Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Ảnh hưởng của việc ủ phân gà bằng các hệ vi sinh vật bản địa (IMO) và bằng chế phẩm Bioplant đến sinh trưởng, phát triển, năng suất của rau cải xanh (Brassica juncea (L)) trong điều kiện canh tác hữu cơ tại Gia Lâm – Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 48 trang )

PHẦN I
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, cùng với ngành trồng trọt thì ngành chăn nuôi
Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Nó đang chuyển dần từ chăn nuôi nhỏ
lẻ sang chăn nuôi công nghiệp. Chăn nuôi tập trung quy mô lớn có nhiều ưu
điểm như năng suất cao, khối lượng sản phẩm lớn, giá thành hạ…nhưng cũng có
một số nhược điểm mà điển hình và trầm trọng nhất là gây ô nhiễm môi trường,
do thường xuyên thải ra một lượng lớn phân, nước tiểu, khí độc…chưa được xử
lý. Vì vậy, xử lí những chất thải từ trang trại chăn nuôi để bảo vệ môi trường,
góp phần làm giảm biến đổi khí hậu của trái đất - ngôi nhà chung của nhân loại -
đang là một nhiệm vụ cấp bách mang tính toàn cầu.
Ngành chăn nuôi gà ở nước ta cũng đang phát triển nhanh theo hướng
công nghiệp, hàng ngày thải ra một lượng phân rất lớn. Theo Tổ chức Nông
Lương Liên Hợp Quốc (FAO) (1945), người chăn nuôi không nên coi phân gà chỉ
là chất thải gây ô nhiễm môi trường, mà phải coi đây là một nguồn tài nguyên,
cung cấp một lượng phân đáng kể cho sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy
nghiên cứu để tạo ra phân hữu cơ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp là rất cần
thiết, đặc biệt là trong nền sản xuất nông nghiệp bền vững.
Nông nghiệp hữu cơ hạn chế tối đa việc sử dụng các hóa chất gây độc hại
cho cây trồng/vật nuôi và môi trường sống như các loại phân hóa học, thuốc trừ
sâu, thuốc trừ cỏ, thuốc kích thích sinh trưởng/tăng trọng, hóa chất dùng để bảo
quản, chế biến nông sản,… (IFOAM, 2002)
Rau là loại thực phẩm rất cần thiết cho mọi người trong đời sống hàng
ngày và cũng là loại thực phẩm không thể thay thế. Rau cung cấp rất nhiều chất
quan trọng cho sự phát triển của cơ thể con người như: protein, vitamin, muối
khoáng và nhiều chất quan trọng khác. Thực tế hiện nay, việc sản xuất rau do sử
dụng quá nhiều phân bón hóa học và thuốc trừ sâu đã và đang gây ra những hậu
quả tiêu cực cho đời sống người dân. Đó là sự tồn tại của một lượng đáng kể
thuốc bảo vệ thực vật,
NO


3
,

kim loại nặng, vi sinh vật gây hại… trên rau và trong đất. Vì vậy, rau sản xuất theo
phương pháp hữu cơ ngày càng được quan tâm.
Xuất phát tử nhu cầu thực tế đó, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Ảnh
hưởng của việc ủ phân gà bằng các hệ vi sinh vật bản địa (IMO) và bằng chế
phẩm Bio-plant đến sinh trưởng, phát triển, năng suất của rau cải xanh
(Brassica juncea (L)) trong điều kiện canh tác hữu cơ tại Gia Lâm – Hà Nội” .
1.2. Mục đích, yêu cầu
1.2.1 Mục đích
Từ việc tạo hệ vi sinh vật bản địa (IMO) để ủ phân so với việc ủ bằng một
chế phẩm thương mại sẽ tìm được cách ủ phân gà tốt nhất, từ đó xác định lượng
phân ủ thích hợp đến sinh trưởng, phát triển, năng suất của rau cải xanh; góp
phần tăng năng suất, chất lượng rau và tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp
sạch thân thiện với môi trường.
1.2.2 Yêu cầu
• Đánh giá ảnh hưởng của việc ủ phân bằng IMO và chế phẩm Bio-plant
• Tìm hiểu ảnh hưởng của lượng phân gà ủ đến chỉ tiêu sinh trưởng và
năng
suất của rau cải xanh .
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tổng quan về phân hữu cơ
2.1.1. Định nghĩa
Theo Vũ Hữu Yêm (1995), phân hữu cơ là các loại chất hữu cơ khi vùi
vào đất sau khi phân giải có khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây.
Do vậy, phân hữu cơ là tất cả các loại phân bắc, nước giải, phân gia súc,
phân gia cầm, rác đô thị sau khi được ủ thành phân ủ, các chế phẩm cùa công
nghiệp thực phẩm (đồ hộp và các kỹ nghệ dầu thực vật). Các tàn thể thực vật khi

