Tải bản đầy đủ (.ppt) (38 trang)

slide về tư tưởng hồ chí minh về tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.02 KB, 38 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ TÔN GIÁO
NỘI DUNG

KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TT
HCM VỀ TG

NỘI DUNG CƠ BẢN TT HCM VỀ TG

SỰ VẬN DỤNG TT HCM VỀ TG TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
Company Logo
I. KHÁI NIỆM TT HCM VỀ TG
1. Khái niệm
- Tư tưởng về TGTN là một bộ phận của tư
tưởng HCM, đó là sự vận dựng những nguyên lý
cơ bản của CN Mác – Lê nin về TGTN trong
hoàn cảnh cụ thể Việt Nam.
NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HCM
VỀ TÔN GIÁO
I. TƯ TƯỞNG VỀ ĐOÀN KẾT LƯƠNG GIÁO,
HÒA HỢP DÂN TỘC
1. Mục tiêu của đoàn kết
Mục tiêu đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc của Hồ
Chí Minh đó là giải phóng dân tộc, giải phóng con người
thoát khỏi nô dịch, áp bức, bất công.
Năm 1955, trong bài phát biểu tại Hội nghị Mặt trận Liên Việt, Người khẳng
định “Đoàn kết của ta không những rộng rãi, mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết
là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để
đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây
dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ


nhân dân thì ta phải đoàn kết với họ” (HCM toàn tập, NXB CTQG, HN, 2006,
t7, tr.438).
2. Cơ sở đoàn kết Lương - Giáo
Thứ nhất, các tôn giáo xét đến cùng đều có hy
vọng giải thoát con người, mong muốn con
người được sung sướng, tự do, hạnh phúc
HCM nói: “Phật sinh ra cũng để lợi lạc quần
sinh, vô ngã vị tha. Đức Giê su sinh ra là niềm
hạnh phúc cho mọi người, phúc lợi cho xã hội.
Khổng Tử sinh ra cũng là để giúp con người
sống nhân nghĩa vì một thế giới đại đồng”
-Thứ hai, tín đồ các tôn giáo căn bản đều là những
người lao động bị chế độ cũ áp bức bóc lột. Họ đều là
những người yêu nước thực sự, do vậy họ là lực lượng
của cách mạng, là bộ phận quan trọng trong khối đại
đoàn kết toàn dân với tư cách là chủ thể của cách mạng.
Người cho rằng: “đồng bào Lương và đồng bào Giáo
đều là người Việt Nam, đều là người lao động và sự
nghiệp cách mạng là sự nghiệp lớn, lâu dài. Vì thế
Lương – Giáo phải đoàn kết thì sự nghiệp lớn của dân
tộc mới giành được thành công
3. Đối tượng của đoàn kết lương giáo.
Thứ nhất, đoàn kết giữa những người có tôn giáo với
những người không theo tôn giáo, trong đó có những
người công sản.
HCM khẳng định “Có anh em hỏi một người CG có thể vào Đảng
Lao động không? Có, Người tôn giáo nào vào cũng được, miễn là
trung thành, hăng hái làm nhiệm vụ, giữ đúng kỷ luật của Đảng.
Nước ta kinh tế lạc hậu, kỹ thuật kém, tôn giáo là duy tậm, cộng
sản là duy vật, nhưng trong điều kiện hiện tại, người theo đạo vẫn

vào Đảng được” (HCM toàn tập, NXB CTQG, HN, 2006, t7, tr.115
Năm 1955, trả lời phỏng vấn của phóng viên hãng
thông tấn Press (Ấn Độ). HCM tuyên bố thẳng thắn
“Củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, độc lập,
dân chủ trong toàn quốc. Trong sự thi hành nhiệm
vụ đó, chúng tôi sẵn sang hợp tác thành thật với
những nhân vật hoặc nhóm Việt Nam nào tán thành,
ủng hộ mục đích đó bất kể xu hướng chính trị và tôn
giáo khác nhau”
Thứ hai,
đoàn kết giữa những người có tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
Ngay sau khi CMT8 thành công, ngày 13/9/1945, HCM đã có cuộc
họp mặt với đại biểu các tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Cao
Đài tại thủ đô Hà Nội. Người nói “Dân tộc giải phóng thì tôn giáo
mới được giải phóng. Lúc này chỉ có quốc gia mà không phân biệt
tôn giáo nữa, mỗi người đều là công dân của nước VN và có nhiệm
vụ chiến đấu cho nền độc lập hoàn toàn của Tổ quốc” (HCM Biên
niên tiểu sử, NXB CTQG, HN, 1993, t3, tr.15).

Đầu năm 1946, phát biểu trong lễ mừng liên hiệp quốc gia
do các phật tử trong Hội phật giáo cứu quốc tổ chức tại
Hà Nội, HCM đã nói “Nước Phật ngày xưa có 4 đảng
phái làm ly tán lòng dân và hại Tổ quốc. Nhưng nước VN
ngày nay chỉ có 1 đảng phái là toàn dân quyết tâm giành
độc lập. Tín đồ Phật giáo tin ở Phật; tín đồ Gia tô tin ở
Chúa trời; cũng như chúng ta tin ở đạo Khổng. Đó là
những vị chí tôn nên chúng ta tin tưởng. Nhưng đối với
dân, ta đừng làm gì trái ý dân. Dân muốn gì ta phải làm
nấy” (HCM toàn tập, NXB CTQG, HN, 2000, t4, tr.148).

