉnh phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo như sau:
Thứ nhất, coi xoá đói giảm nghèo, điều chỉnh phân tầng XH là 1 trong những nhiệm vụ
XH cấp thiết, cần tập trung quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo giải quyết.
Thứ hai, để xoá đói giảm nghèo phải phát huy sức mạnh tổng hợp các nguồn lực từ Nhà
nước, từ cộng đồng và từ quốc tế; phải XH hoá công tác xoá đói giảm nghèo.
Thứ ba, hỗ trợ người nghèo, tạo việc làm, thu nhập để thoát nghèo bền vững; Thực hiện
phương châm “cho cần câu không chỉ cho con cá”; Trợ giúp người nghèo, hộ nghèo tự
đứng vững vươn lên, phát triển SX, giải quyết gốc rễ những nguyên nhân dẫn đến đói
nghèo.
Thứ 4, xoá đói giảm nghèo, điều chỉnh phân tầng XH phải dựa trên cơ sở phát triển SX,
tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng XH.
* Để thực hiện tốt các mục tiêu giảm nghèo, nước ta đã ban hành và tổ chức thực hiện
nhiều chính sách trong thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, cụ thể như:
1- Trợ cấp cho vay vốn tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp, tín chấp. Hàng năm đã có hàng
chục ngàn tỷ đồng của Ngân hàng Chính sách Xã hội, Agribank cho vay theo các chương
trình giảm nghèo.
2- Xây dựng CSHT cho các xã nghèo, huyện nghèo, vùng nghèo dưới hình thức đầu tư
theo các Chương trình 134, 135 của CP. Hơn 2.000 xã nghèo được hỗ trợ xây dựng, hoàn
thiện CSHT tạo điều kiện cho phát triển sản xuất và đời sống XH. Các chương trình xây
dựng CSHT đã phát huy tác dụng khá tốt trong xoá đói giảm nghèo ở nhiều địa phương,
nhất là các địa bàn vùng cao, xa, sâu, dân tộc ít người.
3- Hỗ trợ, cấp TLSX, CCSX, cấp đất và tìm thị trường cho hộ nghèo, vùng nghèo. Hàng
vạn hécta ruộng đất được cấp song song với việc đầu tư vốn, kỹ thuật, CCSX giúp các hộ
nghèo phát triển SX tự đứng vững vượt lên.

4- Hỗ trợ y tế, giáo dục cho người nghèo, hộ nghèo; cấp thẻ BHYT và cải thiện chất lượng
dịch vụ y tế tuyến cơ sở; cấp học bổng, giảm học phí cho học sinh nghèo; cho các hộ
nghèo vay tiền để đưa con em đến trường; dành chế độ đãi ngộ đặc biệt ch ogiáo viên
vùng cao, xa, sâu và trợ cấp cho học sinh nghèo các dụng cụ, đồ dùng cần thiết trong học
tập…
5- Giải quyết lao động, đào tạo nghề, tìm việc làm cho người nghèo, hộ nghèo (nhất là
trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp).
6- Chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình và dân số phát triển giúp người nghèo, hộ
nghèo tiếp cận với các dịch vụ kế hoạch hoá giai đình, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, nâng
cao chất lượng dân số.
7- Khuyến khích làm giàu, hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo làm giàu chính đáng. Động viên,
thu hút các DN, các hộ giàu cùng với Nhà nước tham gia vào các chương trình xoá đói
giảm nghèo thông qua chính sách về đất đai, tài chính, thuế, lao động… nhằm từng bước
điều chỉnh thu nhập và tạo công bằng XH.
Nghiên cứu và vận dụng sáng tạo 4 quan điểm của Đảng và và 7 chính sách của Nhà nước
nêu trên tiếp tục được nghiên cứu và vận dụng để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia giảm nghèo bền vững 2012-2020. Mục tiêu chung của giảm nghèo bền vững trong thời
gian tới được xác định là: Cải thiện và từng bước nâng cao đời sống của người nghèo, ưu
tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo thuộc huyện nghèo, xã biên
giới, xã ATK, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vừng bãi ngang ven biển và hải đảo. Tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về công tác giảm nghèo ở các vùng nghèo; góp phần thu
hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các
dân tộc và các nhóm dân cư.
* Những vấn đề đặt ra cần quan tâm trong công tác xoá đói giảm nghèo:
1- Xác định tiêu chí nghèo và đo lường thu nhập của hộ nghèo, người nghèo.
2
2- Làm thế nào để đào tạo nghề ở huyện nghèo, vùng nghèo nhằm đáp ứng và phù hợp với
như cầu thị trường lao động.
3- Xoá đói giảm nghèo và xoá đói giảm nghèo bền vững cho hộ gia đình dân tộc thiểu số ở
vùng cao, sâu, xa.

4- Làm thế nào để phát huy tính tích cực của người nghèo, của cộng đồng.
5- Giảm thiểu thất thoát, lãng phí.
6- Tính toán cái nghèo đa chiều để không chỉ lo cái ăn, cái mặc mà mở rộng giải quyết yếu
tố tinh thần, sức khoẻ, văn hoá cho người nghèo.
* Dưới góc độ xã hội học, để thực hiện tốt các chính sách xóa đói, giảm nghèo trong
thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp trọng tâm sau:
Giải pháp thứ nhất, cần đổi mới định hướng chính sách trong công tác xóa đói, giảm
nghèo.
- Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế: Hơn một thập niên qua, mô hình tăng trưởng số
lượng, dựa trên khai thác tài nguyên và lao động gia công, dựa trên thu hút vốn đầu tư
nước ngoài đã tới giới hạn và đang phát sinh nhiều tiêu cực cả về kinh tế, xã hội và môi
trường. Do đó, nhu cầu cấp bách về kinh tế và chính trị là chuyển sang mô hình phát triển
bền vững, như các Đại hội của Đảng đã nêu là: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã
hội và bảo vệ môi trường". Như vậy, vấn đề chính sách xóa đói, giảm nghèo phải đặt trong
tiến trình chuyển sang mô hình phát triển bền vững. Vấn đề đói nghèo được giải quyết từ
ba hướng gắn bó với nhau: Tăng trưởng kinh tế bền vững, tự nó đã hạn chế phát sinh đói
nghèo; tiến bộ xã hội (thể hiện ở trình độ giáo dục, dân trí) là điều kiện trực tiếp để giải
quyết đói nghèo; bảo vệ môi trường đang trở thành vấn đề quan trọng tác động trực tiếp
đến tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội. Sự chuyển đổi mô hình kinh tế không chỉ là nhu
cầu của nước ta mà là xu thế của thời đại hiện nay, đang thách thức cả các nước phát triển.
Nhìn từ sự nghiệp đổi mới, thì chuyển đổi mô hình kinh tế là lần đổi mới thứ hai, sau lần
đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường (từ năm 1986). Đây là cơ hội lớn và thách thức lớn.
- Tạo lập những tiền đề, điều kiện để giải quyết vấn đề đói nghèo trong mô hình mới:
Đây là những tiền đề vừa để xây dựng mô hình kinh tế mới, vừa giải quyết có hiệu quả
vấn đề đói nghèo.
- Xây dựng các hình thức liên kết các ngành khoa học và công nghệ với sản xuất và xây
dựng, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn. Thúc đẩy lan tỏa hình thức liên kết "bốn
nhà" (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và Nhà nước) trong các dự án nông, lâm,
thủy sản và dịch vụ.
- Phát triển các hình thức giáo dục miễn phí phổ cập về nghề nghiệp cho những người