vùi trực tiếp vào đất cũng được xem là phân hữu cơ.
Trần Thị Thu Hà (2009), phân hữu cơ được hiểu rộng ra bao gồm phế phụ
phẩm của cây trồng và gia súc ở các giai đoạn khác nhau của quá trình phân giải
và được bón vào đất nhằm cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng và cải thiện tính
chất đất. Phân hữu cơ bao gồm phân chuồng, phế phụ phẩm của trồng trọt, lâm
nghiệp, rác thải công nghiệp từ các ngành sản xuất như ngành sản xuất giấy,
đường, bùn cống rãnh và phế phụ phẩm từ ngành chế biến nông sản.
2.1.2. Lợi ích của phân hữu cơ
Vũ Hữu Yêm (1995) cho rằng phân hữu cơ khi bón vào đất mang lại lợi ích:
 Cải tạo hóa tính đất: phân hữu cơ bón vào đất sau khi phân giải sẽ cung
cấp
thêm các chất khoáng làm phong phú thêm nguồn thức ăn cho cây.
Trong quá trình phân giải phân hữu cơ có thể tăng khả năng hòa tan của
các chất khó tan. Việc hình thành các phức hữu cơ – vô cơ cũng có thể làm giảm
khả năng di động của một số nguyên tố khoáng làm hạn chế khả năng đồng hóa
kim loại nặng của cây. Sản phẩm nông nghiệp trở nên sạch hơn. Quan trọng hơn
nữa là việc hình thành phức hữu cơ - vô cơ ngăn chặn được sự rửa trôi.
Các chất hữu cơ sau khi mùn hóa làm tăng khả năng trao đổi của đất. Đặc
tính này rất quan trọng đối với đất có thành phần cơ giới nhẹ. Khả năng trao đổi
của mùn gấp 5 lần khả năng trao đổi của sét.
 Cải tạo lí tính đất: Các kết quả nghiên cứu của Monnier cho thấy việc trộn
chất hữu cơ vào đất làm tăng độ ổn định kết cấu đất. Chính vì vậy mà phân hữu
cơ bảo vệ được cấu trúc của đất và hạn chế được xói mòn. Tác dụng ổn định cấu
trúc đất phụ thuộc vào bản chất hữu cơ và mức độ mùn hóa.
Các chất dễ thối rữa (phân xanh) tăng độ ổn định kết cấu đất lên rất nhanh
song khả năng tạo mùn thấp nên tác dụng không bền. Mùn làm tăng sự dính kết
giữa các hạt đất giảm khả năng thấm ướt khiến cho kết cấu được bền trong nước.
Hoạt động của vi sinh vật mạnh lên rất nhanh sau khi vùi phân xanh non, dễ
phân giải nhiều đạm hòa tan. Các hợp chất hữu cơ hầu như khoáng hóa hoàn
toàn và tác động kém đến kết cấu đất. Sau khi vùi phân chuồng, thường đã được

mùn hóa một phần, chính nhờ hiệu ứng khối lượng mà phân chuồng ổn định
được kết cấu đất.
Phân hữu cơ ảnh hưởng đến tuần hoàn nước trong đất, làm cho nước
ngấm vào đất thuận lợi hơn, khả năng giữ nước của đất cao hơn, việc bốc hơi
mặt đất ít đi nhờ vậy mà tiết kiệm được nước tưới.
 Phân hữu cơ tác động đến sinh tính của đất: trong quá trình phân giải, phân
hữu cơ cung cấp thêm thức ăn cho vi sinh vật, cả thức ăn khoáng và thức ăn hữu
cơ, nên sau khi vùi phân hữu cơ vào đất tập đoàn vi sinh vật trong đất phát triển
rất nhanh. Chất hữu cơ càng dễ thối rữa vi sinh vật phát triển càng mạnh.
Bón phân hữu cơ các loại có tác dụng tốt trong việc tăng số lượng vi sinh
vật trong đất song ở mức độ khác nhau (Nguyễn Văn Sức, 1999). Kết quả thu
được ở những thí nghiệm cơ bản cho thấy khi bón các nguồn hữu cơ khác nhau
về hàm lượng cacbon và protein với liều lượng khác nhau thì số lượng vi sinh
vật tổng số ở trong đất hoạt động theo chiều hướng: không bón < Rơm rạ < phân
chuồng < tàn dư cây họ đậu, tương đương với 8,0 < 14,0 < 15,0 < 16,0 CFU x
10
6
/ 1g đất. Phân hữu cơ khi bón vào đất có ảnh hưởng đến hoạt động của nhiều
nhóm vi sinh vật đất. Nhóm vi khuẩn amôn hóa hoạt động khác nhau khi trong
đất được bổ sung các nguồn hữu cơ có hàm lượng protein khác nhau. Số lượng
vi khuẩn amôn hóa không hình thành bào tử phát triển mạnh khi trong đất được
bổ sung nguồn hữu cơ giàu protein. Ngược lại, vi khuẩn amôn hóa hình thành
bào tử phát triển mạnh khi trong đất được bổ sung nguồn hữu cơ có hàm lượng
protein thấp (Trần Thị Thu Hà, 2009).
Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Văn Tố (2006) phân hữu cơ chế
biến từ các nguồn phế thải hữu cơ và các chế phẩm vi sinh giúp cung cấp nguồn
dinh dưỡng cho cây trồng. Chất hữu cơ có khả năng tương tác với các chất dinh
dưỡng, điều phối theo nhu cầu của cây trồng đồng thời giữ độ ẩm tối ưu cho cây
trồng, khử nhiều loại độc tố, tạo thành hệ tổng thể đảm bảo duy trì độ phì nhiêu
của đất và sự phát triển của cây trồng. Ngoài ra, nó còn có tác dụng cải tạo đất,

