Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty tnhh một thành viên đầu tư phát triển chè nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.18 KB, 53 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ MINH HUỆ
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY
TNHH MỘT THÀNH VIÊN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CHẩ
NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành đào tạo: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.31.10
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hữu Ngoan
Hà Nội - 2012
2
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC i
1. MỞ ĐẦU 1
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÔNG TY TNHH 1 TV ĐTPT CHẩ NGHỆ AN 4
3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIấN CỨU 38
4.THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP 46
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 50
1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
khu vực và thế giới. Do vậy, các Doanh nghiệp nước ta phải đối diện với
môi trường kinh doanh biến động không ngừng và gặp rủi ro,áp lực. Cạnh
tranh trở nên ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp trong nước không chỉ
cạnh tranh với nhau mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước
ngoài. Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh luôn là con dao hai lưỡi. Quá
trình cạnh tranh sẽ đào thải các doanh nghiệp không đủ năng lực cạnh tranh
để đứng vững trên thị trường. Mặt khác,cạnh tranh là một hiện tượng vốn


của nền kinh tế thị trường, khi nền kinh tế càng phát triển thì cạnh tranh
càng gay gắt quyết liệt. Các công ty không ngừng củng cố vị thế của mình
bằng nhiều cách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của bản thân. Qua đó
tạo ra những khách biệt hẳn so với đối thủ cạnh tranh, giúp doanh nghiệp
dành lấy thị phần. Như vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp được coi như là một trong những phương án giúp doanh nghiệp
cũng cố và vươn đến một vị thế mà tại đó doanh nghiệp có thể chống chọi
lại các hoạt động đến năng lực cạnh tranh một cách hiệu quả.Nõng cao
năng lực cạnh tranh là một yếu tố khách quan.Nếu không làm được điều
này thì doanh nghiệp không chỉ thất bại trờn sõn khỏch mà còn thất bại
trờn sõn nhà buộc các doanh nghiệp không ngừng phải cố gắng trong hoạt
động tổ chức sản xuất kinh doanh của mình để tồn tại và phát triển. Đặc
biệt trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ
đang phát triển nhanh, nhiều công trình khoa học công nghệ tiên tiến ra đời
tạo ra các sản phẩm tốt,đũi hỏi năng lực của Doanh nghiệp.Do vậy, các
doanh nghiệp phải đi sâu nghiên cứu thị trường, phát hiện ra những nhu
cầu mới của khách hàng để qua đó có thể lựa chọn phương án phù hợp với
năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cuộc cạnh tranh này doanh
1
nghiệp nào nhạy bén hơn thì doanh nghiệp đó sẽ thành công. Có thể nói,
việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội
nhập là rất cần thiết.
Nghệ An được đánh giá là tỉnh có tiềm năng để phát triển cây chè.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Công ty TNHH 1 TV ĐTPT Chè Nghệ An có
rất nhiều xí nghiệp sản xuất chế biến chè. Xuất phát từ yêu cầu cần thiết và
thực tiễn nói trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh
tranh của công ty TNHH 1 TV ĐTPT Chè Nghệ An” làm đề tài.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu năng lực cạnh tranh và thực trạng cạnh tranh của Công

ty TNHH 1 TV Đầu tư Phát Triển chè Nghệ An. Để đề ra được định hướng
và các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về cạnh tranh để nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực
cạnh tranh trong thị trường xuất khẩu của Công ty.
- Đề xuất định hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh tại Công ty TNHH 1TV ĐTPT Chè Nghệ An.
1.3 Đối tượng phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu đề tài
- Ngành hàng: Sản xuất và kinh doanh chè.
- Tác nhân tham gia trong cỏc khõu: Sản xuất,kinh doanh, tiêu dùng.
- Các nhân tố chủ yếu có liên quan đến thị trường chố:Cơ chế chính
sách, giá cả, chủng loại,cụng tỏc Marketing, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm.
- Đối tượng nghiên cứu khác: Một số công ty sản xuất chố khỏc trờn
2
địa bàn để so sánh với công ty TNHH 1 TV ĐTPT Chè Nghệ An.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Phạm vi về nội dung: Nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty
TNHH1TV ĐTPT chè Nghệ An
- Phạm vi về không gian: Đề tài được thực hiện tại Công ty
TNHH1TV ĐTPT chè Nghệ An.
- Phạm vi về thời gian:
+ Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 8/2011 đến tháng 10/2012.
+ Các số liệu thông tin được thu thập của công ty từ năm 2009 đến
2011.
+ Đề xuất định hướng giải pháp đến năm 2020.
3
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH

