Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và thích nghi ở kiên giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.28 KB, 34 trang )


VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
BỘ MÔN : Môi Trường Học Cơ Bản
GVHD : GS. TSKH Lê Huy Bá
Sinh viên : Huỳnh Đức Thiện

MSSV : 0771139
TPHCM 7- 2009
LỜI MỞ ĐẦU
1
Bước vào thế kỷ XXI , cùng với nhịp độ phát triển nhanh, mạnh mẽ của kinh
tế , con người chúng ta cũng phải đang đứng trước những thách thức lớn về vấn
đề gia tăng dân số ,bùng nổ dân số ,dân tộc….thì vấn đề về môi trường cũng đóng
vai trò đặc biệt quan trọng , vấn đề này được nhiều quốc gia , lãnh thổ và toàn cầu
vô cùng quan tâm. Hiện nay ,nó ngày càng cấp thiết hơn, đòi hỏi sự hợp tác của
nhiều quốc gia đặc biệt là vấn đề về sự thay đổi của khí hậu, mà nguyên nhân chủ
yếu là lượng khí thải nhà kính đã làm biến đổi lớn khí hậu thế giới. Đối với Việt
Nam thì lượng khí thải thải ra gây nên hiệu ứng nhà kín không đáng kể như các
nước công nghiệp phát triển nhưng lại chịu ảnh hưởng lớn của sự biến đổi này ,
nhiều chính sách môi trường được nhà nước ta đề ra nhằm giảm bớt ảnh hưởng
này làm cho thiệt hại ở mức thấp nhất ,đảm bảo đời sống nhân dân bớt ảnh hưởng.
Do đó công tác nghiên cứu đánh giá là rất cần thiết đối với vấn đề biến đổi khí hậu
. Được sự giúp đỡ của GS.TSKH Lê Huy Bá tôi được tìm hiều đề tài “ Ảnh Hưởng
Của Biến Đổi Khí Hậu Và Thích Nghi Ở Kiên Giang” để tìm hiểu về vấn đề thay
đổi khí hậu ở Kiên Giang vùng đất chịu ảnh hưởng nặng của biến đổi khí
hậu.Trong quá trình tìm hiểu khó tránh những sai sót mong thầy và các bạn bỏ
qua.
Xin chân thành cảm ơn !
2
I. khái quát chung về biến đổi khí hậu ờ Việt Nam
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn


cầu hay khu vực theo thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm (IPCC,2007
[6]) Những biến đổi này được gây ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ
mặt trời, và gần đây có thêm hoạt động của con người(chiếm 90% theo báo cáo
gần đây của Liên Hiệp Quốc và 10% là do tự nhiên) . BĐKH trong thời gian thế
kỷ 20 đến nay được gây ra chủ yếu do con người, do vậy thuật ngữ BĐKH (hoặc
còn được gọi là sự ấm lên toàn cầu-global warming) được coi là đồng nghĩa với
BĐKH hiện đai. Những nghiên cứu gần đây cho thấy việc phát xả khí nhà kính
(chủ yếu là CO2 và Metan CH4) là nguyên nhân hàng đầu của BĐKH, đặc biệt kể
từ 1950 khi thế giới đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và tiêu dùng, liên quan với
điều đó là sự tăng cường sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, sản
xuất xi măng, phá rừng và gia tăng chăn nuôi đại gia súc (phát xả nhiều phân gia
súc tạo ra nguồn tăng Metan), khai hoang các vùng đất ngập nước chứa than bùn.
Biến đổi khí hậu kéo theo các hiện tượng như : hiện tượng El Nino , thủng tầng
ozon , trái đất nóng dần lên.Và Việt Nam là một trong số các nước chịu ảnh hưởng
nặng nề của biến đổi khí hậu.
Theo số liệu quan trắc biến đổi khí hậu ở Việt Nam được ghi nhận như sau
S %S
Nhiệt độ : 0.3- 0.5
0
C 1 - 3
Lượng mưa: 200 – 1000mm 10 - 30
Mùa lạnh: (< 1\2 tháng )
Mùa khô (< 1 tháng)
Mực nước biển 4.74 cm 2.5
3
Hình1 : biến đổi mực nước biển ở Đông Nam Á
Xu thế biến đổi đã quan trắc được
Nhiệt độ: tăng 0,1 – 0,3 °C /thập kỷ
Lượng mưa: không nhất quán
Mực nước biển: dâng 0,19cm/năm

Dự kiến biến đổi trong thế kỷ 21
Nhiệt độ: tăng 3,7 – 4,2°C
Mưa mùa mưa: tăng 3,6 – 4,6%
Mưa mùa khô: tăng 3,8 – 4,6%
Mưa năm: tăng 3,0 – 14,6%
Mực nước biển: dâng 40 – 60 cm
Kịch bản / năm 2050 2100
A1F1 13,7 39,7
A2 12,5 33,1
A1B 13,3 31,5
B2 12,8 28,8
A1T 12,7 27,9
B1 13,4 26,9
4
Bảng :kịch bản nước biển dâng tại Việt Nam
Nhiệt độ trung bình được đánh giá là tăng 2.5oC vào năm 2070, nhiệt độ trung
bình trên đất liền (tập trung chủ yếu vào khu vực cao nguyên) sẽ tăng 2.5oC, trong
khi đó nhiệt độ trung bình tại khu vực ven biển sẽ tăng 1.5oC. Các ảnh hưởng có
thể của việc tăng nhiệt độ nêu trên sẽ tác động đến một vùng rộng lớn của đất
nước, gây ra hạn hán, các sản phẩm nông nghiệp sẽ bị mất mùa nghiêm trọng,
các dịch bệnh sẽ tăng và lan truyền nhanh dọc theo đất nước bên cạnh các ảnh
hưởng nghiêm trọng khác.
Giá trị trung bình nhiệt độ cao và thấp hàng năm dự kiến cũng sẽ tăng. Số ngày
với nhiệt độ cao hơn 25oC cũng sẽ tăng. Sự tăng nhiệt độ này sẽ ảnh hưởng đáng
kể đến các hệ sinh thái của đất nước, mùa màng và sức khỏe của nhân dân.
Các vùng miền bắc và miền nam sẽ chịu tác động của gió mùa tây nam nhưng
lượng mưa mùa sẽ giảm trong tháng 7 và tháng 8 và tăng trong tháng 9, tháng 10
và tháng 11. Ở vùng miền trung, lượng mưa sẽ tăng khoảng 19% trong mùa mưa
vào năm 2070.
Lượng bốc hơi cũng sẽ tăng do nhiệt độ tăng. Do lượng mưa sẽ tập trung vào mùa