trong diện đói nghèo. Nên dựa vào các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính
phủ (NGO) nước ngoài thực hiện các dự án về giáo dục, y tế, xã hội. Hướng hoạt động là
nâng cao năng lực, ý thức chủ động vượt đói nghèo của người dân nông thôn, miền núi.
Cách làm này hoàn toàn khác với cách làm phong trào để ban ơn, lấy thành tích.
- Về mặt quản lý nhà nước, cần có quy định về tư vấn, phản biện và giám định xã hội của
các dự án sản xuất, xây dựng các dự án xóa đói, giảm nghèo trước khi thực hiện, nhằm thể
hiện được định hướng phát triển bền vững.
- Nhà nước chỉ phê duyệt các dự án đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài bảo đảm thực hiện
mô hình phát triển bền vững. Đồng thời phải rà soát, thanh tra các khu công nghiệp, các
3
dự án đã và đang sản xuất và xây dựng, quy định thời gian chuyển đổi sang mô hình mới.
Bởi vì, càng kéo dài kiểu sản xuất kinh doanh cũ thì càng tạo ra nguy cơ về đói nghèo.
- Đổi mới tổ chức và thể chế quản lý của Nhà nước theo yêu cầu đổi mới mô hình kinh
tế.
Mô hình tổ chức nhà nước và thể chế quản lý hiện nay, xét cho cùng cũng là sản phẩm của
mô hình tăng trưởng cũ. Khi mô hình tăng trưởng kinh tế đã lỗi thời mà kéo dài kiểu tổ
chức, quản lý cũ thì càng làm cho tình hình kinh tế và xã hội phát sinh nhiều vấn đề
nghiêm trọng.
Về khách quan, mô hình phát triển bền vững đòi hỏi và quy định mô hình tổ chức, thể chế
quản lý là Nhà nước pháp quyền của dân được đề ra từ Đại hội IX. Những vấn đề nóng
trong kỳ họp Quốc hội đầu năm 2010 cho thấy những khó khăn và chậm trễ trong việc xây
dựng nhà nước pháp quyền ở một nước kém phát triển, đang phát triển. Vấn đề đói nghèo
từng tồn tại lâu dài trong lịch sử. Sự tăng hay giảm đói nghèo gắn liền với trình độ phát
triển của nhà nước và phản ánh bản chất nhà nước. Như vậy, đói nghèo ở phạm vi một
nước là một vấn đề chính trị. Các cuộc khủng hoảng xã hội và những biến động về chính
trị đều phát sinh từ tình hình đói nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Giải pháp thứ hai, đổi mới tư duy và phương pháp hoạch định và thực hiện chính
sách xóa đói, giảm nghèo
- Đổi mới tư duy về chính sách xóa đói, giảm nghèo.
Sau 35 năm nền kinh tế nước ta vẫn chưa có nhiều bước tiến, song vẫn là nước đang phát

triển. Đây là thách thức bên trong lớn nhất khi bước vào thập niên 2011 - 2020 với những
biến đổi có tính bước ngoặt, khi giải quyết vấn đề "giặc đói" và "giặc dốt". Nó đòi hỏi
Đảng cầm quyền phải có tư duy mới và năng lực mới trong xây dựng và thực hiện chiến
lược phát triển. Tư duy mới về chính sách xóa đói, giảm nghèo, trước hết là tư duy hệ
thống, tức là đặt vấn đề đói nghèo trong chiến lược chuyển sang mô hình phát triển bền
vững, trong đó giải quyết vấn đề "giặc đói" và "giặc dốt" phải đồng thời, tạo điều kiện cho
nhau, làm cho chính sách xóa đói, giảm nghèo mang ý nghĩa là nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân được coi là trách nhiệm và mục tiêu của Đảng.
- Cần có tư duy mới phải đi đôi với năng lực mới và phương pháp mới của Đảng.
Một là, tạo một bước phát triển chất lượng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền với ba
nội dung cơ bản: mô hình tổ chức nhà nước, thể chế hoạt động, vấn đề cán bộ. Muốn vậy
cần nhận thức đúng và đổi mới mối quan hệ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Phân
định rõ và công khai về quyền hạn và trách nhiệm mỗi nhánh quyền lực.
Hai là,, nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp bằng cách thu hút tinh hoa của dân tộc.
Chức năng của Quốc hội không chỉ lập pháp mà đặc biệt là phải giám sát cơ quan hành
pháp bằng một tổ chức giám sát có quyền hạn rõ ràng, trước hết nhằm chống tham nhũng,
lãng phí - một nguyên nhân gây ra đói nghèo.
Ba là, nâng cao và thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Nhà
nước, nhất là trong lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo. Đồng thời, phát huy vai trò tư vấn, phản
biện và giám định xã hội của các đoàn thể, tổ chức xã hội./.
4
Câu hỏi 1: Trình bày quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về
xoá đói giảm nghèo. Từ góc độ xã hội học hãy phân tích và đề xuất giải pháp để
giải quyết những vấn đề đó.
Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về xoá đói giảm nghèo
Năm 1995 tại Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia bàn về phát triển XH tại
Copenhaghen-Đan Mạch, VN đưa ra 10 nhóm vấn đề XH cần giải quyết, trong đó
xoá đói giảm nghèo được đặt lên hàng thứ hai sau vấn đề giải quyết việc làm.
Năm 2000 tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc, VN cùng với 190 quốc
gia đã ký cam kết thực hiện 8 mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, chú trọng giải