CỦA CÔNG TY TNHH 1 TV ĐTPT CHẩ NGHỆ AN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm
2.1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Theo từ điển trực tuyến định nghĩa:
“Cạnh tranh là hành động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân
hay cỏc nhúm, cỏc loài vì mục đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành
được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác.
Thuật ngữ cạnh tranh được sử dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau như lĩnh
vực kinh tế, thương mại, luật, chính trị, sinh thái, thể thao. Cạnh tranh có thể
là giữa hai hay nhiều lực lượng, hệ thống, cá nhân, nhóm, loài, tùy theo nội
dung mà thuật ngữ này được sử dụng. Cạnh tranh có thể dẫn đến các kết quả
khác nhau. Một vài kết quả, ví dụ như trong cạnh tranh về tài nguyên, nguồn
sống hay lãnh thổ, có thể thúc đẩy sự phát triển về mặt sinh học, tiến hoá, vì
chúng có cơ hội, được cung cấp lợi thế cho sự sống sót, tồn tại.”
Theo quan điểm triết học:
Cạnh tranh là hiện tượng tự nhiên, là mâu thuẫn quan hệ giữa các cá
thể có chung một môi trường sống đối với điều kiện nào đó mà các cá thể
cùng quan tâm. Trong hoạt động kinh tế, đó là sự ganh đua giữa các chủ thể
kinh tế (nhà sản xuất, người tiêu dùng) nhằm giành lấy những vị thế tương đối
trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa để thu được nhiều lợi ích nhất
cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất với nhau hoặc có
thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn
bán hàng hóa với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với giá thấp.
4
Theo quan điểm kinh tế chính trị:
Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản
xuất hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu
thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho
mỡnh.Cạnh tranh có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng

(Người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người
tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn, tốt hơn; giữa những người sản
xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Cú cỏc biện
pháp cạnh tranh chủ yếu: cạnh tranh giá cả (giảm giá ) hoặc phi giá cả
(quảng cáo ).
Tóm lại :Có nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh, nó phụ thuộc
vào phạm vi, đối tượng, và cách tiếp cận khái niệm: từ phạm vi vĩ mô đến
phạm vi từng yếu tố, từ lĩnh vực kinh doanh đến lĩnh vực chính trị, xã hội,tự
nhiờn….Tuy nhiờn ở đây chúng ta chỉ chú trọng đến khái niệm cạnh tranh
trong lĩnh vực kinh tế.
Trong lĩnh vực kinh tế thì cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một
trong những động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người
sản xuất phải năng động, nhạy bén, tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật,
áp dụng khoa học kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất lao
động, hiệu quả kinh tế. Đú chớnh là cạnh tranh lành mạnh. Ở đâu thiếu cạnh
tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ, kém phát triển.
Từ những nhận định trên, khái niệm cạnh tranh trong kinh doanh có thể hiểu như
sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau
tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của
mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng, cũng như
các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng là của các
chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích .Đối với người
5
sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích là lợi ích
tiêu dùng và sự tiện lợi.
2.1.1.2 Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh là một trong những tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau về năng lực cạnh tranh hay còn gọi là sức cạnh tranh, khả năng
cạnh tranh) của doanh nghiệp. Có quan niệm gắn năng lực cạnh tranh với
ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Có quan điểm lại

gắn sức cạnh tranh của doanh nghiệp với thị phần thu lợi nhuận của Doanh
nghiệp. Đây là cách quan niệm khá phổ biến hiện nay, theo đó năng lực
cạnh tranh là khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ so với đối thủ và khả
năng “thu lợi” của các doanh nghiệp. Cách quan niệm này có thể gặp trong
các công trình nghiên cứu của Mehra (1998), Ramasamy (1995), Buckley
(1991), Schealbach (1989) hay ở trong nước như của CIEM (Ủy ban Quốc
gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế). Cách quan niệm như vậy tương đồng với
cách tiếp cận thương mại truyền thống đã nêu trên. Hạn chế trong cách
quan niệm này là chưa bao hàm các phương thức, chưa phản ánh một cách
bao quát năng lực kinh doanh của doanh nghiệp.
Khái niệm năng lực cạnh tranh được áp dụng với 2 cấp độ: cấp vĩ
mô đó là cạnh tranh quốc gia và cấp vi mô bao gồm năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
a, Năng lực cạnh tranh quốc gia
Theo diễn đàn kinh tế thế giới(WET- World Economic Forum) thì
năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì mức tăng
trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và các
đặc trưng kinh tế .
Năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững thu hút được
đầu tư, đảm bảo kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của người dân. (Viện
6
nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương và chương trình phát triển Liên Hợp
Quốc, 2002).
Một số nhà kinh tế khác lại đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh
của quốc gia dựa lên năng suất lao động, Poter cho rằng: ‘ Khái niệm có ý
nghĩa nhất về năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia là năng suất lao
động”(Michael Porter,1990).
Đối với Fagerberg định nghĩa năng lực cạnh tranh của một quốc gia
là ‘ Khả năng của một đất nước trong việc nhận thức rõ mục đích của chính
sách kinh tế tập trung nhất là đối với tăng trưởng thu nhập và việc làm, mà