mưa, lượng mưa trong mùa khô sẽ giảm vào năm 2070 ở miền trung Việt Nam và
hạn hán sẽ xuất hiện thường xuyên hơn.
Mực nước biển ở Việt Nam tăng 5 cm trong vòng 30 năm qua. Mực nước biển
được dự kiến là tăng đến 9 cm trong năm 2010, 33 cm trong năm 2050, 45 cm
trong năm 2070 và 1m vào năm 2100.
Trong quá khứ các cơn bão đổ bộ vào Việt Nam vào tháng 8 ở miền Bắc và tháng
10 ở miền Trung và tháng 12 ở miền Nam. Nhưng mùa bão sẽ xuất hiện muộn hơn
và chuyển dần về phía nam trong các năm gần đây.
BĐKH sẽ dẫn đến sự tăng của nhiệt độ bề mặt nước biển tại các vùng vĩ độ cao
của Thái Bình Dương. Điều này sẽ làm cho xuất hiện nhiều bão hơn trong vùng
tây bắc Thái Bình Dương, tác động đến Việt Nam,
5
Trong những thập kỷ tới, nhiệt độ bề mặt của nước biển sẽ được dự báo là tăng,
dẫn đến tốc độ gió trong bão tăng lên và thời gian tồn tại của tốc độ gió lớn sẽ
tăng. Cường độ bão sẽ tăng, đặc biệt là trong các năm El Nino.
Mô phỏng về nhiệt độ, lượng mưa và thay đổi mực nước biển trong các vùng khác
nhau được thể hiện tại bảng dưới đây. Theo các kịch bản này, đến năm 2070, nhiệt
độ bề mặt trung bình sẽ tăng từ 1.5oC đến 2.5oC ; biến đổi lượng mưa sẽ dao động
khoảng -5% đến +10%. Kịch bản của mực nước biển dâng cao 1m vào năm 2100
được dự kiến.
II. Kiên Giang – Vùng Đất Đồng Bằng Sông Cửu Long Chịu Ảnh
Hưởng Biến Đổi Khí Hậu
II.1 khái quát về tỉnh Kiên Giang
Kiên Giang là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông cửu long, có vị thế giáp biển,
trông ra Vịnh Thái Lan, là tỉnh rất giàu tiềm năng về thủy sản, khoáng sản, lâm sản
và du lịch…
- Vị trí địa lý và phân bố dân cư
Kiên Giang là vùng đất tận cùng ở phía Tây Nam của Tổ quốc. Phía Đông và
Đông Nam giáp với tỉnh An Giang và Cần Thơ, phía Nam giáp tỉnh Cà Mau và
Bạc Liêu, phía Tây Nam giáp vịnh Thái Lan, phía Bắc giáp Cam-pu-chia.Ngoài ra

còn có hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ ngoài vịnh.
6
Hình 2 : Đảo ở Kiên Giang
Kiên Giang có diện tích tự nhiên 6.269 km
2
, dân số gần 1,7 triệu người. Trong đó
dân tộc Kinh: 84,41%; Khmer: 12,23%; Hoa: 2,97%. Dân số của tỉnh phân bố
không đều, thường tập trung ở ven trục lộ giao thông, kênh rạch, sông ngòi và một
số đảo. Theo kế hoạch dân số, phấn đấu hạ tỷ lệ sinh hàng năm từ 0,5-0,6‰ giai
đoạn 2001-2005 và giảm 0,4‰ giai đoạn 2006-2010 thì qui mô dân số toàn tỉnh
đến 2005 là 1.689.745 người và đến năm 2010 hơn 1.834.000 người.
Kiên Giang là tỉnh có nhiều thế mạnh về nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp vật
liệu xây dựng và du lịch.
7
Hinh3: Bản Đồ tỉnh Kiên Giang
- Đơn vị hành chính
Kiên Giang có 14 đơn vị hành chính cấp huyện, thị: Thành phố Rạch Giá, thị Xã
Hà Tiên, huyện Kiên Lương; huyện Hòn Đất, huyện Tân Hiệp, huyện Châu
Thành, huyện Giồng Riềng, huyện Gò Quao, huyện An Biên, huyện An Minh,
huyện Vĩnh Thuận, huyện Phú Quốc, huyện Kiên Hải và huyện U Minh Thượng
- Khí hậu .
Kiên Giang có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm 27ºC - 27,5ºC;
quanh năm không quá nóng và quá lạnh. Khí hậu 2 mùa rõ rệt, mùa khô từ tháng
11 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10.
- Tài nguyên đất
Tỉnh Kiên Giang có 626.904 ha diện tích đất tự nhiên. Trong đó, diện tích đất
nông nghiệp là 402.644 ha, chiếm 64,22%; diện tích đất lâm nghiệp có rừng là
122.774, chiếm 19,58%, diện tích đất chuyên dùng là 35.412 ha, chiếm 5,65%;
diện tích đất ở là 10.090 ha, chiếm 1,61% và diện tích đất chưa sử dụng và sông
suối đá là 55.984 ha, chiếm 8,93%. Trong đất nông nghiệp, diện tích đất trồng cây