quyết những vấn đề XH tương ứng, trong đó có vấn đề xoá bỏ tình trạng nghèo
cùng cực và thiếu đói.
Thực tiễn các giai đoạn phát triển khác nhau của XH thì có các vấn đề XH
khác nhau nhưng quan điểm, chủ trương của Đảng ta luôn coi việc giải quyết các
vấn đề XH, chính sách XH là một bộ phận quan trọng của đường lối cách mạng VN.
Có thể xác định 5 quan điểm cơ bản về giải quyết các vấn đề XH, chính sách XH
của Đảng ta như sau:
- Phải lấy con người làm trung tâm để hoạch định và thực hiện các chính sách
XH, đảm bảo ASXH, phúc lợi XH và giải quyết các vấn đề XH
- Phải xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế, gắn chính sách XH với chính
sách kinh tế.
- Phải huy động sức mạnh tổng hợp của Nhà nước, của cộng đồng và của quốc
tế; phải XH hoá công tác này
- Phải phù hợp với các chuẩn mực VH và truyền thống dân tộc
- Phải phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, thu hút sự đồng tình, ủng hộ và
giúp đỡ của quốc tế.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì phân tầng XH và phân hoá giàu
nghèo là hiện tượng tất yếu nhưng nó cần được điều chỉnh nhằm tránh dẫn đến phân
cực XH, mâu thuẫn XH và xung đột XH. VN từ khi đổi mới, phân tầng XH, phân
hoá giàu nghèo nảy sinh và có chiều hướng gia tăng, tác động không nhỏ tới sự
đoàn kết XH, thậm chí xảy ra xung đột lợi ích giữa các nhóm XH khác nhau.
* Theo Nghị quyết TW5 khoá XI, Đảng ta đã đề ra các quan điểm chỉ đạo về
công tác xoá đói giảm nghèo như sau:
- Thứ nhất: Coi xoá đói, giảm nghèo, điều chỉnh phân tầng XH là 1 trong
những nhiệm vụ XH cấp thiết, cần tập trung quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo giải quyết.
- Thứ hai: Để xoá đói giảm nghèo phải huy động tổng hợp các nguồn lực từ
Nhà nước, từ cộng đồng và từ quốc tế; phải XH hoá công tác xoá đói, giảm nghèo.
- Thứ ba: Xoá đói giảm nghèo phải thực hiện phương châm “cho cần câu
5
không chỉ cho con cá”. Thực hiện sự trợ giúp người /hộ nghèo phát triển sản xuất,

tự đứng vững vượt lên, giải quyết gốc rễ những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo và
thoát nghèo bền vững.
- Thứ tư: Xoá đói giảm nghèo, điều chỉnh phân tầng XH phải dựa trên cơ sở
phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, thực hiện công bằng XH.
* Để thực hiện mực tiêu giảm nghèo, Nhà nước ra đã đưa ra và thực hiện các
chính sách cụ thể như sau:
1 là: Chính sách trợ cấp cho vay vốn tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp, tín chấp.
Hàng năm đã có hàng chục ngàn tỷ đồng của Ngân hàng Chính sách Xã hội,
Agribank cho vay theo các chương trình giảm nghèo.
2 là: Chính sách xây dựng CSHT cho các xã nghèo, huyện nghèo, vùng nghèo
dưới hình thức đầu tư theo các Chương trình 134, 135 của Chính phủ. Hơn 2.000 xã
nghèo được hỗ trợ xây dựng, hoàn thiện CSHT tạo điều kiện cho phát triển sản xuất
và đời sống XH. Các chương trình xây dựng CSHT đã phát huy tác dụng khá tốt
trong xoá đói giảm nghèo ở nhiều địa phương, nhất là các địa bàn vùng cao, xa, sâu,
dân tộc ít người.
3 là: Chính sách hỗ trợ, cấp TLSX, CCSX, cấp đất và tìm thị trường cho hộ
nghèo, vùng nghèo. Hàng vạn hécta ruộng đất được cấp song song với việc đầu tư
vốn, kỹ thuật, CCSX giúp các hộ nghèo phát triển SX tự đứng vững vượt lên.
4 là: Chính sách hỗ trợ về y tế, giáo dục cho người nghèo, hộ nghèo; cấp thẻ
BHYT và cải thiện chất lượng dịch vụ y tế tuyến cơ sở; cấp học bổng, giảm học phí
cho học sinh nghèo; cho các hộ nghèo vay tiền để đưa con em đến trường; dành chế
độ đãi ngộ đặc biệt cho giáo viên vùng cao, xa, sâu và trợ cấp cho học sinh nghèo
các dụng cụ, đồ dùng cần thiết trong học tập…
5 là: Chính sách giải quyết lao động, đào tạo nghề, tìm việc làm cho người
nghèo, hộ nghèo (nhất là trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp).
6 là: Chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình và dân số phát triển giúp người
nghèo, hộ nghèo tiếp cận với các dịch vụ kế hoạch hoá giai đình, chăm sóc sức khoẻ
sinh sản, nâng cao chất lượng dân số.
7 là: Chính sách khuyến khích làm giàu, hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo làm
giàu chính đáng. Động viên, thu hút các DN, các hộ giàu cùng với Nhà nước tham

gia vào các chương trình xoá đói giảm nghèo thông qua chính sách về đất đai, tài
chính, thuế, lao động… nhằm từng bước điều chỉnh thu nhập và tạo công bằng XH.
Từ góc độ XH học, phân tích và đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề về
xoá đói giảm nghèo
- XH theo nghĩa rộng (hệ thống) là toàn thể XH, toàn bộ XH; chỉ tất cả những
gì liên quan đến con người, đến XH loài người nhằm phân biệt nó với thế giới tự
nhiên. Đây là khái niệm chỉ cái chung, cái tổng thể, bao quát và xuyên suốt tất cả
các lĩnh vực hoạt động của con người, trong đó những vật thể tự nhiên được con
người cải tạo, biến đổi thành những thành tố, bộ phận của XH. Đại hội XI Đảng ta
đã xác định: XH.XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một XH dân giàu, nước mạnh,
6
dân chủ, công bằng, văn minh.
- XH theo nghĩa hẹp (tiểu hệ thống) là tập hợp người với những quan hệ của họ
tồn tại như là mục đích, mục tiêu, như những cái cần phải hướng tới của các hoạt
động như KT.CT.VH, tôn giáo, tín ngưỡng của họ. XH theo nghĩa hẹp thường được
sử dụng trong các khái niệm như phát triển XH, chính sách XH, đường lối XH và
trong khái niệm phát triển kinh tế - xã hội… Đại hội XI Đảng ta đã xác định: Tăng
trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công
bằng XH, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
- Vấn đề XH theo nghĩa rộng hay hẹp đều là những yếu tố gây trở ngại, khó
khăn cho sự phát triển bình thường của toàn XH hay một khía cạnh XH của XH, nó
ảnh hưởng xấu đến đời sống các thành viên trong XH; đồng thời vấn đề XH có thể
là yếu tố “bất thường” mới, khác lạ có thể làm biến đổi, thúc đẩy sự tiến bộ và phát
triển XH. Khi có các vấn đề xã hội phát sinh thì yêu cầu phải giải quyết thông qua
các biện pháp XH (chính sách XH)
- Chính sách là những quy định được thể chế hoá bởi cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền, là công cụ của các cơ quan nhà nước nhằm điều chỉnh những quan hệ KT,
CT, VH, XH của con người, giải quyết những vấn đề XH đang đặt ra, thực hiện
những mục tiêu đã được xác định.
- Chính sách XH là một loại chính sách nhằm điều chỉnh những quan hệ XH