không gặp phải các khó khăn trong cán cân thanh toán.(Nguyễn Vĩnh
Thanh,2005)
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu : Năng lực cạnh
tranh của quốc gia là năng lực của một nền kinh tế có thể tạo ra phát triển
bền vững trong môi trường kinh tế đầy biến động của thị trường thế giới.
b, Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Theo Aldington Report(1985):”Doanh Nghiệp có năng lực cạnh
tranh là DN có thể sản xuất ra sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội
và giá cả thấp hơn các đối thủ cạnh tranh trong nước và quốc tế. Khả năng
cạnh tranh đồng nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài của DN và khả năng
bảo đảm thu nhập cho người lao động và chủ DN”(Nguyễn Hữu
Thắng,2008)
Năm 1998, Bộ Thương mại và Công nghiệp nước Anh đưa ra định
nghĩa: “Đối với DN. Theo quan niệm này, năng lực cạnh tranh là khả năng
sản xuất đúng sản phẩm, xác định gớa cả đúng vào thời điểm .Điều đó có
nghĩa là đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất và hiệu quả hơn các
DN khỏc”(Nguyễn Hữu thắng,2008)
Năng lực cạnh tranh của DN được đo bằng :
7
Một là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và
mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là cách quan niệm
khá phổ biến hiện nay, theo đó năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ
hàng hóa, dịch vụ so với đối thủ và khả năng “thu lợi” của các doanh
nghiệp. Cách quan niệm này có thể gặp trong các công trình nghiên cứu
của Mehra (1998), Ramasamy (1995), Buckley (1991), Schealbach (1989)
hay ở trong nước như của CIEM (Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế
Quốc tế). Cách quan niệm như vậy tương đồng với cách tiếp cận thương
mại truyền thống đã nêu trên. Hạn chế trong cách quan niệm này là chưa
bao hàm các phương thức, chưa phản ánh một cách bao quát năng lực kinh
doanh của doanh nghiệp.

Hai là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu
trước sự tấn công của doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, Hội đồng Chính sách
năng lực của Mỹ đưa ra định nghĩa: năng lực cạnh tranh là năng lực kinh tế
về hàng hóa và dịch vụ trên thị trường thế giới. Ủy ban Quốc gia về Hợp
tác Kinh tế Quốc tế (CIEM) cho rằng: năng lực cạnh tranh là năng lực của
một doanh nghiệp “khụng bị doanh nghiệp khác đánh bại về năng lực kinh
tế”. Quan niệm về năng lực cạnh tranh như vậy mang tính chất định tính,
khó có thể định lượng.
Ba là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng
các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền
vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế. Theo M. Porter (1990), năng suất
lao động là thước đo duy nhất về năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, các quan
niệm này chưa gắn với việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của doanh
nghiệp.
8
Bốn là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi
thế cạnh tranh. Chẳng hạn, tác giả Vũ Trọng Lâm cho rằng: năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo
mới các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tác giả Trần Sửu cũng có ý kiến tương tự: năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng
suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo
ra thu nhập cao và phát triển bền vững.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm Năng lực cạnh tranh của DN
như sau: Năng lực cạnh tranh của DN là khả năng duy trì nâng cao lợi thế
cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút
và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền
vững.

2.1.2 Các chức năng, vai trò và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
*Chức năng cạnh tranh
- Cạnh tranh giúp đảm bảo việc điều chỉnh quan hệ gữa cung và cầu
- Cạnh tranh giúp cho điều khiển sao cho những nhõn tố sản xuất sẽ
được sử dụng và những nơi có hiệu quả nhất, làm thiểu tổng giá thành của
sản xuất xã hội.
- Cạnh tranh để tạo tiền đề thuận tiện cho sản xuất thích ưng linh
hoạt của cầu và công nghệ sản xuất .
- Cạnh tranh tác động một cách tích cực điều tiết và phõn phối thu
nhập.
- Cạnh tranh thúc đẩy sự đổi mới được coi là một chức năng cạnh
tranh năng động trong những thập kỷ gần đõy.
9
* Vai trò cạnh tranh của Doanh nghiệp
Doanh nghiệp sản xuất khi tham gia vào thị trường thì buộc phải
chấp nhận sự cạnh tranh.Đó có thể coi là cuộc chạy đua khốc liệt mà doanh
nghiệp không thể lẫn tránh và tỡm mọi cách vươn lên chiếm ưu thế.
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp để có thể
sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị
trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có
chất lượng tương tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác, nhưng chi phí thấp
hơn thì được coi là cạnh tranh cao. (Nguyễn Vĩnh Thanh, 2005).
Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp được xỏc địnhtrờn cỏc nhúm yếu tố
chủ yếu được biểu hiện qua sơ đồ 2.1
Uy tín, thương
hiệu sản phẩm
Công nghệ và
dịch vụ trợ giúp
Năng lực cạnh
tranh của