bón phân hữu cơ làm tăng khả năng hoạt động của hệ sinh vật đất và làm thay
đổi một số tính chất lý hóa học đất theo hướng tốt hơn. Đồng thời việc sử dụng
phân hữu cơ cũng không gây độc hại cho con người cũng như các sinh vật, thực
vật khác. Nó còn góp phần phòng chống thoái hóa, ô nhiễm đất đai, góp phần
bảo vệ môi trường và đảm bảo về nhu cầu thâm canh lâu dài, tạo thêm tính bền
vững cho nền sản xuất Nông Nghiệp Việt Nam.
2.1.3. Phương pháp ủ phân
Ủ phân là biện pháp cần thiết trước khi đem phân chuồng ra bón ruộng.
Bởi vì trong phân chuồng tươi còn có nhiều hạt cỏ dại, nhiều kén nhộng côn
trùng, nhiều bảo tử, ngủ nghỉ của nấm, xạ khuẩn, vi khuẩn và tuyến trùng gây
bệnh. Ủ phân vừa có tác dụng sử dụng nhiệt độ tương đối cao trong quá trình
phân huỷ chất hữu cơ để tiêu diệt hạt cỏ dại và mầm mống côn trùng, bệnh cây
vừa thúc đẩy quá trình phân huỷ chất hữu cơ, đẩy nhanh quá trình khoáng hoá
để khi bón vào đất phân hữu cơ có thể nhanh chóng cung cấp chất dinh dưỡng
cho cây.
Vũ Hữu Yêm (1995) chỉ ra rằng có 3 phương pháp ủ phân:
 Ủ nóng hay ủ xốp: Dùng trong trường hợp phân chuồng có nhiều chất độn
nên tỉ lệ C/N của chất độn cao do vậy mà tỉ lệ C/N của phân bón cũng cao.
Phân chuồng ủ xốp nhiệt độ lên cao quá trình phân giải nhanh nên cũng
được dùng trong trường hợp phân chuồng được lấy từ chuồng gia súc có bệnh
hoặc các loại phân trâu bò có lẫn nhiều hạt cỏ.
Khi ủ phân bằng phương pháp ủ nóng, phân lấy từ chuồng ra được đánh
thành đống để cho phân phân giải trong điều kiện háo khí, đến khi nhiệt độ trong
đống phân lên cao (đến 60 – 70
0
C) phân hủy rất mạnh, đống phân sau khi xẹp
xuống thì người ta lại chất tiếp lớp khác.
Phương pháp ủ nóng, [23] có tác dụng tốt trong việc tiêu diệt các hạt cỏ
dại, loại trừ các mầm mống sâu bệnh. Thời gian ủ tương đối ngắn. Chỉ 30 – 40
ngày là ủ xong, phân ủ có thể đem sử dụng.

Phương pháp này lên men đều, chóng hoai song mất rất nhiều chất hữu cơ
và đạm.
 Ủ nguội hay ủ chặt: Trong phương pháp này phân được rải thành lớp rộng
1,5-3m, dầy 0,3-0,4m rồi nén chặt và tưới nước. Tùy theo số lượng phân người
ta có thể tăng chiều rộng đống phân rồi tiếp tục xếp lớp khác, mỗi lớp dầy 0,3-
0,4m rồi lại nén tưới như trên, còn chiều cao đống phân không nên vượt quá
1,5m. Chiều dài đống phân tùy ý.
Sau đó dùng than bùn, đất hay rơm rạ phủ kín đống phân. Phân được nén
chặt, đống phân không thông thoáng, phân phân giải trong điều kiện yếm khí,
nhiệt độ không nên quá cao (chỉ trong khoảng 15 – 30
0
C). Các khoảng trống
trong đống phân không chứa nước thì cũng đầy ắp khí cacbonic làm cho vi sinh
vật bị ức chế, chất hữu cơ phân giải chậm.
Phân chế biến theo cách ủ chặt sau 3 - 4 tháng cũng chỉ mới bán phân
giải. Với phương pháp này đạm mất đi ở mức thấp nhất, không vượt quá 10
-11%. Phân chứa nhiều đạm dưới dạng amon.
Theo phương pháp này [23] thời gian ủ phân phải kéo dài 5 – 6 tháng
phân ủ mới dùng được. Nhưng phân có chất lượng tốt hơn ủ nóng.
 Ủ hỗn hợp hay ủ phân trước nóng sau nguội:
Trong phương pháp này phân được lấy ra chất thành đống không nén, cao
0,8 -1m. Phân được phân giải trong điều kiện hảo khí, chất hữu cơ phân giải
mạnh, nhiệt độ nhanh chóng lên cao. Sau 3 - 4ngày khi nhiệt độ đạt đến 60 –
70
0
C thì bắt đầu nén cẩn thận đống phân, thêm nước cho không khí không vào
được đống phân nữa, nhiệt độ hạ đến 30 – 35
0
C quá trình phân giải hảo khí được
thay bằng quá trình phân giải yếm khí, chất hữu cơ và chất đạm mất ít đi. Trên

lớp đầu tiên người ta xếp lớp thứ hai, rồi lớp thứ ba cứ như vậy cho đến khi
đống phân cao được chừng 2m. Nén lại, phủ đất hay than bùn và bảo quản cho
đến khi đem bón.
Ủ theo phương pháp này phân chuồng phân giải khá nhanh, hạt cỏ dại và
mầm bệnh truyền nhiễm cũng bị tiêu diệt song chất hữu cơ và đạm cũng mất
nhiều hơn ủ nguội. Ủ phân theo cách này, [23] có thể rút ngắn được thời gian so
với cách ủ nguội, nhưng phải có thời gian dài hơn cách ủ nóng.
Bảng 2.1: Ảnh hưởng của phương pháp chế biến và chất độn chuồng đến
việc mất đạm và chất hữu cơ
Đơn vị: % chất tươi
Phương pháp

Độn chuồng bằng rơm rạ Độn chuồng bằng than bùn
Mất chất hữu

Mất đạm
Mất chất hữu

Mất đạm
Ủ xốp 32,6 31,4 40,0 25,2
Ủ hỗn hợp 24,6 21,6 32,9 17,0
Ủ chặt 12,2 10,7 7,0 1,0
Nguồn :
Vũ Hữu Yêm, Giáo trình Phân bón và cách bón phân, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 1995.
Phương pháp ủ hỗn hợp sử dụng khi phân chuồng có nhiều chất độn. Loại
phân như vậy phải được đem bón càng sớm càng tốt. Phương pháp này được vận
dụng khi trong phân có lẫn nhiều mầm bệnh, cỏ dại và khi nhà nông muốn
nhanh có phân hoai bón ruộng.
2.1.4. Sự chuyển hóa trong quá trình ủ phân
Vũ Hữu Yêm (1995) đường, tinh bột, axit amin được phân giải trước tiên