của con người, giải quyết những vấn đề XH đang đặt ra, thực hiện bình đẳng, công
bằng, tiến bộ XH và phát triển toàn diện con người.
- Tầng XH là tổng thể hay tập hợp của các cá nhân có cùng một hoàn cảnh điều
kiện XH được sắp xếp theo trật tự thang bậc nhất định trong hệ thống XH. Các
thành viên của tầng XH ngang nhau về địa vị kinh tế, tài sản; địa vị chính trị, quyền
lực; địa vị XH, uy tín; khả năng thăng tiến cũng như những ân huệ hay thứ bậc khác
trong XH.
- Phân tầng XH là sự phân hoá XH thành các tầng lớp XH khác nhau về những
đặc điểm cơ bản có tính định lượng và có thể phân biệt thành các tầng lớp XH cao
thấp, trên dưới khác nhau về những đặc điểm cơ bản của XH.
- Phân tầng XH bao gồm phân tầng XH hợp thức và không hợp thức:
+ Phân tầng XH hợp thức là phân tầng theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác nhau và phân phối thông qua các hệ thống
ASXH và phúc lợi XH; Là sự phân tầng theo luật định, phù hợp quy luật tiến bộ
XH, công bằng XH và văn minh.
+ Phân tầng XH không hợp thức là phân tầng do những hành vi vi phạm pháp
luật mà chưa bị phát hiện, trừng phạt; sử dụng những thủ đoạn, cơ hội để thăng tiến,
để đạt được những vị trí nhất định trong các tầng cao hơn của phân tầng XH; Là sự
phân tầng trái với giá trị đạo đức, trái với các chuẩn mực văn hoá - xã hội và không
được pháp luật thừa nhận.
- Một số nguyên nhân và yếu tố tác động tới sự phân tầng XH:
+ Sự bất bình đẳng XH là cơ sở quan trọng dẫn đến phân tầng XH
7
Bất bình đẳng XH là sự không ngang bằng nhau giữa các thành viên trong XH
về năng lực (thể chất, trí tuệ), về điều kiện, về cơ may… Ngoài ra, sự bất bình đẳng
một phần cũng bắt nguồn từ sự phân công lao động XH như phân công về mặt vị
thế XH chiếm ưu thế, phân công về lao động, nghề nghiệp
+ Những yếu tố sở hữu TLSX, tài sản, các nguồn vốn kinh tế.
+ Những yếu tố chính trị như địa vị lãnh đạo, quản lý, tổ chức, điều hành, kiểm
soát các nguồn lực.

+ Những yếu tố về học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật.
+ Sự phân công lao động và sự kế thừa các nguồn vốn của gia đình.
+ Cơ may XH, cơ hội thị trường …
- Những vấn đề đặt ra cần quan tâm trong công tác xoá đói giảm nghèo:
Mặc dù VN đã thành công trong việc nâng cao mức sống và giảm nhanh tỷ lệ
nghèo đói nhưng vẫn có một tỷ lệ lớn dân số VN vẫn có mức sống thấp, thậm chí
gần ngưỡng nghèo nên thành quả xoá đói giảm nghèo còn thiếu bền vững. Chỉ cần
một khó khăn do thiên tai như hạn hán, rét đậm, rét hại kéo dài hoặc tại nạn giao
thông, ốm đau cũng có thể làm cho người dân lâm vào hoàn cảnh nghèo đói. Do vậy
các vấn đề XH cấp bách nảy sinh từ cơ cấu XH, phân tầng XH ở VN hiện nay chủ
yếu là phân hoá giàu nghèo và bất bình đẳng XH, thể hiện dưới 1 số hình thức sau:
+ Vấn đề phân hoá giàu nghèo tăng: Các nghiên cứu về mức sống hộ gia đình
VN trong các năm 1993-2010 đều cho thấy: Mức chênh lệch ví dụ về thu nhập bình
quân đầu người giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất đã tăng từ gần
5 lần lên hơn 9 lần; Hệ số GINI về thu nhập và chi tiêu tăng từ 0.33 lên 0.45 (giá trị
giao động của hệ số GINI tăng từ 0 đến 1 và càng tiến đến 1 thì càng bất bình đẳng
và càng phân hoá giàu nghèo) cho thấy bất bình đẳng XH ở VN đã tăng rõ rệt
→ Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề này ……
+ Vấn đề bất bình đẳng XH giữa thành thị và nông thôn: Về tiêu chí kinh tế,
điều này thể hiện rõ qua số liệu điều tra XH học ví dụ gần 90% người nghèo sống ở
nông thôn và tỷ lệ nghèo ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn ở mức rất cao
(trên 50%) so với mức trung bình của cả nước (11-15%)
→ Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề này ……
+ Vấn đề phân tầng không hợp thức: Ở Việt Nam hiện nạy, khuynh hướng
phân tầng XH chủ yếu dựa trên yếu tố kinh tế (sở hữu tài sản, thu nhập) gồm 5 tầng
XH đi từ thấp đến cao, từ nghèo lên giàu, trong đó tầng 1 chiếm 10-15% dân số
(trước năm 1986 chiếm 30%); tầng 2 chiếm 44-45% dân số; tầng 3 chiếm 10-15%
dân số; tầng 4 chiếm 5-10% dân số và tầng 5 chiếm 2-5% dân số. Thực trạng nước
ta tồn tại 3 loại phân tầng XH là phân tầng XH hợp thức, phân tầng XH không hợp
thức và loại đan xen giữa phân tầng XH hợp thức và phân tầng XH không hợp thức.