8
hàng năm là 327.468 ha, chiếm 81,33%, riêng đất lúa có 315.452 ha, chiếm
96,33% diện tích đất nông nghiệp; diện tích đất trồng cây lâu năm là 37.101 ha,
chiếm 9,24%; diện tích đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 8.801 ha, chiếm
2,18%.Diện tích đất trống, đồi núi trọc cần phủ xanh là 7.582 ha, diện tích đất
bằng chưa sử dụng là 35.485 ha, diện tích đất có mặt nước chưa được khai thác và
diện tích đất chưa sử dụng khác là 6.446 ha.
- Tài nguyên nước
Nguồn nước mặt khá dồi dào, nhưng đến mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10) phần
lớn nước mặt của tỉnh đều bị nhiễm phèn mặn, do vị trí ở cuối nguồn nước ngọt
của nhánh sông Hậu, nhưng lại ở đầu nguồn nước mặn của vịnh Rạch Giá. Toàn
tỉnh có 3 con sông chảy qua: Sông Cái Lớn (60 km), sông Cái Bé (70 km) và sông
Giang Thành (27,5 km) và hệ thống kênh rạch chủ yếu để tiêu nước về mùa lũ và
giao đi lại, đồng thời có tác dụng tưới nước vào mùa khô.
- Tài nguyên biển
Kiên Giang có 200 km bờ biển với ngư trường khai thác thủy sản rộng
63.000km
2
. Theo điều tra của Viện nghiên cứu biển Việt Nam thì trữ lượng tôm
cá ở đây khoảng 464.660 tấn trong đó vùng ven bờ có độ sâu 20-50 m có trữ lượng
chiếm 56% và trữ lượng cá tôm ở tầng nổi chiếm 51,5%, khả năng khai thác cho
phép bằng 44% trữ lượng, tức là hàng năm có thể khai thác trên 200.000 tấn.
Ngoài ra tỉnh đã và đang thực hiện dự án đánh bắt xa bờ tại vùng biển Đông Nam
bộ có trữ lượng trên 611.000 tấn với sản lượng cho phép khai thác 243.660 tấn
chiếm 40% trữ lượng.
- Tài nguyên khoáng sản
Có thể nói Kiên Giang là tỉnh có nguồn khoáng sản dồi dào bậc nhất ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Qua thăm dò điều tra địa chất tuy chưa đầy đủ nhưng đã xác
định được 152 điểm quặng và mỏ của 23 loại khoáng sản thuộc các nhóm như:
Nhóm nhiên liệu (than bùn), nhóm không kim loại (đá vôi, đá xây dựng, đất

sét…), nhóm kim loại (sắt, Laterit sắt…), nhóm đá bán quý (huyền thạch anh -
opal…), trong đó chiếm chủ yếu là khoáng sản không kim loại dùng sản xuất vật
9
liệu xây dựng, xi măng. Riêng về đá vôi có hơn 20 ngọn núi với trữ lượng khoảng
hơn 440 triệu tấn, có một số núi đá vôi cần giữ lại di tích lịch sử, thắng cảnh và
yêu cầu quân sự, nên trữ lượng để dùng cho sản xuất vật liệu xây dựng là hơn 245
triệu tấn, với nguyên liệu này đủ để sản xuất 2,8-3 triệu tấn Clinker/năm trong thời
gian trên 50 năm.
- Tiềm năng du lịch
Kiên Giang có nhiều thắng cảnh và di tích lịch sử nổi tiếng như: Hòn Chông, Hòn
Trẹm, Hòn Phụ Tử, núi Mo So, bãi biển Mũi Nai,Thạch Động, Lăng Mạc Cửu,
Đông Hồ, Hòn Đất, rừng U Minh, đảo Phú Quốc… Kiên Giang còn hướng tới
phát triển du lịch sinh thái vùng U Minh lịch sử, có hương của rừng tràm và vườn
chim thiên nhiên, với những món ăn đặc sản rừng U Minh .
II.2 Tác Động Của Biến Đổi Khí Hậu Đến Kiên Giang – Vùng Đất ĐBSCL
ĐBSCL có địa hình bằng phẳng, phần lớn có cao độ trung bình từ 0,7-1,2 m,
ngoại trừ một số đồi núi cao ở phía Bắc đồng bằng thuộc tỉnh An Giang. Dọc theo
biên giới Campuchia có địa hình cao hơn cả, cao trình từ 2,0-4,0 m, sau đó thấp
dần vào đến trung tâm đồng bằng ở cao trình 1,0-1,5 m, và chỉ còn 0,3-0,7 m ở
khu vực giáp triều, ven biển.
Vùng tả sông Tiền, địa hình dạng lòng máng trũng có hướng dốc từ Tây-Bắc
xuống Đông-Nam. Vùng giữa hai sông Tiền-Hậu, phù sa sông cũng bồi đắp hình
thành nên hai dãy bờ sông cao ven sông rồi thấp dần vào nội đồng tạo thành lòng
máng trũng ở giữa. Vùng hữu sông Hậu nhìn chung có hướng dốc Đông-Tây, từ
phía sông Hậu thấp dần về phía biển Tây.
Ven bờ biển thường do hoạt động của hải lưu, gió và phù sa sông, tạo thành các
giồng cát cao ven biển có hình cung lồi ra phía biển, nằm xen kẽ các vùng trũng
thấp ngập triều.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất thấp ven biển của Việt Nam sẽ
là khu vực bị tác hại nặng nề nhất do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra.