doanh nghiệp
Nhu cầu của
khách hàng đối
với sản phẩm
Chất lượng,
khả năng cung
ứng các đầu
vào
10
2.1 Các yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Sức cạnh tranh của một công ty trong một lĩnh vực được xác định
bằng những thế mạnh mà công ty đú cú hoặc huy động được có thể cạnh
tranh thắng lợi.
Năng lực cạnh tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp là tổng hợp
các yếu tố để xác lập vị thế so sánh tương đối hay tuyệt đối, tốc độ tăng
trưởng và phát triển bền vững, ổn định của doanh nghiệp trong mối quan hệ
so sánh với tập hợp các đối thủ cạnh tranh trên cùng một môi trường và thị
trường cạnh tranh xác định trong một khoảng thời gian và thời điểm nhất
định. Thoả mãn tốt nhất đòi hỏi của khách hàng để thu được lợi ích ngày
càng cao cho doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và
ngoài nước.
Nâng cao năng lực cạnh tranh là đánh giá thực tế năng lực cạnh tranh
của quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm dịch vụ đó thông qua các tiêu chí để
có những nhận định, biện pháp, chiến lược nhằm đưa doanh nghiệp có đủ
sức cạnh tranh trên thị trường. Hay nâng cao năng lực cạnh tranh là thay
đổi mối tương quan giữa thế và lực doanh nghiệp về mọi mặt của quá trình
sản xuất kinh doanh.
- Mục tiêu của hầu hết các loại doanh nghiệp là đạt vị thế cao trong
thị trường để sau đó tận dụng vị thế có lợi này khai thác tối đa lợi nhuận
trong một thời gian dài.

Trong đề tài này chúng ta quan tâm đến: Năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
*Lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh trước hết là sự biểu hiện “tớnh trội” của mặt hàng
đó về chất lượng giá cả và cơ chế vận hành của thị trường tạo nên sự hấp
dẫn, thuận tiện cho khách hàng trong quá trình tiếp cận và sử dụng.
11
Lợi thế cạnh tranh cũng là sự thể hiện tính kinh tế của các yếu tố đầu
vào cũng như đầu ra của sản phẩm, nó bao gồm chi phí cơ hội và năng suất
lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt đạt tiêu chuẩn quốc tế và thị hiếu
tiêu dùng trờn cỏc thị trường cụ thể. Do vậy, lợi thế cạnh tranh xột theo
tinh chất thương mại cũng là “nghệ thuật bán hàng” được biểu hiện qua
các nội dung mang tính giải pháp về chiến lược và sách lược của một
ngành hàng, một sản phẩm trong quá trình sản xuất và trao đổi thương mại,
chiến lược cạnh tranh suy cho cùng là “chinh phục cả thế giới khách hàng
bằng uy tín, giá cả và chất lượng”. (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 1999).
+ Các lợi thế cạnh tranh bao gồm:
- Lợi thế cạnh tranh về thương hiệu: Một thương hiệu mạnh có thể mang
đến những lợi ích lớn cho doanh nghiệp như: tăng thêm thị phần, cho phộp
họ xác định chớnh sách giá cao, giảm chi phí khuyến thị - hay nói cách
khác sẽ giúp phần làm tăng lợi nhuận cho nhà sản xuất. Nếu vậy, liệu mọi
nhà sản xuất đều cần xây dựng một thương hiệu mạnh?
Thương hiệu là một tài sản của doanh nghiệp, xõy dựng thương hiệu
hay đầu tư vào các hoạt động khỏc thỡ doanh nghiệp phải xác định được
lợi ích mà nhãn hiệu mang lại có tương xứng với khoản tiền đầu tư vào đầu
hay không.
Lợi ích của thương hiệu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như loại hàng
hoá cung cấp hay độ lớn của doanh nghiệp, đó là thực hiện một nghiên cứu
và đưa ra được mức độ quan trọng của thương hiệu đối với những loại hàng
hoá và dịch vụ khác nhau.