Việc điều chỉnh phân tầng XH phụ thuộc nhiều vào các thiết chế pháp luật và đòi
hỏi cần thực hiện ngay vì nếu để phân tầng XH càng lớn thì dẫn đến sự bất bình
đẳng càng lớn và tất yếu kéo theo sự bất ổn XH.
8
→ Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề này ……
Ngoài 3 vấn đề căn bản nêu trên, hiện công tác xoá đói, giảm nghèo ở VN còn
cần tập trung giải quyết các nội dung sau đây:
+ Vấn đề xác định tiêu chí nghèo và đo lường thu nhập của hộ nghèo, người
nghèo. Tỷ lệ gia đình nghèo đói (% hộ gia đình) ở VN qua các năm như sau:
Năm Chuẩn VN Chuẩn quốc tế
1992 30,01 70
1995 20,37 50
2003 12 37
2005
4 triệu hộ; 1.900 xã;
2.500 bản /làng /ấp
23
2010 9,45%
Chuẩn nghèo và cận nghèo giai đoạn 2011-2015
Bình quân thu nhập 1 người /1 tháng
Khu vực Nghèo Cận nghèo
Thành thị <500.000 đồng 501→650.000 đồng
Nông thôn <400.000 đồng 401→520.000 đồng
Theo tiêu chuẩn nghèo 2011-2015 thì năm 2010 nghèo 15% và 62 huyện
nghèo nhất; mục tiêu đến 2020 là nghèo 4-5% hộ gia đình.
Tiêu chí thế giới dưới 2USD /1 ngày là nghèo.
→ Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề này ……
+ Vấn đề làm thế nào để đào tạo nghề ở huyện nghèo, vùng nghèo nhằm đáp
ứng và phù hợp với như cầu thị trường lao động.
→ Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề này ……

+ Vấn đề xoá đói giảm nghèo và xoá đói giảm nghèo bền vững cho hộ gia đình
dân tộc thiểu số ở vùng cao, sâu, xa.
→ Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề này ……
+ Vấn đề làm thế nào để phát huy tính tích cực của người nghèo, của cộng
đồng.
→ Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề này ……
+ Vấn đề quản lý nhằm giảm thiểu thất thoát, lãng phí.
→ Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề này ……
+ Gắn liền với những vấn đề của cơ cấu XH và phân tầng XH là hàng loạt các
vấn đề XH khác đi theo như vấn đề trẻ em nghèo, vấn đề thất nghiệp, thiếu việc
làm, vấn đề nghiện ma tuý, vấn đề HIV/AIDS, vấn đề bạo lực gia đình, bạo lực giới,
bất bình đẳng giới, các bệnh tật, các tai nạn, các tệ nạn XH, các rủi ro XH…
→ Đề xuất giải pháp để giải quyết những vấn đề này ……
9
+ Tính toán cái nghèo đa chiều để không chỉ lo cái ăn, cái mặc mà mở rộng
giải quyết yếu tố tinh thần, sức khoẻ, văn hoá cho người nghèo.
→ Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề này ……
Tóm lại các quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về xoá đói, giảm
nghèo cần tiếp tục được nghiên cứu và vận dụng để thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững 2012-2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Mục tiêu
chung của giảm nghèo bền vững trong thời gian tới được xác định là:
- Cải thiện và từng bước nâng cao đời sống của người nghèo, ưu tiên người
nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo thuộc huyện nghèo, xã biên giới,
xã ATK, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vừng bãi ngang ven biển và hải đảo;
- Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về công tác giảm nghèo ở các vùng
nghèo; góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa thành thị và
nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư./.
10
Câu hỏi 2: Trình bày quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về
dân số, lao động, việc làm. Từ góc độ xã hội học hãy phân tích và đề xuất giải

pháp để giải quyết những vấn đề đó.
Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về dân số, lao động, việc làm
Năm 1995 tại Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia bàn về phát triển XH tại
Copenhaghen-Đan Mạch và năm 2000 tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc,
VN đã đưa ra các nhóm vấn đề XH cần giải quyết, trong đó giải quyết lao động việc
làm và dân số kế hoạch hoá gia đình là những vấn đề được ưu tiên hàng đầu.
Thực tiễn các giai đoạn phát triển khác nhau của XH thì có các vấn đề XH
khác nhau nhưng quan điểm, chủ trương của Đảng ta luôn coi việc giải quyết các
vấn đề XH, chính sách XH là một bộ phận quan trọng của đường lối cách mạng VN.
Có thể xác định 5 quan điểm cơ bản về giải quyết các vấn đề XH, chính sách XH
của Đảng ta như sau:
- Phải lấy con người làm trung tâm để hoạch định và thực hiện các chính sách
XH, đảm bảo ASXH, phúc lợi XH và giải quyết các vấn đề XH
- Phải xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế, gắn chính sách XH với chính
sách kinh tế.
- Phải huy động sức mạnh tổng hợp của Nhà nước, của cộng đồng và của quốc
tế; phải XH hoá công tác này
- Phải phù hợp với các chuẩn mực VH và truyền thống dân tộc
- Phải phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, thu hút sự đồng tình, ủng hộ và
giúp đỡ của quốc tế.
* Theo Nghị quyết TW4 khoá VII, Đảng ta đã đề ra các quan điểm chỉ đạo về
công tác dân số kế hoạch hoá gia đình như sau:
Thứ nhất: Công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng
của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng
đầu của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng
người, từng gia đình và của toàn xã hội.
Thứ hai: Vận động, tuyên truyền và giáo dục gắn liền với đưa dịch vụ kế hoạch
hoá gia đình đến tận người dân; có chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người
chấp nhận gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng thực hiện
kế hoạch hoá gia đình.

Thứ ba: Đầu tư cho công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình là đầu tư mang
lại hiệu quả kinh tế trực tiếp rất cao. Nhà nước cần tăng mức chi ngân sách cho
công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình, đồng thời động viên sự đóng góp của
cộng đồng và tranh thủ sự viện trợ của quốc tế.
11
Thứ tư: Huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia công tác dân số và kế
hoạch hoá gia đình, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh để quản lý theo
chương trình mục tiêu, bảo đảm cho các nguồn lực nói trên được sử dụng có hiệu
quả và đến tận người dân.
Thứ năm: Các tổ chức Đảng và chính quyền các cấp phải lãnh đạo và chỉ đạo
tổ chức thực hiện công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình theo chương trình.
* Theo nội dung Chiến lược Việc làm Việt Nam giai đoạn 2011-2020 thì
những quan điểm chỉ đạo về vấn đề lao động việc làm như sau:
Thứ nhất: Thúc đẩy việc làm bền vững cho mọi người, cải thiện thu nhập, giảm
nghèo và góp phần duy trì ổn định xã hội
Thứ hai: Nâng cao chất lượng lao động (nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên
70% vào năm 2020, trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt trên 55% theo định
hướng của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội )
Thứ ba: Tăng số lượng việc làm (quy mô việc làm tăng thêm khoảng 1 triệu
lao động mỗi năm, phấn đấu tỷ lệ tăng trưởng việc làm khoảng 2%/năm, )
Thứ tư: Cải thiện chất lượng việc làm (tốc độ tăng năng suất lao động bình
quân 4%/năm giai đoạn 2011-2020, tỷ trọng việc làm trong ngành nông nghiệp
giảm xuống còn 40% trên tổng số việc làm năm 2015 và 30% năm 2020, tăng tỷ lệ
lao động làm công ăn lương lên 65% vào năm 2020, )
* Theo Nghị quyết TW5 khoá XI (Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012),
Đảng ta đã đề ra các quan điểm chỉ đạo một số vấn đề về chính sách XH giai đoạn
2012-2020, trong đó có các vấn đề về công tác dân số, lao động, việc làm như sau:
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển
sản xuất, tạo việc làm, học nghề, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, ưu tiên
người nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc các huyện, xã nghèo, thôn bản đặc biệt