Trong các tháng mùa khô , nhiều tỉnh vùng ĐBSCL đang bị nước biển xâm
nhập mặn sâu làm thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp, nhiều khu vực đã thiếu nước
10
ngọt phục vụ sinh họat ĐBSCL là vùng trũng nên bị ảnh hưởng nhiều nhất khi
xảy ra ngập lụt, xâm nhập mặn và các hiện tượng thời tiết xấu. Theo dự đoán của
Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), các tác động trên sẽ gây thiệt
hại khoảng 17 tỉ đồng mỗi năm và khiến khoảng 17 triệu người không có nhà. Còn
Văn phòng quản lý điều tra tài nguyên biển và môi trường (thuộc Bộ Tài nguyên
và Môi trường) dự báo: mực nước biển ở Việt Nam sẽ dâng cao từ 3- 15 cm vào
năm 2010, dâng từ 15 - 90 cm vào năm 2070. Các vùng ảnh hưởng là Kiên Giang,
Tiền Giang,huyện Kiên Lương; huyện Hòn Đất… Là vùng đất thuần về nông
nghiệp lại là vựa lúa lớn nhất nước nên vấn đề khí hậu , đất đai, hệ thống nước với
vùng là hết sức quan trọng .
Việc đánh giá tác động biến đổi khí hậu bao gồm các tác động sau:
11
ài
Bảng: thể hiện các lĩnh vực đáng giá biến đổi khí hậu
II.3 Vấn Đề Về Lũ , Bão, Hạn Hán , Nước Biển Dâng
12
Tác động của BĐKH đối với thiên tai, con người, cây trồng và vật nuôi, như làm
tăng tần số, cường độ, tính biến động và tính cực đoan của các hiện tượng thời tiết
nguy hiểm như bão, tố, lốc , các thiên tai liên quan đến nhiệt độ và mưa như thời
tiết khô nóng, lũ lụt, ngập úng hay hạn hán, xâm nhập mặn,, các dịch bệnh trên
người, trên gia súc, gia cầm và trên cây trồng. Thay đổi, biến động ranh giới giữa
các vùng mặn, lợ, ngọt sẽ tác động lớn đến hệ thống canh tác truyền thống, cơ
sở hạ tầng và đời sống xã hội của người dân. Môi trường bị đảo lộn. Mặn xâm
nhập sâu, thiếu nguồn nước ngọt trầm trọng. Các hiện tượng xói lở và xâm thực bờ
biển, cửa sông sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn
Ta có bảng so sánh các vùng chịu ảnh hưởng nặng do nước biển dâng như sau
Từ bảng trên ta thấy diện tích Kiên Giang bị ngập cũng khá đáng kể ( chiếm

28.2%) tổng diện tích.
Đồng bằng sông Cửu Long trước đây rất ít hứng chịu bão. Thế nhưng trong một
thập kỷ, năm 1997 đã chịu cơn bảo Linda và năm 2006 đã bị đuôi bão Durion quét
qua.Nhiều nghiên cứu gần đây tìm mối tương quan giữa việc bão ở Tây Thái Bình
13
Dương có xu hướng xảy ra thường xuyên hơn sau tháng 10 dương lích và đi về
hướng đường xích đạo, với nhiệt độ nước biển trên bề mặt tăng, kết quả của dòng
hải lưu bị thay đổi bởi biến đổi khí hậu toàn cầu.

Hình 4: Cơn bảo NARGIS quét qua châu thổ IRRAWADDY (Myanmar) tháng
5/2008
14
Hình 5: cơn bão Dorion đã gây ra ở Đồng bằng sông Cửu Long
Cơn bảo NARGIS quét qua châu thổ IRRAWADDY (Myanmar) tháng 5/2008
và hậu quả nặng nề mà cơn bảo đã gây ra là một cảnh báo đối với Đồng bằng sông
Cửu Long. Tàn phá mà đuôi cơn bão Dorion đã gây ra ở Đồng bằng sông Cửu
Long sẽ còn lớn lao hơn và khắc nghiệt hơn nhiều nếu mực nước biển dâng lên so
với hiện nay .
Tác động của BĐKH đối với tài nguyên nước, như chế độ mưa thay đổi có thể
gây lũ lụt nghiêm trọng vào mùa mưa và hạn hán vào mùa khô, gây khó khăn cho
việc cấp nước và tăng mâu thuẫn trong sử dụng nước.Ngành Khí tượng Thuỷ văn
các tỉnh ĐBSCL còn cho biết: trong các đợt triều cường từ cuối năm 2008 đến đầu
năm 2009 đã làm cho vùng ngoài đê bao 8 tỉnh, thành vùng lũ gồm: An Giang,
Kiên Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ
bị ngập. Ngoài ra, triều cường làm nước sông dâng cao đã làm khoảng 70.000 ha
vườn cây ăn trái, hàng trăm km đường nông thôn bị ngập sâu từ 10 – 30 cm. Quốc
lộ 53 thuộc địa phận thị trấn huyện Long Hồ cũng bị ngập trên chiều dài 200 mét,
sâu 15 cm. Hàng trăm nhà dân chưa kịp tôn nền cũng bị ngập. Trước đó, đợt triều
cường kết hợp mưa nhiều thời điểm giữa tháng 12/2008 làm 100.000 ha nằm ngoài
các đê bao tại ĐBSCL bị ngập từ 10 – 40 cm, chủ yếu là vườn cây ăn trái. Nước

ngập xảy ra ngay trong mùa khô gây trở ngại trong sản xuất, sinh hoạt của người
dân sống ngoài vùng đê bao.Vào mùa mưa, trong những năm qua thường đến sớm,
kéo dài và kết thúc muộn, chứ không còn theo quy luật của mấy chục năm trước.
Trong năm 2007, 2008, mùa mưa kéo dài mãi đến tháng 12 và tháng 1 năm sau,
muộn hơn mấy năm trước hơn 1 tháng. Mùa lũ cũng có độ trễ, đỉnh lũ thường xuất
hiện muộn. Hàng năm, đỉnh lũ xuất hiện vào cuối tháng 9 đầu tháng 10, thì từ năm
2006 tới giữa tháng 10 mới xuất hiện đỉnh lũ. Tình trạng mưa kéo dài, lũ về đạt
đỉnh muộn và trùng vào lúc triều cường hàng tháng khiến cho vùng hạ lưu nhiều
nơi bị ngập.
15
Hình 5 : bảng đồ thể hiện mực nước ở ĐBSCL
Theo dự báo, trong vài chục năm tới, ĐBSCL nước biển sẽ dâng cao làm ngập
lụt phần lớn ĐBSCL vốn đã bị ngập lụt hàng năm, dẫn đến mất nhiều đất nông
nghiệp. Sẽ có từ 15.000 – 20.000 km2 đất thấp ven biển bị ngập hoàn toàn. Lưu
lượng nước sông Mê kông giảm từ 2 – 24% trong mùa khô, tăng từ 7- 15% vào
mùa lũ. Hạn hán sẽ xuất hiện nhiều hơn. Nước lũ sẽ cao hơn tại các tỉnh An Giang,
Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, TP Cần Thơ, Hậu
Giang; thời gian ngập lũ tại đây sẽ kéo dài hơn hiện nay. Việc tiêu thoát nước mùa
mưa lũ cũng khó khăn. Suy giảm tài nguyên nước sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sản xuất nông nghiệp, nghề cá.
Độ
ngập(m)
Hiện
trạng
Không có công trình Có công trình hiện trạng
Nước biển
dâng(NBD)0.69
NBD 1m Nước biển
dâng(NBD)0.69
NBD 1m