Một số lĩnh vực hàng hoá mà thương hiệu đúng vai trò rất lớn đến
giá trị của công ty là các loại sản phẩm cao cấp, thức ăn và nước uống, Với
những sản phẩm này thì yếu tố tiờn quyết để giúp doanh nghiệp thành công
là phải xây dựng được một thương hiệu mạnh. Ngược lại, một số sản phẩm
khác như các loại mặt hàng thiết yếu thỡ doanh nghiệp nến đầu tư vào công
12
nghệ và kênh phân phối để tạo ra những sản phẩm có giá thành thấp và
phân phối rộng khắp.
- Lợi thế về chi phí: tạo thành sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ
cạnh tranh, các nhân tố sản xuất đất đai, vốn là lao động thường được xem
như là nguồn lực để tạo lợi thế cạnh tranh.
- Lợi thế về sự khác biệt: dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm
tăng giá trị sử dụng cho người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng sản
phẩm hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm, lợi thế này cho
phộp thị trường chấp nhận mức giỏ thậm chớ cao hơn đối thủ.
+ Lợi thế cạnh tranh có thể được biểu hiện và đo được bằng các chỉ
tiêu vừa định tính vừa định lượng.
- Các chỉ tiêu định tính:
1. Chất lượng sản phẩm, vệ sinh công nghiệp và thực phẩm cao hay
thấp…là các tiêu chuẩn về chất lượng và độ an toàn trong sử dụng.
2. Quy mô, khối lượng và sự ổn định của sản phẩm.
3. Kiểu dáng mẫu mã của sản phẩm, phù hợp với thị hiếu và tập quán
tiêu dùng trờn cỏc thị trường đến mức độ nào.
4. Môi trường thương mại, thể hiện mức độ và khả năng giao dịch
cũng như uy tín trên thị trường.
5. Môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách thương mại (thuế,
tỷ giỏ…)
- Các chỉ tiêu định lượng.
1. Cơ cấu sản phẩm của công ty thể hiện sức mạnh cạnh tranh ở chỗ
sản phẩm có đa dạng phong phú về chủng loại hay không? Nếu sản phẩm

đa dạng và phong phú thì có khả năng cạnh tranh cao hơn nhưng sản phẩm
yếu kém hơn về cơ cấu.
13
2. Số lượng hàng hoá tiêu thụ trong ngày, tháng, quý, năm, lượng
hàng nào tiêu thụ được nhiều nhất, lượng hàng nào tiêu thụ được ít nhất.
3. Số lượng khách hàng tiềm năng, số lượng khách hàng thực.
4. Giá thành và giá cả sản phẩm
Giá thành biểu hiện những chi phí của yếu tố đầu vào.
Giá cả thường biểu hiện trong hoạt động lưu thông và trao đổi.
2.1.1 Sự cần thiết năng cao năng lực cạnh tranh
Nâng cao năng lực cạnh tranh là đánh giá thực tế năng lực cạnh tranh
của quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm dịch vụ đã thông qua các tiêu chí để
có những nhận định, biện pháp, chiến lược nhằm đưa doanh nghiệp có đủ
sức cạnh tranh trên thị trường. Hay nâng cao năng lực cạnh tranh là thay
đổi mối tương quan giữa thế và lực của doanh nghiệp về mọi mặt của quá
trình sản xuất kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một quy luật khách quan
của nền sản xuất hàng hoá, là một nội dung trong cơ chế vận động của thị
trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá dịch vụ bán ra càng
nhiều, số lượng cung cấp càng lớn thì cạnh tranh càng gay gắt. Nhưng cũng
chính nhờ sự cạnh tranh, mà nền kinh tế thị trường vận động theo hướng
ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội. Trong nền kinh tế thị
trường, cạnh tranh diễn ra mọi lúc mọi nơi, không phụ thuộc vào yếu tố
chủ quan của riêng ai, nên cạnh tranh trở thành một quy luật quan trọng
thúc đẩy sự phát triển. Mọi ngành, doanh nghiệp đều phải tự mình vận
động để đứng vững trong cơ chế này. Cơ chế thị trường mở đường cho
doanh nghiệp nào biết nắm vững thời cơ, biết phát huy tối đa thế mạnh của
mình để giành thắng lợi trong cạnh tranh.
14
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang hội nhập với kinh tế thế giới đó

tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, song cũng
buộc các doanh nghiệp có những đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh trên
thương trường, hội nhập kinh tế chính là khơi thụng cỏc dòng chảy nguồn
lực trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện mở rộng thị trường chuyển
giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý.
Thách thức hàng đầu khi hội nhập kinh tế thế giới là tính cạnh tranh
ngày càng càng khốc liệt cả thị trường trong nước và xuất khẩu do các hàng
rào thuế quan bảo hộ cũng như các chính sách ưu đãi đang dần bị xoá bỏ.
Chính vì vậy, các doanh nghiệp phải không ngừng tăng vốn đầu tư, luụn đổi
mới cụng nghệ, chất lượng lao động để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Thách thức nữa là hàng hoá dịch vụ
sẽ ngày càng phải đương đầu với những rào cản thương mại quốc tế mới. Vì
vậy, các doanh nghiệp cần phải trang bị cho mình những kiến thức về thị
trường trong và ngoài nước, nắm bắt tập quán, luật kinh doanh ở thị trường
trong và ngoài nước. Khi mà sức cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao
nó sẽ thể hiện tốt vai trò, chức năng của mình trong việc
- Phục vụ tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
- Kích thích sản xuất phát triển ổn định.
- Thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật.
- Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Trong bối cảnh để nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của các
doanh nghiệp là một tất yếu khách quan.
2.1.2 Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm, nhóm sản phẩm phụ thuộc trước
hết là hoạt động và chiến lược của doanh nghiệp, chiến lược của ngành và
môi trường kinh doanh.
15
Các yếu tố quan trọng của môi trường kinh doanh là bối cảnh kinh tế
vĩ mô, hệ thống pháp luật, phỏp quy và chính sách của Nhà nước về các
lĩnh vực thương mại, đầu tư, tài chính, cải cách doanh nghiệp, nguồn nhân