khó khăn.
Thứ hai: Xây dựng và triển khai Luật Việc làm
Thứ ba: Khẩn trương nghiên cứu xây dựng Chương trình việc làm công, phấn
đấu đến 2020, tỷ lệ thất nghiệp chung dưới 3%; tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%.
* Theo Chiến lược dân số giai đoạn 2011-2020 (Quyết định số 2013/QĐ-TTg
ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ), Nhà nước ta đã đưa ra và thực hiện các
chính sách dân số cụ thể như sau:
- Mục tiêu tổng quát: Nâng cao chất lượng dân số, duy trì mức sinh thấp hợp
lý, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số và phân bố dân số, góp phần thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Các mục tiêu cụ thể:
+ Phấn đấu tốc độ tăng dân số ở mức khoảng 1% vào năm 2015 và ổn định ở
mức khoảng 1% vào năm 2020; chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức trung bình
cao của thế giới vào năm 2020.
12
+ Giảm mạnh tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh, đặc biệt tập trung vào các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tình trạng mất cân bằng nghiêm trọng về
tỷ số giới tính khi sinh, tiến tới đưa tỷ số này trở lại mức 105 - 106 trẻ sơ sinh
trai/100 trẻ sơ sinh gái khoảng năm 2020.
+ Duy trì mức sinh thấp hợp lý, đáp ứng đầy đủ nhu cầu kế hoạch hóa gia
đình: Tổng tỷ suất sinh (số con trung bình của một cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh
đẻ) giảm xuống 1,9 con vào năm 2015 và 1,8 con vào năm 2020; Quy mô dân số
không vượt quá 93 triệu người vào năm 2015 và 98 triệu người vào năm 2020.
+ Thúc đẩy phân bố dân số phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội
quốc gia; tăng cường lồng ghép các yếu tố về dân số vào hoạch định chính sách, xây
dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành.
- Lãnh đạo, tổ chức và quản lý:
+ Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền đối
với công tác dân số. Coi đây là một nội dung trọng tâm trong các chương trình, kế
hoạch công tác thường xuyên của cấp ủy Đảng, chính quyền.

+ Hoàn thiện tổ chức bộ máy làm công tác này ở các cấp theo hướng chuyên
nghiệp hóa, đảm bảo triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án về dân số.
+ Ổn định, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác dân số ở cơ sở để
đưa công tác truyền thông, giáo dục, cung cấp các dịch vụ dân số; theo dõi, quản lý
đối tượng đến từng hộ gia đình, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng ven
biển và hải đảo.
+ Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý công tác dân số, thực hiện quản lý
công tác này theo chương trình mục tiêu quốc gia; từng bước áp dụng mô hình chi
trả phí dịch vụ dân số cho đối tượng được miễn chi phí thông qua các phương tiện
thanh toán trung gian (thẻ khách hàng, thẻ bảo hiểm y tế).
+ Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành để thực hiện có hiệu quả công tác dân
số. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về dân số,
đặc biệt là kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân làm dịch vụ
chẩn đoán và lựa chọn giới tính thai nhi; nâng cao vai trò giám sát của cộng đồng
trong việc thực hiện chính sách, pháp luật.
- Chính sách truyền thông, giáo dục chuyển đổi hành vi:
+ Tăng cường phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về dân số, đặc biệt là
chính sách, pháp luật về kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh.
+ Thường xuyên cập nhật, cung cấp thông tin về dân số tới các cấp ủy Đảng,
chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội và những người có uy tín trong cộng đồng.
+ Triển khai mạnh, có hiệu quả các hoạt động truyền thông, giáo dục với nội
dung, hình thức và cách tiếp cận phù hợp với từng nhóm đối tượng; ưu tiên các đối
tượng khó tiếp cận thông tin và dịch vụ dân số.
+ Mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục về dân số. Kết hợp tốt truyền
thông đại chúng với truyền thông trực tiếp thông qua mạng lưới cộng tác viên dân
13
số, tuyên truyền viên của các ngành, đoàn thể; tăng cường sử dụng các phương tiện
truyền thông hiện đại như internet, truyền thông đa phương tiện, điện thoại di động.
- Chính sách về dịch vụ dân số:
+ Kiện toàn mạng lưới cung cấp dịch vụ theo phân tuyến kỹ thuật, tập trung

cho vùng khó khăn, đảm bảo cung cấp các gói dịch vụ dân số.
+ Tăng cường hỗ trợ cho tuyến xã bằng nhiều hình thức, bao gồm cả đội lưu
động, xây dựng hệ thống hỗ trợ chuyển tuyến thích hợp cho từng vùng, khu vực.
+ Nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua việc hoàn thiện các quy định, quy
trình kỹ thuật
+ Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện các quy định
chuyên môn và quy trình kỹ thuật đối với các cơ sở cung cấp dịch vụ.
+ Nâng cấp cơ sở hạ tầng, bổ sung trang thiết bị và tập huấn cập nhật kiến
thức cho những người cung cấp dịch vụ dân số.
+ Nâng cao chất lượng công tác dự báo, lập kế hoạch; hoàn thiện hệ thống
hậu cần và tăng cường quản lý theo phân khúc thị trường, đảm bảo cung cấp đầy đủ,
kịp thời các phương tiện tránh thai cho chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình;
đẩy mạnh tiếp thị xã hội và bán rộng rãi các phương tiện tránh thai.
- Chính sách xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách về dân số: Tích cực rà
soát, nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về dân số, kiểm
soát mất cân bằng giới tính khi sinh, đặc biệt là các chính sách tác động nhằm giảm
thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh, nâng cao chất lượng dân số, duy trì mức sinh
thấp hợp lý, chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với thanh niên và người chưa thành
niên, bảo vệ và phát triển các dân tộc có nguy cơ suy thoái về chất lượng giống nòi.
- Chính sách xã hội hóa, phối hợp liên ngành và hợp tác quốc tế:
+ Huy động rộng rãi các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng
tham gia công tác truyền thông, giáo dục, cung cấp dịch vụ dân số.
+ Xây dựng và thực hiện lộ trình giảm dần mức độ bao cấp của Nhà nước.
+ Tăng cường hợp tác quốc tế, chủ động tham gia các tổ chức, chương trình
quốc tế về dân số; tích cực tranh thủ sự giúp đỡ về tài chính, kỹ thuật và kinh
nghiệm của các nước, các tổ chức quốc tế.
- Chính sách về đào tạo, nghiên cứu khoa học và thông tin số liệu:
+ Tăng cường đào tạo, tập huấn về quản lý, chuyên môn nghiệp vụ cho cán
bộ làm công tác dân số.
+ Ưu tiên hoàn thành việc đào tạo trình độ trung cấp dân số - y tế cho cán bộ