để cung cấp năng lượng cho vi sinh vật sinh sôi nảy nở và tổng hợp các chất có
đạm mới.
Các hợp chất xenlulo và hemi xenlulo mất dần. Lignin rất khó phân giải
tồn tại trong nhân mùn. Các chất hữu cơ có đạm được hình thành và các chất
khoáng được giải phóng, song vì chất hữu cơ mất đi nên hàm lượng tương đối
của lignin, chất hữu cơ có đạm và chất khoáng tăng lên.
Bảng 2.2: Động thái của các hợp chất hữu cơ trong quá trình chuyển hóa
phân chuồng

Đơn vị: % chất khô
Thành phần
Ngày phân tích
0 ngày 39 ngày 96 ngày 157 ngày 290 ngày
Xenlulo 27,5 23,2 16,0 7,0 6,0
Hemi
xenlulo
23,5 22,8 15,7 13,4 12,9
Lignin 14,2 16,6 17,9 20,5 28,4
Chất hữu
cơ có đạm
6,8 7,0 14,8 18,6 16,4
Chất
khoáng
9,1 13,6 20,9 22,2 19,3
Nguồn :
Vũ Hữu Yêm, Giáo trình Phân bón và cách bón phân, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 1995.
Theo Nguyễn Vĩnh Phước (1980) vi sinh vật giữ vai trò quyết định trong
quá trình ủ phân. Không có sự tham gia của vi sinh vật, rác thải không chuyển
được thành mùn để nuôi cây và cải tạo đất. Các vi sinh vật này có khả năng phân giải
chất xơ thành đường, đạm hữu cơ thành các axit min, quặng thành lân dễ tiêu…

Dưới tác dụng của vi khuẩn, một số lượng lớn nhất hữu cơ của phân
chuồng bị phân giải và làm giảm trọng lượng chất khô của phân, phân càng ủ
không chặt chừng nào càng mất nhiều chất khô chừng ấy. Chỉ cần ủ phân trong
điều kiện yếm khí thì sự phân giải mới chỉ dừng ở giai đoạn đầu do các axit hữu
cơ được tạo thành và tích lũy lại kìm hãm sự phát triển của vi sinh vật. Sự tiêu
hao trọng lượng khô là do sự phân giải liên tục xenlulo, các đa bào, peptozan,
pectin và các hợp chất protit và do sự tạo thành khí CO
2
. Phân ủ trong điều kiện
hiếu khí thì số lượng CO
2
sẽ hình thành nhiều và đó là sản phẩm của các quá
trình hoạt động sống của vi sinh vật.
Ngoài khí CO
2
ra, các khí khác cũng được tạo thành: khí mêtan, hidro và
nito phân tử. Khi ủ phân trong điều kiện hảo khí những sản phẩm này được tạo
ra ít, còn trong điều kiện yếm khí thì được tạo ra nhiều hơn.
Ngoài ra, quá trình phân giải phân chuồng còn tạo thành các axit hữu cơ
như : axit focmic, axit axetic, axit propionic, axit béo và các lactic, những loại
axit này sẽ tiếp tục được chuyển hóa thành các sản phẩm khác.
Các hợp chất của đạm cũng được phân giải trong phân chuồng. Đạm trong
phân chuồng tươi thường ở dạng ure, axit hippuric, axit uric, axit amin và một số
hợp chất khác. Amoniac được tạo ra là do sự phân giải những chất đạm kể trên.
Ure bị phân giải sẽ cung cấp nhiều amoniac nhất và cả CO
2
. Vì ure phân giải
nhanh nên đạm có thể bay đi một phần. Để tránh sự mất mất amoniac ta có thể
dùng bùn hoặc đất sét. Chất bùn có khả năng tạo phản ứng kiềm, hấp thụ được
amoniac, còn đất sét làm xảy ra phản ứng hóa học, chuyển hóa chất đạm thành

sunfat amon.
2.2. Vài nét về vi sinh vật bản địa
IMO (Indigenous Microorganisms) có nghĩa là các hệ vi sinh vật bản địa.
Trong vi sinh vật này gồm có nấm, vi khuẩn, xạ khuẩn. Vi sinh vật bản địa có
thể nuôi ở bất kì thời điểm nào trong năm và là đặc trưng hệ vi sinh vật của một
vùng nào đó (Hoon Park1 và Michael W. DuPonte, 2008).
IMO đã được sử dụng tại nhiều quốc gia : Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippin,
Mỹ…cho thấy các kết quả khả quan.
 Đặc điểm của vi sinh vật bản địa
 Khả năng phân hủy: khi các vật liệu phức tạp hữu cơ như thực vật, động
vật,
chất bài tiết, và phân bón hữu cơ vào đất, IMO phá vỡ thành những hợp chất đơn
giản, dễ hấp thụ cho cây.
 Xúc tác các quá trình hóa học trong đất: chúng sản xuất ra nhiều enzym,
kháng sinh, axit hữu cơ và phức hợp khác nhau tạo các phản ứng hóa học.
 Phục hồi hệ sinh thái: Khi IMO được bón vào đất, chúng làm xuất hiện vi
khuẩn và các nấm khác nhau đầu tiên, sau đó là tuyến trùng, giun đất…để cải
tạo đất.
 Ngăn chặn các mầm bệnh trong đất gây hại cho cây trồng: chúng có khả
năng chuyển đổi khoáng, vi lượng và lưu thông các chất dinh dưỡng trong đất.
Chúng còn làm cân bằng các vi khuẩn đã bị phá vỡ do lạm dụng hóa chất, sự đa
dạng của vi khuẩn được phục hồi, sau đó làm giảm sự xuất hiện của bệnh rất
nhanh [24].
2.3. Tình hình nghiên cứu và sử dụng phân hữu cơ
2.3.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng phân hữu cơ trên thế giới
Xenophon (400TCN) đã nêu biện pháp cày vùi tàn thể thực vật làm tốt
đất. Columella lập danh sách nhiều cây Bộ đậu có khả năng cải thiện đất: Lupin,
đậu tằm, lentille, đậu chick, cỏ ba lá. Ông là người đặt nền tảng cho việc dùng
cây bộ đậu làm phân xanh. Đến Pliny (62 TCN – 122 SCN) đã thấy nêu biện
pháp bón vôi và dùng salpetre (KNO