lực, khoa học công nghệ.
Các yếu tố ảnh hưởng của năng lực cạnh tranh ngành, doanh nghiệp
đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa: vốn; cơ sở vật chất kỹ thuật; năng
lực tổ chức; quản lý sản xuất; thị trường các yếu tố đầu vào và tiêu thụ sản
phẩm đầu ra; chi phí sản xuất và khả năng sáng tạo sản phẩm mới…
Xuất phát từ đặc điểm và nội dung hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp có thể tổng hợp các yếu tố tạo ra khả năng không ngừng vượt trội
trong quá trình cạnh tranh:
Thứ nhất: Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh có nhiều loại chiến lược khác
nhau được phân loại theo cấp độ chiến lược và phạm vi của chiến lược, bao
gồm chiến lược kinh doanh tổng hợp và chiến lược yếu tố, bộ phận hợp
thành giải quyết từng vấn đề kinh doanh cụ thể.
Chiến lược kinh doanh tổng quát đề cập đến những vấn đề quan
trọng bao trùm nhất và có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của doanh
nghiệp như: phương thức kinh doanh, chủng loại hàng hoá, thị trường tiêu
thụ, các mục tiêu tài chính và các chỉ tiêu tăng trưởng…
Dưới đây là một số chiến lược quan trọng trong chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp.
+ Chiến lược phát triển thị trường mục tiêu
- Cách tiếp cận đơn giản là doanh nghiệp chọn một trong số các thị
trường thành phần làm thị trường mục tiêu và xây dựng marketing cho thị
trường này.
16
- Cách tiếp cận thị trường trọng điểm phức tạp, doanh nghiệp chọn
hai hay nhiều hơn trong các thị trường thành phần làm thị trường mục tiêu
và xây dựng marketing hỗn hợp cho từng thị trường mục tiêu đó.
- Cách tiếp cận thị trường mục tiêu chấp nhận được, doanh nghiệp
chọn hai hay nhiều hơn trong số các thị trường thành phần làm thành một
thị trường tương đối đồng nhất và xây dựng marketing hỗn hợp chung cho

thị trường.
+ Chiến lược giữ vững và phát triển thị trường hiện tại
Một trong những nội dung của chiến lược kinh doanh là chiến lược
giữ vững và phát triển thị trường hiện tại của doanh nghiệp, giữ vững và
phát triển thị trường hiện tại xuất phát từ yêu cầu của quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp phải nhằm tới mục tiêu về lợi nhuận. Để làm được điều
này doanh nghiệp cần nghiên cứu nhu cầu của khách hàng trên thị trường,
cơ hội trên thị trường hiện tại của doanh nghiệp thường xuất hiện khi có
nhu vầu của khách hàng còn chưa đáp ứng được hoặc đáp ứng chưa tốt,
hoặc khi doanh nghiệp có điều kiện và khả năng cạnh tranh để tăng thị
phần trên thị trường nhờ một lợi thế chung nào đó hay do sự suy yếu của
đối thủ.
+ Chiến lược tiếp cận và xâm nhập thị trường mới.
Một trong những mục tiêu mà doanh nghiệp cần hướng tới trong quá
trình kinh doanh là tăng trưởng thường xuyên để củng cố và phát triển vị
thế của mónh trờn thị trường. Để có thể tiếp cận và thâm nhập thị trường
mới, việc đầu tiên mà doanh nghiệp cần làm là nghiên cứu thị trường mới
này để xác định thị trường trọng điểm để từ đó có cách ứng xử phù hợp với
thị trường mới.
+ Các chiến lược marketing hỗn hợp
17
Chiến lược marketing hỗn hợp đi vào chi tiết cụ thể những sản phẩm
mang tới cho khách hàng: được định dạng như thế nào, được giới thiệu ra
sao, và nó được bỏn ở đâu để khách hàng có thể mua được, đây là nguyên
tắc 4P, đó là Product (sảm phẩm), Price (giá cả), Promotion (quảng cáo
giới thiệu) và Place (địa điểm).
Các chiến lược sản phẩm bao gồm nhiều khía cạnh, khi triển khai
một sản phẩm vào thị trường, tuỳ thuộc từng đặc điểm thị trường và sản
phẩm mà có thể áp dụng các chiến lược:
Thứ nhất, chiến lược mở rộng thị trường là việc giới thiệu sản phẩm