16
Diện
tích
Diện
tích
So với
hiện
trạng(HT)
Diện
tích
HT Diện
tích
HT Diện
tích
HT
H<0.5 1.049 289 -761 51 -998 202 -848 47 -
1.002
0.5<H<=1 1.063 645 -418 629 -435 604 -459 496 -567
1<H<=1.5 724 998 274 451 -273 1.007 284 421 -302
1.5<H<=2 459 1.156 697 1.738 1.279 1.270 811 1.880 1.421
2<H<=2.5 288 410 121 568 280 414 126 592 304
2.5<H<=3 212 281 69 323 111 281 69 323 111
H>3 66 84 17 102 36 84 18 102 36
Tổng diện
tích
ngập >0,5
2.813 3.574 3.812 3.660 3.815
Bảng :thể hiện kết quả tính toán độ ngập và diện tích ngập lũ ở DBSCL
Theo kỹ sư Nguyễn Văn Hạnh, dự tần suất bão và áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) đổ
vào Kiên Giang trung bình nhiều năm trước đây chỉ có 0,2 cơn/năm. Tuy nhiên xu

thế BĐKH toàn cầu và hiện tượng ấm dần lên của trái đất trong những năm gần
đây đã làm thay đổi điều đó. Trong 22 năm gần đây (1980-2001), có tất cả 35 cơn
bão và ATNĐ ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực từ 13o vĩ Bắc đến khu vực mũi Cà
Mau – Kiên Giang và vịnh Thái Lan (tỷ lệ tăng gấp 8 lần trước đây). Gây thiệt hại
lớn nhất là cơn bão số 5 năm 1997 có tâm bão đi qua đảo Thổ Chu-Phú Quốc,
Kiên Giang và vịnh Thái Lan, làm khoảng 3.000 người chết và mất tích.
Kiên Giang đối mặt khô hạn trong “mùa mưa” Tình hình nắng hạn liên tục đã
làm khoảng 9000ha của nông dân các vùng U Minh Thượng ( kiên giang) bị chết
khô , trong đó có trên 1000ha lúa bị thiệt hại từ 50 – 100%.
Kiên Giang thuộc tiểu vùng C nếu chia ĐBSCL chia làm ba tiểu vùng dựa vào
kết quả điều tra cơ bản tổng hợp và đối chiếu với thực tế sản xuất, kinh tế-xã hội ta
17
có thể dự báo định tính tác động của mực nước biển dâng lên ba tiểu vùng như
sau.
Hình 6 : tiểu vùng ĐBSCL dưói tác động của nước biển dâng
- Tiểu vùng nơi ảnh hưởng nguồn chiếm ưu thế (A):
Đó là các tỉnh giáp biên giới Cam-pu-chia, là nơi hai nhánh sông Mêkông và sông
Bassac đi vào lãnh thổ Việt Nam và lũ sông Mê-kông tràn bờ và tràn đồng vào
Đồng bằng sông Cửu Long.Tiểu vùng này chịu tác động về môi trường tự nhiên
của mực nước biển dâng nhưng không mạnh như hai tiểu vùng B và C. Do quá
trình biển mạnh lên do biển dâng, ranh dưới của tiểu vùng sẽ lùi về phía nguồn, độ
sâu ngập vào mùa lũ sẽ sâu hơn và thời gian ngập cũng có thể kéo dài hơn. Bồi lở
bờ sông, cồn bãi hoạt động mạnh hơn.
- Tiểu vùng chịu ảnh hưởng hỗn hợp biển và nguồn (B):
Đây là địa bàn thể hiện rõ rệt nhất sự giao thoa giữa hai quá trình sông và biển, với
quá trình biển mạnh lên.
Tiểu vùng chịu sự tác động về môi trường tự nhiên mạnh dần theo hướng từ nguồn
ra biển. Diện tích của tiểu vùng bị thu hẹp lại.
- Tiểu vùng nơi ảnh hưởng biển chiếm ưu thế (C):
18