3
) làm phân bón.
Ở Trung Quốc, ngay từ thế kỷ VI, trong Tề Dân Yếu Thuật viết đời Hậu
Ngụy, tác giả Tư Hiệp đã ghi nhiều loại phân bón như phân tằm, phân bắc hoai,
đất vách, phân xanh, vùi tươi xác cây bộ đậu. Ông đã nêu tỷ mỉ phương pháp
luân canh cây bộ đậu (Đậu xanh, đậu đen ) và xem biện pháp luân canh cây bộ
đậu làm đất tốt không kém gì bón phân bắc hoai, phân tằm. Đến thế kỉ XIV,
trong tác phẩm Vương Trịnh Nông thư ở phần Nông tang thông quyết có ghi:
Việc canh nông lấy phân bón làm chính. Bón phân có thể biến ruộng xấu thành
ruộng tốt. biến đất cằn thành đất phì nhiêu. Khi kể các loại phân tác giả có kể
đến phân chuồng, phân xanh, đất hun, xác các loài động thực vật, vôi và bùn ao.
Ở Châu Mỹ, khi Christoph Colomb (1451 – 1506) đặt chân lên Châu Mỹ
cuối thế kỷ XV đầu thế kỉ XVI đã thấy thổ dân Châu Mỹ biết dùng cá chết bón
cho ngô.
Jean Baptiste Boussingault (1802-1882) đã xây dựng một trang trại thí
nghiệm ở Alsace để tiến hành thí nghiệm đồng ruộng. Boussingault đã dùng kĩ
thuật của Saussure để cân và phân tích phân bón. Ông đã cân phân bón vào chậu
và sản lượng thu hoạch. Từ đó, ông đã xác định được vai trò của phân chuồng
trong việc cung cấp thức ăn cho cây (Vũ Hữu Yêm, 1995).
Những kết quả nghiên cứu về sử dụng phân hữu cơ đã tạo tiền đề để sử
dụng phân hữu cơ rộng rãi trên thế giới tạo nên một nền Nông nghiệp hoàn thiện
với môi trường. Trong những năm gần đây, các tổ chức quốc tế như tổ chức
Nông lương (FAO), tổ chức Y tế thế giới (WHO) và các tổ chức khác về vấn đề
môi trường đã đưa ra các khuyến cáo, hạn chế việc sử dụng hoá chất nhân tạo
vào nông nghiệp, xây dựng các quy trình sản xuất theo công nghệ sạch, công
nghệ sinh học, công nghệ sử dụng nguồn năng lượng tái tạo (Nguyễn Xuân
Thành, 1997).
 Tình hình nghiên cứu và sản xuất rau trên thế giới:
Theo số liệu của FAO năm 1987 diện tích gieo trồng cải trên thế giới hằng
năm là 1,5 triệu ha. Năng suất rau cải gần đây đạt đến mức ổn định nhờ sử dụng

giống mới, giống lai và phương pháp canh tác tiên tiến. Trong các loại rau cải,
cải bắp được canh tác nhiều nhất, rộng rải khắp 5 châu và chiếm sản lượng cao
nhất. Đặc biệt là các giống Âu Châu dần dần được canh tác rộng rãi ở các nước
Á Châu và hiện nay lan dần sang các nước Phi Châu.
Bảng 2.3: Năng suất , sản lượng rau của một số nước trên thế giới
NS
(tạ/ha)
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tr. Quốc
191,
7
184,4 178,6 167,2 180,5 180,8 184,5 182,4 173,6 171,8
Italy
193,
6
169,5 175,5 171,4 171,4 171,4 171,4 171,4 171,4 180,6
Mexico 72,6 78,2 80,0 80,0 80,0 80,0 80,0 80,0 80,0 80,0
Thái Lan 71,2 71,5 72,6 70,4 70,8 70,8 70,8 70,8 70,8 70,0
Việt Nam
112,
3
125,8 122,0 117,5 124,4 126,9 124,7 124,0 124,0 125,7
S.Lượng
(triệu
tấn)
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tr. Quốc 92 94 96 102 122 129 136 138 140 142
Italy 3 2 2 2 2 2 2 2 2 3
Mexico 181 197 250 300 400 450 500 560 560 560
Thái Lan 925 930 980 950 970 970 977 998 998 1015