- Dù bất luận thế nào cũng không được tị hiềm, phân
biệt đối xử vì lý do TNTG. HCM chỉ rõ “Công giáo
hay không Công giáo, Phật giáo hay không Phật giáo
đều phải nỗ lực đấu tranh cho nền độc lập của nước
nhà. Trong công giáo có câu “Tam vị nhất thể”, Phật
giáo có câu “Vạn chúng nhất linh” nên chúng ta phải
hy sinh cho nhân loại và chúng sinh (Báo cứu quốc
ngày 14, 15/1/1946)
4. Phương pháp thực hiện tư tưởng đoàn kết
lương giáo, hòa hợp dân tộc.

Tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo – cơ sở
của đoàn kết lương giáo.
Năm 1948, HCM đã viết bài 6 điều nên làm và 6 điều
không nên làm, yêu cầu mọi người phải nghiêm túc
chấp hành 12 điều trên. Người nhấn mạnh ‘không nên
xúc phạm tín ngưỡng, phong tục của dân (như nằm
trước bàn thờ, giơ chân lên bếp, đánh đàn trong nhà,
….Muốn vậy thì phải “nghiên cứu cho hiểu rõ phong
tục mọi nơi, trước là để gây cảm tình và sau dể dân dần
giải thích cho dân bớt mê tín hơn”.

Chống âm mưu lợi dụng tôn giáo, chia rẽ khối đoàn
kết lương giáo của các thế lực phản động.
-
Những bài viết của HCM đã phê phán gay gắt giáo hội và các tổ
chức tôn giáo theo vết chân xâm lược vào đất nước ta không chỉ
truyền đạo mà còn biến tôn giáo thành công cụ của thực dân để
tham gia bóc lột ngay cả tín đồ của mình.
-

Để vạch trần tội ác kẻ địch đội lốt tôn giáo, Người lên án” Bởi
vậy mọi đoàn đi khai hóa đều móc nối theo một đoàn truyền giáo.
Các vị này họ làm những gì, họ lợi dụng lòng hiếu khách của
người dân An Nam để đánh cắp những bí mật quân sự, vẽ bản đồ
nộp cho đội quân viễn chinh (HCM toàn tập, t1, tr 407).
-
Người kết luận “Nếu có dân tộc nào phải nhớ ơn Chúa và các giáo
sỹ thì đó chính là dân tộc An Nam! Vì Chúa và các giáo sỹ mà dân
tộc này đã sa vào tình cảnh nô lệ như ngày hôm nay” (HCM toàn
tập, t2, tr103).
- Sau CMT8 – 1945, các thế lực phản động thường xuyên
tuyên truyền, xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về vấn đề tôn giáo. Để mọi người hiểu rõ và bà con giáo
dân an tâm, ngày 2//3/1947, Trong bức thư gửi GM Lê Hữu Từ,
HCM thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình, Người nói “Trong
một nước văn minh, có tự do TNTG, tự do ngôn luận, nhưng
không được vu khống kẻ khác. Tự do tuyên truyền không phải
tự do vô lễ” “Hoạt động tôn giáo,…không được trái với chính
sách và pháp luật của Nhà nước. (HCM toàn tập, tập 10, tr 606).
- Đồng thời, HCM cũng khẳng định: “VN độc lập đồng
minh cốt để đoàn kết tất cả đồng bào để làm cho Tổ quốc độc
lập chứ không phải để chia rẽ, phẩn đối tôn giáo.” Như vậy,
HCM đã nêu rõ quan điểm của mình là dù Việt minh là cộng
sản hay không thì mục tiêu của những người cộng sản là lãnh
đạo toàn dân đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.

Lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm mẫu số chung để thực
hiện chính sách đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc.
Theo HCM, muốn đoàn kết lương giáo, hòa hợp dân tộc
phải tìm ra được điểm chung, những nét tương đồng của