Kiên Giang và một số tỉnh trong tiểu vùng chịu ành hưởng mạnh của nước biển
dâng.Đây là vùng duyên hải của các tỉnh giáp với Biển Đông và Vịnh Thái
Lan.Tiểu vùng này chịu tác động về môi trường tự nhiên của mực nước biển dâng
trực tiếp nhất. Hệ sinh thái bãi triều và rừng ngập mặn qua gánh chịu các tác động
sẽ thể hiện vai trò “đệm” giảm sóng, phòng hộ và giữ đất. Tình hình xói lở đường
bờ sẽ mạnh hơn. Tình hình bồi lắng ở các cửa sông sẽ thay đổi. Đường ranh với
tiểu vùng (B) sẽ bị “đẩy lên” về phía nguồn. Quy hoạch thủy lợi, đê bao ven biển
cần được tính toán lại với những tham số mới của phân vùng thủy văn thủy lực
trong tiểu vùng.
Về mặt kinh tế - xã hội, khu vực I tại đây, đã thích ứng từ trước với điều kiện ngập
theo triều và nhiễm mặn hầu như quanh năm, sẽ thay đổi theo hướng “kinh tế nước
mặn” là chính. Vùng sản xuất lúa sẽ bị co lai. Khu vực II, khu vực III và đời sống,
sinh hoạt của người dân sẽ khó khăn hơn do độ ngập tăng và khan hiếm nguồn
nước ngọt. Nguồn nước ngọt tại đây chỉ trông chờ vào nước mưa và nước ngầm.
Đầu tư cho cơ sở hạ tầng để tôn cao và bảo vệ công trình sẽ tốn kém không ít. Vì
những lý do đó, một bộ phận dân cư có thể sẽ dịch chuyển ra ngoài tiểu vùng. Vấn
đề lớn nhất của tiểu vùng là bảo vệ các thành quả của lao động quá khứ.
II.4 Vấn Đề Về Nông Nghiệp
Tác động của BĐKH đối với nông nghiệp và an ninh lương thực, như tác động
đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan
sâu bệnh hại cây trồng, ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng của gia súc, gia cầm,
làm tăng khả năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc, gia cầm, gây nguy cơ thu
hẹp diện tích đất nông nghiệp .
Chuyện đất nóng lên tại Kiên Giang đã được một chuyên gia khí tượng , khí hậu
địa phương đưa ra số liệu để chứng minh. “Qua số liệu quan trắc của trạm khí
tượng hải văn Phú Quốc – Kiên Giang từ năm 1956 đến năm 1977 (22 năm) so
sánh với quãng thời gian 27 nam sau đó (1977 -2003) thì nhiệt độ trung bình tăng
lên 0.4 độ C , kỹ sư Nguyễn Văn Hạnh.
19
Sẽ có từ 15.000-20.000 km2 đất thấp ven biển bị ngập hoàn toàn. Lưu lượng

nước sông Mê Công giảm từ 2-24% trong mùa khô, tăng từ 7- 5% vào mùa lũ.
Hạn hán sẽ xuất hiện nhiều hơn. Nước lũ sẽ cao hơn tại các tỉnh An Giang, Đồng
Tháp, Long An, Tiền Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, thành phố Cần Thơ, Hậu
Giang; thời gian ngập lũ tại đây sẽ kéo dài hơn hiện nay.nước mặn từ 6 cửa sông
nói trên và cửa Cổ Chiên (thuộc hệ thống sông Mê kông); từ cửa sông Ông Đốc,
Cái Lớn đã xâm nhập sâu từ 10 – 60 km đến địa bàn 53 xã thuộc các tỉnh: Long
An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Cà Mau,
Vĩnh Long, Hậu Giang. Hiện một số địa phuơng trong vùng ĐBSCL đã xuất hiện
tình trạng thiếu nước ngọt trầm trọng. Hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng sẽ chịu tác
động xấu khi chế độ nước ngập sâu bị thay đổi do nước biển dâng cao. Quá trình
xâm nhập mặn ở mức độ cao có thể hủy diệt thảm thực vật và tính đa dạng sinh
học của hệ sinh thái rừng tràm ở Cà Mau, Kiên Giang
Trong tương lai, tổng lượng mưa Hè thu từ 15-5 đến 15-6 sẽ giảm, hạn đầu vụ
sẽ gay gắt hơn, lượng mưa giảm dưới từ 5% đến trên 35% và phân bố bất lợi cho
sản xuất. Vùng ven biển mưa giảm, khả năng mặn xâm nhập gia tăng. Vùng có
nhiệt độ trên 370C trở lên mở rộng. Số ngày nóng trên 400C vào mùa hè nhiều
hơn. Diện tích ngập lũ sẽ mở rộng vào năm 2030, nhưng số ngày ngập lũ ở vùng
đầu nguồn sẽ giảm và tăng ở khu vực hạ lưu. Tác động này sẽ gây ảnh hưởng tới
vùng nuôi tôm ở Bạc Liêu, Cà Mau.
Trước sự thay đổi thời tiết khí hậu như trên, những vấn đề về sâu bệnh nhiều
dịch bệnh nguy hiểm đã xuất hiện và diễn biến phức tạp trên cây trồng, vật nuôi,
thủy sản và cả con người: bệnh vàng lá gân xanh trên cây có múi; bệnh vàng lùn,
lùn xoắn lá trên cây lúa; bệnh cúm trên gia cầm; bệnh tai xanh trên heo; bệnh đốm
trắng ở tôm; bệnh sốt xuất huyết và bệnh tay chân miệng trên người.
Tác động của BĐKH đối với lâm nghiệp như hệ sinh thái ven biển ĐBSCL bị
ảnh hưởng do làm giảm diện tích rừng ngập mặn, tác động xấu đến rừng tràm và
rừng trồng trên đất bị nhiễm phèn ; Nhiệt độ và mức độ khô hạn gia tăng cũng
làm tăng nguy cơ cháy rừng, phát triển sâu bệnh, dịch bệnh.
20
Tác động của BĐKH đối với thuỷ sản như nước mặn lấn sâu vào nội địa, làm

mất nơi sinh sống thích hợp của một số loài thuỷ sản nước ngọt; Cường độ và
lượng mưa lớn làm cho nồng độ muối giảm đi trong một thời gian dẫn đến sinh vật
nước lợ và ven bờ, đặc biệt là nhuyễn thể hai vỏ (nghêu, ngao, sò, ) bị chết do
không chống chịu nổi với nồng độ muối thay đổi.
Mùa mô
phỏng
Mùa kiệt 2004 Mùa lũ
Trường hợp hiện trang Không có cống
ngăn mặn
hiện trạng Không có cống
ngăn mặn
nước biển
dâng (m)
0.69 0.69 0.69 0.69
1 1 1 1
Bảng : bài toán mô phỏng xâm nhập mặn và ngập lụt ở DBSCL
Tác động của BĐKH đối với giao thông vận tải như làm tăng nguy cơ ngập nước
các tuyến giao thông quan trọng, tăng xói lở mặt và nền đường bộ, tăng nguy cơ
xói lở và cạn kiệt các luồng đường thuỷ .
II.5 Vấn Đề Về Sức Khoẻ Con Người
Sự thay đổi về khí hậu có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ theo nhiều phương
diện khác nhau ảnh hưởng của biến đổi khí hậu gây ra những vấn đề về sức khoẻ
là các bệnh tật xảy ra do các động vật truyền nhiễm ví dụ như bệnh sốt rét do muỗi
truyềnnhiễm. Nếu do sự thay đổi của nhiệt độ trung bình tại những vùng mà muỗi
thường sinh sống, sẽ dấn đến sự thay đổ về nơi cư trú của những con vật này, và
bệnh sốt rét có thể sẽ xuất hiện ở những vùng mà trước đây chưa từng có, do đó
người dân thường không quen với loại bệnh này.Tác động của BĐKH đối với sức
khoẻ con người như nhiệt độ tăng, tác động tiêu cực đối với sức khoẻ con người,
dẫn đến gia tăng một số nguy cơ đối với tuổi già, người mắc bệnh tim mạch, bệnh
thần kinh; Làm tăng khả năng xảy ra một số bệnh nhiệt đới như sốt rét, sốt xuất