Việt Nam 4 5 5 5 6 6 6 6 6 7
( Nguồn : FAO)
Các nước có diện tích và sản lượng cải cao nhất là Liên Xô, Trung Quốc,
Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ. Ở Châu Âu Ý, Anh, Pháp, Ba Lan, Nam Tư, Tây Ban
Nha canh tác cải nhiều nhất. Hiện nay các nước đó phát triển có khuynh hướng
trồng cải bông và cải bixen thay thế cải bắp vì các loại cải này giàu chất dinh
dưỡng hơn và có thể đóng hộp hay đông lạnh tươi.
Ở Nhật, Trung Quốc, Triều Tiên do tập quán lâu đời nên cải thảo và cải củ
vẫn còn được ưa chuộng trong sản xuất. Ở các nước đang phát triển như nước ta cải
bắp và cải ăn lá còn là loại rau quan trọng hơn cả vì năng suất cao nên rau cải có khả
năng giải quyết tình trạng thiếu rau ăn trong nước (
Phạm Xuân Lân, 2007)
.
Theo Lee at (2006) cho thấy thời gian dài cung cấp 40 -80 tấn/ha/năm
phân chuồng ủ có thể cải tiến chất lượng đất và tăng năng suất của cải bắp và
ngô mà không làm ô nhiễm đất và cây trồng với kim loại nặng Ca, Zn.
Lu và Edward (1994) cho thấy rau chân vịt bị phá hủy trong 7 ngày sau
khi trồng nếu lượng bón phân gia cầm vượt quá 58tấn/ha và giới thiệu tỉ lệ bón
là 20 tấn là thích hợp cho sự sinh trưởng của cây này. Mặt khác, Fareen
etall(1993) nghiên cứu cho thấy lượng phân gia cầm bón thích hợp cho sản xuất
dâu tây là 10,8 tấn/ha và 12,8 tấn/ha cho sản xuất nho và khẳng định lượng thích
hợp của phân gia cầm thì khác nhau cho các cây trồng khác nhau.
2.3.2 Tình hình nghiên cứu và sử dụng phân hữu cơ ở Việt Nam
Nông dân Việt Nam đã dùng phân bón từ rất lâu đời. Từ việc phát nương,
đốt rẫy để lại tro rồi chọc lỗ gieo hạt, gặt lúa đốt rơm rạ ngay tại ruộng sau đó
cho nước vào cày bừa cấy, đến việc đốt phân trâu bò lấy tro đem bón, nông dân
ta đã dùng phân bón và đánh giá đúng vai trò của nguyên tố tro đối với năng
suất cây trồng.
Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm và khai thác nước ta, cùng với việc mở
trường cao đẳng nông nghiệp, việc phổ biến nghiên cứu phân bón cũng được mở

rộng. Mặc dù bèo hoa dâu đã được nông dân Thái Bình sử dụng từ rất lâu đời,
nhưng mãi đến khoảng 1926- 1927 Nguyễn Công Tiễu mới là người đầu tiên
viết về cây bèo hoa dâu. Suốt trong thời kì kháng chiến nông dân ta chỉ dùng
phân hữu cơ là phân bón chính cho cây trồng, dùng phân chuồng và phân xanh
chế biến từ các loại lá dại cắt ủ làm phân.
Những năm 60, 70 ta đã có những thành công đáng kể trong việc nghiên
cứu và phổ biến kĩ thuật sản xuất phân hữu cơ. Lê Văn Liêm đã nghiên cứu
thành công việc sản xuất bèo hoa dâu quanh năm đã được chính phủ VNDCCH
đánh giá cao, hàng loạt tác phẩm viết về bèo hoa dâu, điền thanh, than bùn, phân
chuồng, phân bắc được xuất bản đã đưa phong trào dùng phân xanh lên rất cao.
Có năm bèo hoa dâu đã phủ kín 600.000ha lúa chiêm xuân, hàng ngàn ha điền
thanh gieo mô, cấy gối phát triển trên đồng ruộng Xuân Thủy- Hải Hậu- Nam
Định (Vũ Hữu Yêm, 1995).
Những hạn chế của cuộc cách mạng xanh và công nghiệp hóa nông
nghiệp, đã dẫn đến nhiều nước quay trở lại với nông nghiệp hữu cơ trong đó có
Việt Nam. Trước xu hướng hội nhập với thế giới, việc sản xuất các sản phẩm
nông nghiệp ở nước ta cũng dần được phát triển theo hướng an toàn và bền
vững. Ở Việt nam, năm 1998 mới manh nha một tổ chức "Phong trào nông
nghiệp hữu cơ Việt nam" (gọi tắt là Foodlink). Các thành viên sáng lập Foodlink
gồm một số các tổ chức của Việt Nam và nước ngoài, trong đó có Chi cục Bảo
vệ thực vật tỉnh Phú thọ.
Trong những năm gần đây việc phát triển nông nghiệp hữu cơ ngày càng
được nhà nước và chính phủ quan tâm hơn. Hướng tới một nền nông nghiệp
sạch, giúp nông dân có kiến thức trong sản xuất sản phẩm sạch đang là mục tiêu
của nhà nước ta. Trung ương Hội Nông dân Việt Nam và Tổ chức phát triển
Nông nghiệp Đan Mạch – Châu Á (ADDA) đã hợp tác và phát triển dự án:
“Phát triển khuôn khổ cho sản xuất và marketing nông nghiệp hữu cơ tại Việt
Nam”. Dự án đã chính thức được Chính phủ phê duyệt tại văn bản số 1838/CP –
QHQT và giao cho TƯ Hội Nông dân Việt Nam tiếp nhận thực hiện trong vòng
5 năm (2005 – 2010). Dự án này bước đầu được triển khai ở 6 tỉnh: Hải Phòng,

Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Lào Cai, Tuyên Quang. Đây là một trong
những dự án phát triển hữu cơ đầu tiên tại Việt Nam.
Về sản xuất rau an toàn, được sự đầu tư của Nhà nước nhiều mô hình sản
xuất rau an toàn ở các tỉnh đã được thực hiện từ năm 1995, đến nay việc sản
xuất rau an toàn không ngừng được gia tăng trong cả nước, thu được những kết
quả ban đầu đáng khích lệ. Tuy nhiên mới chỉ là mô hình nhỏ lẻ, manh mún,
diện tích canh tác nông nghiệp hữu cơ chỉ chiếm một phần rất nhỏ trên tổng diện
tích rau chuyên canh của từng vùng, vấn đề chất lượng, giá cả và thương hiệu
chưa được quan tâm. Năm 1998 Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ban
hành quyết định tạm thời về sản xuất “rau an toàn”. Trong đó đã đưa ra khái
niệm về rau an toàn: “ Những sản phẩm rau tươi bao gồm tất cả các loại rau ăn
củ, thân, lá, hoa, quả có chất lượng đúng với đặc tính của giống, hàm lượng các
hóa chất độc hại và mức độ nhiễm các vi sinh vật gây hại ở dưới mức tiêu chuẩn
cho phép, an toàn cho người tiêu dung và môi trường thì được coi là rau đảm
bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, gọi tắt là “Rau an toàn”(Phạm Thị Thùy, 2006).
Nghiên cứu “Khảo nghiệm hiệu lực phân bón hữu cơ Liquid Calcium
Nitrate đối với một số cây trồng trên một số loại đất miền Bắc Việt Nam 2006”
của Viện Thổ Nhưỡng Nông Hóa năm 2006- 2007 cho thấy: bón 2 tấn phân hữu
cơ Liquid/ha cho rau cải bắp và su hào trên đất bạc màu, đất phù sa sông Hồng
đã tăng năng suất rau cải bắp và su hào lên 17- 24 % so với không bón hữu cơ
và đối chứng của nông dân; tăng năng suất của rau 9% so với công thức bón 10
tấn phân chuồng/ha. Bón 1,5 tấn phân hữu cơ Liquid và giảm lượng NK có trong
phân hữu cơ cho năng suất rau tương đương với công thức bón 10 tấn phân
chuồng/ha và cao hơn 9- 15% so với công thức không bón phân hữu cơ. Bón 1,5
tấn phân hữu cơ Liquid/ha cho bắp cải và su hào làm tăng tiền lãi 21- 25% so
với công thức bón theo nông dân và tăng 8- 14% so với công thức bón 10 tấn
phân chuồng/ha.
Kết quả thử nghiệm phân bón lá super K-Humate trên rau cải bắp NS-
Kross vụ thu và vụ đông 2006 của Sở KH&CN Vĩnh Phúc cho thấy: trọng lượng
bình quân/bắp cao hơn công thức không bón và tăng năng suất 276,5 kg/sào.

Các mẫu rau dùng K- Humate khi phân tích đều đạt tiêu chuẩn chất lượng rau an
toàn. Lãi cao hơn đối chứng 10,5%. Dự án Kết hợp cải cách giáo dục và Phát
triển cộng đồng do trường Đại học Cần Thơ hợp tác với trường Đại Học
Michigan State thực hiện năm 2006 - 2007 ở ấp Hòa Bình huyện Phụng Hiệp,
tỉnh Hậu Giang trong 4 công thức bón phân: 100% phân hóa học; bón100%
phân hữu cơ; 50% phân hóa học + 50% phân hữu cơ; 100% phân hữu cơ + 50%
phân hóa học; Kết quả cho thấy, công thức bón 100% phân hữu cơ + 50% phân
hóa học cho năng suất và hiệu quả tốt nhất đối với rau.
Những nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Thanh Hiền về phân bón đạm vi
sinh Biogro ở xóm Tâm Thái, xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái
Nguyên trong 4 vụ cho thấy: việc dùng đạm vi sinh thay thế được 50% ure và
tăng năng suất cây trồng. Với lúa, năng suất tăng từ 10- 25%, công thức bón
đạm vi sinh 3 kg/sào thay cho 70% đạm hóa học, tăng năng suất 25,9 kg/sào.
Đối với mỗi loại rau khác nhau năng suất cũng tăng 12- 20%. Bên cạnh đó
người ta nhận thấy đạm vi sinh làm tăng khả năng chống chịu sâu bệnh của cây
trồng vì nó làm cây trồng khỏe, phát triển đều, phẩm chất hạt và quả tăng (
Phạm
Xuân Lân, 2007)
.
Theo giới thiệu của Sở Nông Nghiệp tỉnh Lào Cai cho sản xuất rau hữu cơ
ăn lá thì lượng phân hữu cơ thích hợp cho rau ăn lá là 25tấn/ha kết hợp với
2,5tấn phân vi sinh/ha.

PHẦN III
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
• Phân gà: Được thu gom từ trại gà Quang Trung có đóng bao bì.
• Rau cải xanh: Giống cải xanh lá vàng
3.1.2. Địa điểm nghiên cứu

Trung tâm Nông nghiệp hữu cơ – trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
3.1.3. Thời gian nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành vào vụ xuân, từ cuối tháng 1 đến giữa tháng 7
năm 2011.
3.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Thí nghiệm 1: Ủ phân gà bằng các hệ vi sinh vật bản địa(IMO) và bằng
chế phẩm Bio-plant.
 Bố trí các công thức thí nghiệm:
• Các công thức thí nghiệm sắp xếp theo kiểu khối ngẫu nhiên đầy đủ
(RCB/
RCBD) với 4 lần nhắc lại và 3 công thức.
CT: IMO: Phân gà ủ bằng các hệ vi sinh vật bản địa
CT: Bio: Phân gà ủ bằng chế phẩm Bio-plant
CT: ĐC: Phân gà ủ bằng nước lã
• Sơ đồ bố trí các công thức thí nghiệm:
Nhắc lại I ĐC IMO Bio
Nhắc lại II Bio ĐC IMO
Nhắc lại III ĐC Bio IMO
Nhắc lại IV IMO ĐC Bio
 Quy trình tạo vi sinh vật bản địa (IMO) (Hoon Park1 và Michael
W.DuPonte
, 2008)
Rice Steamed
Microbe
(From Natural)
Sugar
Rice Bran
(5%)-IMO2
Rhodic
Ferralsols