dân số - kế hoạch hóa gia đình cấp xã; đào tạo cô đỡ thôn, bản ở vùng khó khăn.
+ Từng bước thực hiện đào tạo chuyên sâu, đào tạo đại học và sau đại học về
dân số.
+ Tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học, phổ biến và ứng dụng các
kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và kỹ thuật về dân số, kiểm soát mất cân
bằng giới tính khi sinh, sức khỏe sinh sản.
14
+ Nâng cao chất lượng thu thập, xử lý thông tin số liệu trên cơ sở áp dụng
CNTT và hoàn thiện hệ thống các chỉ báo, chỉ tiêu; cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp
thời thông tin, số liệu phục vụ sự chỉ đạo, điều hành, quản lý công tác dân số.
- Các dự án của Chiến lược dân số:
+ Dự án Truyền thông chuyển đổi hành vi về dân số, kế hoạch hóa gia đình.
+ Dự án Đảm bảo hậu cần và cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình.
+ Dự án Nâng cao chất lượng giống nòi.
+ Dự án Nâng cao năng lực quản lý chương trình dân số, kế hoạch hóa gia
đình.
+ Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh.
+ Đề án Tổng thể nâng cao chất lượng dân số.
+ Đề án Kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển đến năm 2020 (đã
được phê duyệt tại Quyết định số 52/2009/QĐ-TTg ngày 09 tháng 4 năm 2009 của
Thủ tướng Chính phủ).
* Theo Chiến lược Việc làm Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Nhà nước ta đã
đưa ra và thực hiện các chính sách lao động, việc làm như sau:
- Mục tiêu Chiến lược:
+ Nâng cao chất lượng lao động (ví dụ như nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên
70% vào năm 2020, trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt trên 55% theo định
hướng của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội )
+ Tăng số lượng việc làm (ví dụ như quy mô việc làm tăng thêm khoảng 1
triệu lao động mỗi năm, phấn đấu tỷ lệ tăng trưởng việc làm khoảng 2%/năm, )
+ Cải thiện chất lượng việc làm (ví dụ như tốc độ tăng năng suất lao động bình

quân 4%/năm giai đoạn 2011-2020, tỷ trọng việc làm trong ngành nông nghiệp
giảm xuống còn 40% trên tổng số việc làm năm 2015 và 30% năm 2020, tăng tỷ lệ
lao động làm công ăn lương lên 65% vào năm 2020, )
- Hoàn thiện chính sách pháp luật về việc làm, tập trung vào sửa đổi, bổ sung
Bộ Luật lao động, xây dựng Luật Việc làm theo hướng bao phủ và điều chỉnh các
vấn đề liên quan đến việc làm, thị trường lao động; hoàn thiện cơ chế điều chỉnh
tiền lương; cải cách thể chế thị trường lao động theo hướng an ninh và linh hoạt
- Phát triển kinh tế xã hội thúc đẩy tạo việc làm, đảm bảo việc thực hiện các
chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách tài khoá và tiền tệ, chính sách hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp, các chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội địa phương hướng
tới mục tiêu tăng trưởng và việc làm bền vững.
+ Nâng cao chất lượng nguồn lao động đáp ứng nhu cầu của thị trường lao
động, đây cũng là một trong ba khâu đột phá trong Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội giai đoạn 2011-2020, trong đó tập trung vào việc nâng cao chất lượng giáo dục
đào tạo, bao gồm đào tạo nghề, gắn với nhu cầu của thị trường lao động; cải thiện
chất lượng, cải cách chương trình và đa dạng hoá các hình thức đào tạo; phát triển
kỹ năng nghề ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của doanh nghiệp.
15
+ Hỗ trợ kết nối cung - cầu lao động thông qua việc nâng cao năng lực của hệ
thống Trung tâm giới thiệu việc làm công, thành lập một hệ thống Trung tâm dịch
vụ việc làm công thống nhất từ Trung ương tới địa phương, đồng thời tiếp tục hoàn
thiện hệ thống thông tin thị trường lao động.
+ Hỗ trợ và đảm bảo sự tham gia của tất cả các nhóm đối tượng vào thị trường
lao động theo hướng tăng cường hiệu quả mở rộng phạm vi bao phủ của hệ thống
bảo trợ xã hội, các chính sách thị trường lao động thụ động (chính sách bảo hiểm
thất nghiệp, ), cải cách hệ thống an sinh xã hội.
+ Xây dựng và thực hiện một số chương trình, đề án cụ thể, như Đề án phát
triển nhân lực giai đoạn 2011-2020 để nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền
vững và lợi thế cạnh tranh quốc gia, Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và
dạy nghề giai đoạn 2012-2015, Chương trình việc làm công và một số Chương trình

mục tiêu quốc gia, các chương trình, đề án lớn khác có liên quan lĩnh vực việc làm
Từ góc độ XH học, phân tích và đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề về
dân số, lao động, việc làm
- XH theo nghĩa rộng (hệ thống) là toàn thể XH, toàn bộ XH; chỉ tất cả những
gì liên quan đến con người, đến XH loài người nhằm phân biệt nó với thế giới tự
nhiên. Đây là khái niệm chỉ cái chung, cái tổng thể, bao quát và xuyên suốt tất cả
các lĩnh vực hoạt động của con người, trong đó những vật thể tự nhiên được con
người cải tạo, biến đổi thành những thành tố, bộ phận của XH. Đại hội XI Đảng ta
đã xác định: XH.XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một XH dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
- XH theo nghĩa hẹp (tiểu hệ thống) là tập hợp người với những quan hệ của họ
tồn tại như là mục đích, mục tiêu, như những cái cần phải hướng tới của các hoạt
động như KT.CT.VH, tôn giáo, tín ngưỡng của họ. XH theo nghĩa hẹp thường được
sử dụng trong các khái niệm như phát triển XH, chính sách XH, đường lối XH và
trong khái niệm phát triển kinh tế - xã hội… Đại hội XI Đảng ta đã xác định: Tăng
trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công
bằng XH, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
- Vấn đề XH theo nghĩa rộng hay hẹp đều là những yếu tố gây trở ngại, khó
khăn cho sự phát triển bình thường của toàn XH hay một khía cạnh XH của XH, nó
ảnh hưởng xấu đến đời sống các thành viên trong XH; đồng thời vấn đề XH có thể
là yếu tố “bất thường” mới, khác lạ có thể làm biến đổi, thúc đẩy sự tiến bộ và phát
triển XH. Khi có các vấn đề xã hội phát sinh thì yêu cầu phải giải quyết thông qua
các biện pháp XH (chính sách XH)
- Chính sách là những quy định được thể chế hoá bởi cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền, là công cụ của các cơ quan nhà nước nhằm điều chỉnh những quan hệ KT,
CT, VH, XH của con người, giải quyết những vấn đề XH đang đặt ra, thực hiện
những mục tiêu đã được xác định.
- Chính sách XH là một loại chính sách nhằm điều chỉnh những quan hệ XH
của con người, giải quyết những vấn đề XH đang đặt ra, thực hiện bình đẳng, công
bằng, tiến bộ XH và phát triển toàn diện con người.