của doanh nghiệp với các thị trường mà không có sự thay đổi nào về sản
phẩm, thực chất đây là chiến lược dựa trên quan điểm tiêu chuẩn hoá sản
phẩm. Người ta cho các nhu cầu của người dựng và các điều kiện thị trường
đang trở nên đồng nhất hơn, do đó trong trường hợp này doanh nghiệp giữ
nguyên sản phẩm để bán ở thị trường hiện tại và tìm kiếm thị trường mới
cho nó. Chiến lược này có thể áp dụng đối với doanh nghiệp khả năng tài
chính nhỏ. Khả năng nghiên cứu và phát triển hạn chế thì hiệu quả hơn.
Thứ hai, chiến lược thích nghi sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu và thị
hiếu của thị trường. Sự thích nghi này cú thể tiến hành từng phần hoặc toàn
bộ các đặc điểm của sản phẩm như thay đổi nhãn hiệu cho sản phẩm và các
dịch vụ hỗ trợ sản phẩm. Để tiến hành chính sách này các doanh nghiệp cần
dựa vào việc nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm, mức độ chấp nhận sản
phẩm của thị trường, tìm kiếm công dụng mới cho sản phẩm.
Thứ ba, chiến lược sản phẩm mới, quá trình triển khai sản phẩm mới
phải quyết định đến số lượng cỏc nhúm hàng, các kiểu loại, kích cỡ của sản
phẩm được đưa ra thị trường đáp ứng nhu cầu thị trường phự hợp với năng
lực doanh nghiệp.
18
Chiến lược giỏ là một trong những chính sách quan trọng trong chiến
lược marketing hỗn hợp. Căn cứ để đưa ra quyết định trong chiến lược giỏ là:
các yếu tố chi phí; những mục tiêu của doanh nghiệp; yếu tố lạm phát; nhu cầu
của thị trường cạnh tranh; cạnh tranh trên thị trường; kờnh phõn phối…
Một chiến lược marketing hỗn hợp hữu hiệu đòi hỏi các chiến lược
xúc tiến thương mại phải bao gồm:
- Quảng cáo: Quảng cáo có thể được tiến hành trước khi sản phẩm có
mặt trên thị trường. Các bước thực hiện trong quảng cáo: xác định mục tiêu
quảng cáo; xây dựng nội dung quảng cáo; chọn phương tiện và lập kế hoạch
quảng cáo, thiết kế quảng cáo; đánh giá hiệu quả quảng cáo.
- Xúc tiến bán hàng: Là hoạt động thu hút sự chú ý của khách hàng
tới một sản phẩm làm nó hấp dẫn hơn ở nơi bán và nơi tiêu thụ. Các hình

thức xúc tiến chủ yếu: thay đổi hình thức sản phẩm, khuyến khích mua
hàng (hạ giá khuyến mãi), trưng bày và giới thiệu sản phẩm hàng hoá.
- Hội trợ triển lãm và trưng bày giới thiệu sản phẩm: Quan sỏt cỏc
đối thủ cạnh tranh, khách hàng và xu thế của thị trường nhằm đưa ra
những sản phẩm phù hợp.
Chiến lược kinh doanh bao gồm những quyết định gắn liền với việc
lựa chọn, phát triển và kiểm soỏt các thành viên kênh để đáp ứng được các
điều kiện và mục tiêu thị trường. Để lựa chọn các thành viên kênh cần xây
dựng các chỉ tiêu, tiến hành đánh giá cho điểm và lựa chọn cỏc thành viên
của kênh tối ưu nhất, các thành viên của kênh thường lựa chọn các công ty
kinh doanh bán buôn và bán lẻ, cỏc mụi giới…
Thứ hai, quy mô của doanh nghiệp
19
Quy mô của doanh nghiệp thực chất là giảm chi phớ trờn một đơn vị
sản phẩm, tận dụng lợi thế về quy mô sản xuất kinh doanh lớn. Khi quy mô
về vốn lớn nó sẽ là cơ sở, là nền tảng để doanh nghiệp tiến hành các hoạt
động của mình nhằm hướng tới lợi nhuận cao nhất cú thể. Trong nền kinh
tế hội nhập, yếu tố vốn đối với doanh nghiệp càng trở nên quan trọng, là cơ
sở để doanh nghiệp mở rộng quy mô tạo thế cạnh tranh với các doanh
nghiệp khỏc. Cũn nếu quy mô nhỏ thỡ phải chấp nhận bất lợi về chi phí, do
đó rất khó có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Thứ ba, năng lực quản lý và điều hành
Do môi trường kinh doanh luôn ở trạng thái không ổn định, thay đổi
một cách chóng mặt, đòi hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
phải linh động, thớch ứng với cỏc biến động dỳ, nếu khụng doanh nghiệp
sẽ lạc hậu và bi loại khỏi cuộc. Nhu cầu luôn thay đổi, chu kỳ sống của sản
phẩm bị rỳt ngắn, các sản phẩm thay thế liên tục xuất hiện với chất lượng,
mẫu mã, công dụng cao hơn. Do vậy, sức cạnh tranh của doanh nghiệp
được đánh giá bởi tính linh hoạt và ứng dụng của doanh nghiệp để đáp ứng
nhu cầu luôn thay đổi của thị trường. Sự linh hoạt của doanh nghiệp trong