huyết, số lượng người bị bệnh nhiễm khuẩn dễ lây lan. Làm tăng số người chết do
thiên tai; Tăng nghèo đói do giảm thu nhập mất nhà cửa. Những đối tượng dễ bị
tổn thương nhất là những nông dân nghèo, các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa,
người già, trẻ em và phụ nữ .
21
III. Vấn Đề Thích Nghi Và Biện Pháp Đối Phó Ở Kiên Giang – ĐBSCL
III.1 Sơ Lược Về Thành Tựu Kinh Tế Kiên Giang
Kiên Giang tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2008 (tính theo giá so sánh
1994) ước tính đạt trên 15.185 tỷ đồng, tăng 12,60% so với năm 200
Trong đó: Khu vực I (Nông - lâm nghiệp, thủy sản) đạt gần 6.628 tỷ đồng, tăng
11,11%, đóng góp cho mức tăng trưởng chung 4,92 điểm phần trăm; Khu vực II
(Công nghiệp, xây dựng) đạt gần 4.713 tỷ đồng, tăng 11,41%, đóng góp cho mức
tăng trưởng chung 3,58 điểm phần trăm; Khu vực III (Dịch vụ) đạt gần 3.845 tỷ
đồng, tăng 16,84%, đóng góp cho mức tăng trưởng chung 4,10 điểm phần trăm.
GDP bình quân đầu người tăng từ 7.907 ngàn đồng năm 2007 lên 8.798 ngàn đồng
năm 2008, tăng 891 ngàn đồng (11,27%), tính theo theo đô la Mỹ thì GDP bình
quân đầu người đạt 802USD.
Trước những thành tựu đó , là vùng chịu nhiều ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
nên biện pháp giúp con người thích nghi với điều kiện khí hậu thay đổi để bảo vệ
tốc độ tăng kinh tế ,đảm bảo đời sống nhân dân thì cần có giải pháp thích nghi hợp
lý với biến đổi và vấn đề đặt ra là :
Làm thế nào để thích ứng với biến đổi khí hậu?
Thích ứng với biến đổi khí hậu là điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con người
đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi, nhằm mục đích giảm sự tổn thương
đối với dao động và biến đổi khí hậu hiện hữu hoặc tiềm năng và tận dụng các cơ
hội do nó mang lại.
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu có thể đã tiên lượng được, những tác động của
nó trong tương lai là một trong những vấn đề phải tiên đoán. Hơn nữa,những tiên
đoán hiện này thường được xem là những thay đổi có phạm vi rộng (Toàn cầu/khu
vực/quốc gia), không đi sâu xuống cấp cộng đồng.Điều này làm cho việc phòng

ngừa trở nên khó khăn.
Ví dụ Thích ứng đến biến đổi khí hậu có thể bao gồm nhiều phản hồi, chẳng hạn
như thay đổi
22
a) quản lý thực tế mùa vụ (ví dụ như chọn các cánh đồng, lịch thời vụ, mật độ
canh tác, các
giống cây trồng, vv ),
b) quản lý chăn nuôi thực tế (ví dụ như thức ăn và chăm sóc thú y, thời gian và các
địa điểm di cư, vv),
c) sử dụng đất đai và quản lý đất đai (ví dụ như diện tích mặt cỏ, trồng cây hoặc
bảo vệ, khai thác công trình thủy lợi và nước, bảo tồn đất và nước , thực hành làm
đất, quản lý độ phì đất đai, vv .),
d) các chiến lược sinh kế (ví dụ như kết hợp với các cây trồng hoặc sản xuất chăn
nuôi, kết hợp hoạt động giữa nông nghiệp và phi nông nghiệp, di dân tạm thời
hoặc vĩnh viễn,.
Nghiên cứu về tương tác giữa biến đổi khí hậu-sản xuất nông nghiệp đã phát triển
từ cách tiếp cận "từ trên xuống" đến cách tiếp cận "từ dưới lên". Chế độ “từ trên
xuống” bắt đầu với kịch bản biến đổi khí hậu, và ước tính tác động thông qua phân
tích các kịch bản, trên cơ sở đó có thể xác định được sự thực tế của thích ứng.
Phương pháp tiếp cận “từ dưới lên” mang đến một viễn cảnh về tổn thương, nơi
chiến lược thích ứng được coi là một quá trình liên quan đến việc hoạch định
chính sách kinh tế xã hội và môi trường, nhận thức của các nhà sản xuất, và các
thành phần ra quyết định (Bryant et al. 2000; Wall và Smit 2005 và Belliveau et al.
2006).
Trong phương pháp tiếp cận dựa trên kịch bản, thích ứng được giả định và được
xử không thay đổi như là các điều chỉnh ký thuật cơ bản (ví dụ, để thay đổi các
cây trồng khác nhau, áp dụng hiệu quả .hệ thống thủy lợi, hoặc thay đổi hệ thống
sản xuất) để xác định những tác động. Hầu hết các thích ứng đại điện có thể có
hoặc có tiềm năng áp dụng các biện pháp, chứ không phải là các biện pháp đã thực
sự được áp dụng. Thật vậy, không có bằng chứng rằng các lựa chọn thích ứng là