những người có tôn giáo khâc nhau và giữa những người
cộng sản với quần chúng các tôn giáo
Luôn quan tâm đến đời sống vật chất
của đồng bào có đạo.
-
Người cho rằng “Phần xác có no ấm thì phần hồn mới
thong dong. Từ đó, Người chỉ đạo Chính phủ cần có
chính sách cụ thể để cải thiện đời sống cho đồng bào;
đồng thời tích cực động viên đồng bào tích cực tham gia
sản xuất, nâng cao đời sống.
-
Bên cạnh chăm lo “phần xác”, HCM chú trọng chăm
lo “phần hồn” của đồng bào tôn giáo. Người đã nhiều lần
đến chùa, chiền, nhà thờ với tấm lòng thành kính dự các
lễ nghi tôn giáo như Phật đản, Chúa giáng sinh,…
Vận động hàng ngũ chức sắc các tôn giáo
tham gia vào sự nghiệp cứu nước, kiến quốc.
Ngay sau CMT8 thành công, HCM đã chủ động gặp gỡ
đại biểu các tôn giáo, kêu gọi họ lãnh đạo tín đồ cùng
hợp tác với chính phủ để lo cho nên độc lập nước nhà.
Tháng 10/1945, Chủ tịch HCM đã cử phái đoàn Chính
phủ lâm thời nước nhà về Phát Diệm dự lễ tấn phong
giám mục Lê Hữu Từ, đồng thời người mời giám mục
Lê Hữu Từ làm cố vấn tối cao của chính phủ. Điều đó
thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Hồ chủ tịch đối với
chức sắc tôn giáo.

Khai thác các giá trị nhân bản trong các tôn giáo.

Người ca ngợi tấm lòng bác ái cao cả của chúa Giesu, tinh

thần đại từ đại bi cứu độ chúng sinh của Đức Phật Thích ca và
tấm lòng nhân nghĩa của đức Khổng Tử “Chúa Giê su dạy:
Đạo đức là bác ái; Phật thích ca dạy: đạo đức là từ bi: Khổng
Tử dạy: đạo đức là nhân nghĩa” (HCM toàn tập, NXB CTQG,
HN, 2000, t6, tr.225).

Đồng thời Người cũng khẳng định “Mục đích cao cả của
Phật Thích ca và Chúa Giê su đều giống nhau. Thích ca và
Chúa Giê su đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình
đẳng, tự do và thế giới đại đồng” (HCM toàn tập, NXB
CTQG, HN, 2000, t6, tr.225)
II. TƯ TƯỞNG VỀ QUYỀN TỰ DO TÍN
NGƯỠNG, TÔN GIÁO VÀ KHÔNG TÍN
NGƯỠNG TÔN GIÁO.
Cở sở tôn trọng quyền tự do TNTG
-
TNTG và không TNTG là một trong
những quyền con người được nhiều
nước thừa nhận như là giá trị chung
của nhân loại.
Biểu hiện quyền tự do TNTG và không
TNTG
-
Tôn trọng đức tin của mỗi người
HCM cho rằng: ““Tất cả mọi người đều có quyền nghiên
cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi nghiên cứu chủ nghĩa
Mác. Cách đây 2000 năm, Đức Giê su đã nói là ta phải yêu
mến các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn chưa thực
hiện được” (HCM toàn tập, NXB CTQG, HN, 1995, t4,
tr.272).

Và Người nhấn mạnh rằng “Tín đồ Phật giáo tin ở Phật, tín
đồ Gia tô tin ở đức Chúa Trời cũng như chúng ta tin ở đạo
Khổng. Đó là những vị chí tôn nên chúng ta tín tưởng”
(HCM toàn tập, NXB CTQG, HN, 1995, t4, tr.148).
-
HCM chỉ ra rằng, mặc dù thế giới quan của
người cộng sản khác với tôn giáo, song không vì vậy
mà đối đầu, nghi kỵ nhau; ngược lại phải tôn trọng
đức tin của mỗi người
Năm 1945, chỉ sau 1 ngày đọc Tuyên ngôn độc
lập ở quảng trường Ba Đình, HCM đã phát biểu:“Tôi
đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ
DO VÀ Lương Giáo đoàn kết” (HCM toàn tập, NXB
CTQG, HN, 1995, t4, tr.9).
Đầu năm 1946, Hiến pháp đầu tiên do Người chỉ
đạo và biên soạn đã ghi nhận: Nhân dân có quyền tự
do tín ngưỡng”. Chính cương Mặt trận Liên Việt ở
điểm 1 Điều 7 khẳng định: “Tôn trọng tự do tín
ngưỡng, tự do thờ cúng của mọi người”

Năm 1951, trong buổi kết thúc lễ ra mắt
Đảng Lao động Việt Nam. Người phát biểu
“Chúng tôi xin nói rõ để tránh sự hiểu lầm,…
Vấn đề tôn giáo thì Đảng Lao động Việt Nam
hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tôn giáo của
mỗi người” (Báo Nhân dân số ra ngày
25/3/1951)

Đến ngày 14-6-1955, Hồ Chủ tịch đã ký
Sắc lệnh 234/SL về vấn đề tôn giáo gồm 5

chương và 16 điều. Sắc lệnh lần đầu tiên ghi
chi tiết, cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân.

Nội dung cơ bản về quyền tự do TNTG
-
Chính phủ bảo đảm quyền tự do TNTG và không
TNTG của nhân dân, không ai được xâm phạm đến
quyền tự do ấy
-
Mọi người VN đều: “Có quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào”
-
Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các cơ sở
thờ tự. Khi truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành có
nhiệm vụ giáo dục cho tín đồ lòng yêu nước, nghĩa
vụ công dân, ý thức tôn trọng chính quyền và pháp
luật của Nhà nước.

×