quản lý sẽ giảm được tỷ lệ chi phí quản lý trong giỏ thành sản phẩm, qua
đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ tư, khả năng nắm bắt thông tin
Ngày nay sự bựng nổ thông tin, tin học đó khẳng định vai trò to lớn
của thông tin. Thông tin về thị trường mua bán, thông tin về tâm lý và thị
hiếu khách hàng, thông tin về giá cả, đối thủ cạnh tranh…cú ý nghĩa quan
trọng trong việc ra quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Nắm bắt
thông tin giúp doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong kinh doanh, giúp cho
doanh nghiệp tìm và tạo ra “lợi thế so sỏnh” của doanh nghiệp…
20
Thứ năm, đảm bảo chữ tín
Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt, những hành động bất tín, gian
lận (như hàng giả, trốn thuế…) trong kinh doanh chỉ có thể đem lại lợi ích
nhỏ nhoi trước mắt, nhưng nhất định sẽ làm cho doanh nghiệp thiệt hại
nhiều hơn về lâu dài, mất bạn hàng và chỗ đứng trên thị trường.
Thứ sáu, chi phí kinh doanh
Trong đó bao gồm chi phí nghờn cứu và phát triển sản phẩm mới
(R&D); các chi phí tiện ích; chi phí vận tải; chi phí mặt bằng sản xuất…là
những nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới là chi phí quan trọng
trong nền kinh tế hiện đại bởi các doanh nghiệp muốn tồn tại, có sức cạnh
tranh thì cần phải biết đổi mới mãnh, do đó đối với hầu hết các doanh
nghiệp trên thế giới hiện nay, nhất là các nước đang phát triển, chi phí
nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu
chi phí nhằm đầu tư nghiên cứu các công nghệ kỹ thuật mới, độc đáo, hiện
đại, đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng, qua đó tạo một vị thế tốt trên
thị trường.
Thứ bảy, công nghệ
Trình độ máy móc trang thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng lớn tới khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất

thể hiện năng lực sản xuất của daonh nghiệp và tác động trực tiếp đến chất
lượng sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ sản xuất, thiết bị máy móc cũng ảnh
hưởng đến giá thành và giá bán sản phẩm, một doanh nghiệp có trang thiết bị
hiện đại thì sản phẩm của daonh nghiệp đó nhất định sẽ có chất lượng cao.
Thứ tám, tổ chức hệ thống của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cho dự trù yếu tố mặt hàng sản xuất kinh doanh,
nhân sự, tài chính, trang thiết bị hay công nghệ như nhau nhưng do trật tự tổ
21
chức hệ thống với hiệu lực khác nhau thì sức cạnh tranh của nó cũng có
những điểm khác nhau.
2.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
* Các nhân tố ngoại sinh
+ Các nhân tố kinh tế
Công cuộc đổi mới đó làm cho đời sống kinh tế nước ta khởi sắc và
năng động hơn. Thị trường trong nước tăng nhanh, thị trường nước ngoài
cũng được mở rộng, kinh tế ổn định, nền sản xuất phát triển, hàng hoá dịch
vụ tương đối đa dạng, phong phú, quan hệ cung cầu ngày càng được cải
thiện tạo tiền đề ổn định dần về giá cả, tạo ra nhiều điều kiện và môi trường
kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. Có thể nói, trong thời gian qua
chúng ta đó đạt được những thành công đáng kể trong việc diều tiết kinh tế,
ổn định kinh tế nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh
nghiệp phỏtt triển. Trong môi trường kinh doanh nhõn tố kinh tế dự ở bất cứ
cấp độ nào cũng có vai trò quan trọng và quyết định hàng đầu. Bởi lẽ, sự
hình thành hệ thống tổ chức quản lý và các thiết chế của hệ thống đó có ảnh
hưởng trực tiếp và quyết định đến chiều hướng và cường độ hoạt động kinh
tế trong nền kinh tế nói chung cũng như trong từng ngành, từng vùng và
từng doanh nghiệp nói riêng.
Tốc độ tăng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh toán
tăng dần dần tới sức mua các loại hàng hoá dịch vụ tăng lên.
- Nền kinh tế đang phát triển mạnh, cơ sở hạ tầng được cải thiện tạo

điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá.
- Quan hệ kinh tế ngày càng được mở rộng, các rào cản về thuế quan và
phi thuế quan đang dần được dỡ bỏ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuận
lợi trong việc xuất khẩu hàng hoá.
22

×