khả thi, thực tế hoặc thậm chí khả năng có thể xảy ra. Hơn nữa, chúng cũng chỉ có
thể có được đầy đủ và chính xác với những kiến thức về tương lai của điều kiện
khí hậu, đó là lý do tại sao họ áp dụng tên cho kịch bản là " người nông dân thông
23
thái " (Risbey et al. 1999 trích dẫn của Belliveau et al. 2006). Cách tiếp cận này có
thể được tìm thấy trong phân tích không gian, mô hình khí hậu tác động.
Kiên Giang nói riêng và ĐBSCL nói chung thì khi nghiên cứu về khí hậu tác
động bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận “từ trên xuống” dự báo các tác
động trên các lĩnh vực nông nghiệp. Phân tích “Từ trên xuống” tác động biến đổi
khí hậu có thể được kết hợp với kịch bản của thích ứng với biến đổi khí hậu. Chiến
lược thích ứng và giảm thiểu được xác định dựa trên :
a) phân tích tác động biến đổi khí hậu,
b) và nghiên cứu có sự tham gia ở qui mô các hộ gia đình và cộng
đồng ;
c) kết quả đầu ra từ các diễn đàn người có liên quan, nhóm các chuyên gia tư vấn
bởi các nhà hoạch định chính sách, các quan chức chính phủ, tổ chức có liên quan
có thể được mô phỏng qua mô hình để đánh giá các chi phí và lợi ích của việc thay
thế thích ứng chiến lược, bao gồm cả các cải tiến trong sản xuất nông nghiệp, thay
đổi trong thực tiễn quản lý, và đầu tư vào thuỷ lợi, đường giao thông, thuỷ điện và
các ngành phụ trợ. Đánh đổi giữa giảm thiểu, thích ứng, môi trường và mục tiêu
năng suất cần phải được thẩm định cẩn thận trong điều kiện tiền tệ.
* Sau đây là một số ví dụ như:
- Các biện pháp giảm thiểu rủi ro chung và cụ thể
Do hiện tượng thời tiết khắc nghiệt ngày càng trở nên khó tiên đoán được, nên cần
phải có cả những biện pháp giảm thiểu rủi ro chung và cụ thể.
Ví dụ: biện pháp giảm thiểu rủi ro cụ thể do lụt gây ra là làm con đập. Nhưng con
đập chỉ là biện pháp để giảm thiểu rủi ro của một loại thiên tai nhưng lại không thể
giảm thiểu rủi ro của loại thiên tai khác, như hạn hán chẳng hạn. Trong tình huống,
các thiên tai xảy ra trong tương lai có thể khác với quá khứ,
quan trọng là, phải có những biện pháp góp phần đem lại sự an toàn cho con người

trước mọi loại hình thiên tai. Ví dụ: thành lập và đào tạo một đội ứng phó cứu hộ
cứu nạn khẩn cấp, hoặc đa dạng hoá nguồn thu nhập/sinh kế.
- Kết hợp các công cụ hiện có với kiến thức và biên pháp mới
24
Ở một quốc gia như Việt Nam, người dân đã quen với những thiên tai thường
xuyên xảy ra, người dân cũng đã thường có kiến thức và kinh nghiệm của địa
phương để tiên đoán và đương đầu với thời tiết khắc nghiệt. Tuy nhiên, do sự biến
đổi của khí hậu sẽ có thể sẽ gây ra những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt, nên kiến
thức hiện có của người dân địa phương có thể sẽ không còn phù hợp nữa. Những
thích ứng của địa phương cần phải được bổ xung bằng những biện pháp mới, như
thiết lập hệ thống cảnh báo sớm dựa trên những dự đoán của các trạm/Viện Khí
tượng Thuỷ văn .
- Các biện pháp thích ứng có thể rất đơn giản
Mặc dù biến đối khí hậu là ‘mới’, những các biện pháp thích ứng với biến đổi khí
hậu vẫn đang hiện có, là những biện pháp khá đơn giản:Tại một ngôi làng ở Băng
la đet, nuôi gà mang lại nguồn thu nhập quan trọng. Tuy nhiên, trong hơn mấy
thập kỷ qua, ngôi làng đã phải hứng chịu nhiều trận lụt và cứ mỗi lần như thế
nhiều con gà đã bị chết. Sau đó, một người phụ nũ đã tìm ra giải pháp và làm
gương cho dân làng noi theo để khiến lụt lội không làm ảnh hưởng đến kế sinh
nhai của họ nữa: thay vì nuôi gà, bà bắt đấu nuôi vịt. Biện pháp nảy có thể có ích
cho vùng Kiên Giang nước ta khi mà nơi người dân đã sống quen với khí hậu và
có kinh nghiệm lâu năm. Và đặc trưng của vùng sông nước nên việc xây dựng nhà
cửa cũng có chi phí không đáng kể .Rút kinh nghiệm những mùa nước nổi , hạn bố
trí cây trồng , canh tác hoa màu phù hợp giúp giảm nhẹ thiệt hại do khí hậu mang
lại Ngoài ra xuồng ghe là phương tiện không thể thích trong mùa mưa lũ ở vùng
này ,nên việc trang bị nó là không thể thiếu khi nước lũ đến.
- Bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp
ĐBSCL là vùng đất thấp nên hằng năm vào mùa nắng đều có nước mặn xâm nhập
vào sâu trong nội đồng. Người dân sống ở vùng ven biển đã có kinh nghiệm bố trí
cây trồng, vật nuôi trong những hệ thống canh tác phù hợp với điều kiện đất đai

chỉ có nước ngọt trong mùa mưa, bị mặn xâm nhập vào mùa nắng. Một số hệ
thống canh tác mà nông dân ở vùng này đang sử dụng như: ngăn mặn triệt để,
không cho nước mặn vào ruộng trong mùa nắng để trồng lúa, rau, màu trong
25

×