16
- Những vấn đề đặt ra cần quan tâm trong công tác dân số, lao động, việc làm
+ Vấn đề đông dân nhưng phân bố không đều: mặc dù nước ta đã giảm tỷ lệ
tăng dân số bình quân hàng năm từ 2,1% (năm 1989) xuống còn 1,2% (năm 2009)
nhưng về quy mô dân số vẫn đứng thứ 3 khu vực Asean (sau Indo, Phi) và thứ 13
thế giới. Dân cư tập trung đông với mật độ cao nhất ở ĐBSH (930 người /1km
2
)
nhưng lại thưa thớt ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; Tây Nguyên chỉ 93 người /1km
2
.
Cơ cấu dân số tập trung nhiều ở nông thôn với hơn 70% và thành thị chỉ gần 30%
tổng số dân cư. Đây là cơ cấu dân số của những nước còn đang trong giai đoạn thấp
của quá trình phát triển.
→ Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề này ……
+ Vấn đề mát cân bằng giới tính khi sinh: Năm 1961 có 31 triệu dân thì năm
2013 là 90 triệu dân, trong đó tỷ lệ 113,8 bé trai chỉ có 100 bé gái. Dự báo năm
2050 dân số nước ta khoảng 115-120 triệu người, trong đó chênh lệch khoảng 2,3
đến 4,3 triệu nam giới không có phụ nữ người Việt trong nước để kết hôn. Nguyên
nhân chủ yếu do tư tưởng trọng nam khinh nữ, muốn có con trai nỗi dõi, sự phát
triển tràn lan các dịch vụ siêu âm giới tính thai nhi sớm, không kiểm soát được các
dịch vụ nạo phá thai tư nhân…
→ Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề này ……
+ Vấn đề già hoá dân số và chăm sóc người cao tuổi (thọ nhưng không khoẻ).
Cơ cấu dân số theo giới tính và nhóm tuổi cho thấy xu hướng già hoá dân số ngày
càng tăng. Mức sinh liên tục giảm 15 năm qua làm cho nhóm dân số tuổi dưới 15
đều giảm trong khi tuổi thọ trung bình ngày càng tăng, mức độ tử của dân số giảm
làm nhóm người cao tuổi tăng. Năm 2009 tỷ trọng dân số có độ tuổi dưới 15 và từ
65 tuổi trở lên chiếm khoảng 32%; đây là tỷ trọng dân số phụ thuộc cũng tạo áp lực
lớn cho Nhà nước và xã hội.

→ Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề này ……
+ Vấn đề về giảm sinh chưa vững chắc, tình dục an toàn…
→ Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề này ……
+ Vấn đề thiếu việc làm: Lao động nước ta hiện được đánh giá là giai đoạn
vàng về nguồn nhân lực. Năm 2009 tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động (từ 18
đến 59 tuổi) chiếm khoảng 64% nhưng chất lượng tay nghề thấp và còn nhiều bất
cập khác cũng tạo sức ép làm tăng nạn thất nghiệp, thiếu việc làm. Ở nông thôn 1/3
lao động thiếu việc làm; không tìm được việc làm do không được đào tạo nghề và
kỹ năng lao động kém. Xuất khẩu lao động quản lý không tốt nên bị lợi dụng, lừa
đảo, gây thiệt hại trong dân. Thị trường lao động trong nước dần bị bên ngoài chiếm
lĩnh; đến nay số lao động nước ngoài làm việc trong các DN FDI tại các tỉnh phía
Nam đến từ hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó TPHCM khoảng 17 ngàn
người và các tỉnh Đông Nam bộ là 24,3 ngàn lao động; có tới 53% chưa được cấp
phép và các DN FDI cũng không thực hiện việc khai báo sử dụng lao động nước
ngoài; ở Đồng Nai trong số hơn 53 ngàn lượt người nước ngoài tạm trú thì chỉ có
2.229 lượt khai báo vì mục đích lao động, còn lại khai báo đi du lịch; tại KCN khí
điện Cà Mau có 3,7 ngàn lao động thì có tới 1,73 ngàn lao động nước ngoài và cũng
17
chỉ có 677 người được cấp phép lao động.
Chính phủ cần phải có những chính sách giáo dục, đào tạo, phát triển kỹ năng
nghề nghiệp, phân bố lại lao động, tạo việc làm, thực hiện những chính sách XH
thích hợp nhằm giải quyết vấn đề đang đặt ra cấp bách hiện nay.
Giải quyết vấn đề dân số hiện nay cần chú ý đến chính sách về lao động trong
thời kỳ dân số vàng. Đây là cơ sở để hoạch định các chính sách phát triển KTXH
bền vững, Việc làm phải được coi là chính sách XH cần quan tâm thực hiện; thiếu
việc làm, thất nghiệp chính là 1 trong các nguyên nhân gây bất bình ổn XH, ảnh
hưởng đến an sinh của mọi gia đình và cộng đồng
Chính sách việc làm cho người lao động hiện nay là:
+ Đầu tư hỗ trợ những ngành, những lĩnh vực thu hút nhiều lao động.
+ Tăng cường đào tạo nghề, nâng cao tay nghề cho người lao động theo yêu

cầu của phát triển sản xuất.
+ Nâng cao hiệu quả của các Trung tâm xúc tiến việc làm.
+ Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ, tạo thêm nhiều việc
làm cho thanh niên nông thôn.
+ Đẩy mạnh các chương trình xuất khẩu lao động.
+ Từng bước thực hiện kế hoạch chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho NLĐ
18

×