(10%)
Manure from some wastes and chicken manures (85%)
IMO
IMO3
IMO4
Spray
(1/50)
(1)
(2)
(3)
(4)
• Sơ đồ:
3-5 days 2-3 days 5-7 datys 15-30
days
(2)
(1)
(4)
(3)
• Vật liệu cơ bản để nuôi vi sinh vật bản địa
+ Một hộp nhỏ bằng gỗ, khăn giấy trắng, túi nilon, dây điện lưới đủ phủ kín
hộp gỗ để phòng chống chuột.
+ Cơm trắng
+ Một cái chậu, thìa gỗ, vại sạch, dây cao su.
• Quá trình nuôi:
+ Cho cơm trắng vào trong hộp gỗ, cách miệng hộp 3cm (để tạo khoảng
không khí khi đậy giấy trắng lên trên). Sau đó đậy giấy mềm trắng để hở cho
không khí xâm nhập vào quanh miệng hộp buộc bằng dây cao su, phủ tấm dây
điện lưới lên trên (ngăn ngừa động vật làm xáo trộn cơm)
+ Đem hộp đặt dưới đất nơi có thảm thực vật mùn dày đặc, tránh ánh nắng
mặt trời trực tiếp. Một phần hộp chôn dưới đất khoảng 6cm để cho kết quả tốt

nhất. Để ít nhất trong 3 -5ngày, sau đó lấy lên xem cơm đã mốc hay chưa. Nếu
nấm mốc phát triển thưa thớt lại đem chôn thêm 1– 2ngày nữa, thấy nấm mốc
nhiều và đổi màu (không phải màu trắng) là đạt. Lúc này tạo IMO
1.
Nếu trong
quá trình nuôi hộp bị thấm nước thì phải làm lại.
+ Tiếp theo đem toàn bộ lượng cơm đã mốc trong hộp cho vào chậu. Cho
đường vào chậu, lượng đường cân bằng với lượng cơm mốc, dùng tay nhào cho
đường và cơm mốc thành một hỗn hợp sánh lại. Đem cho hỗn hợp trên vào
trong vại sạch, dùng khăn giấy đậy miệng vại và buộc chặt bằng dây cao su. Đặt
vại ở nơi thoáng mát, tránh ánh nắng mặt trời trực tiếp , nhiệt độ 23 – 25
o
C trong
vòng 5-7 ngày để hỗn hợp lên men tạo IMO
2.
+ Sau đó thêm nước vào hỗn hợp lên men IMO
2
tỉ lệ 2 : 1000, từ từ phun
lên 50kg cám gạo cho đến khi hỗn hợp ẩm ướt, độ ẩm khoảng 65 -70%. Đánh
đống hỗn hợp, che phủ bảng túi nilon hoặc lá cây, tránh ánh nắng trặc tiếp. Ủ
trong vòng 5-7 ngày , nhiệt độ 23 – 25
o
C, theo dõi nhiệt độ trong quá trình ủ để
không vượt quá 50
o
C. Khi bề mặt bên trong đống có mốc trắng, nhiệt độ bên
trong đống ổn định thì quá trình lên men kết thúc, IMO
3
có thể sử dụng để ủ
phân.

+ IMO
3
trộn với phân gà -> ủ -> IMO
4.
 Cách ủ phân:
• Nguyên liệu:
+ Phân gà: 250 kg
+ Đất, nước, cây xanh , rơm rạ
+ IMO
3

+

Chế phẩm Bio-plant: 2 lọ, mỗi lọ 100ml
Thành phần chính trong chế phẩm Bio-plant gồm :
+ Vi sinh vật hữu ích: Bacillus, Clostridium, Achoromobactor, Stromyes,
Aerobactor, Nitrobactor, Nitrosomonas, Pseudomonas
+ Nấm hữu ích: Aspergillus,Fusarium, Polyporus, Rhizopus
• Cách ủ:
CT P
1
: Trộn đều IMO
3
với 250kg phân gà, đất (15%), rơm (1%), cây xanh
(1%). Pha IMO
2
với nước với tỷ lệ 2/1000 để làm ướt đống phân ủ.
CT P
2
: Pha 50ml chế phẩm Bio-plant với nước tỷ lệ 1/ 2000 phun đều lên

250kg phân gà, đất (15%), rơm (1%), cây xanh (1%), cám gạo (5%) sau đó trộn
đều.
Lên gọn đống, che đậy, đảo 1 lần trong quá trình ủ trong vòng hơn 1
tháng, theo dõi lấy mẫu phân tích và sử dụng.
 Các chỉ tiêu theo dõi:
+ Xác định nhiệt độ của đống phân (2 ngày 1 lần).
+ Phân tích các thành phần dinh dưỡng của phân gà trước và sau khi ủ:
độ ẩm, pH, C/N, hàm lượng chất hữu cơ (OM); N, P
2
0
5
, K
2
0 tổng số; Ca, Mg,
hàm lượng kim loại nặng.
+ Xác định mật độ vi sinh vật trong phân ủ cuối cùng.
3.2.2. Thí nghiệm 2: Xác định lượng phân ủ thích hợp đến sinh trưởng, phát
triển, năng suất và chất lượng của cây cải xanh(Brassica juncea (L)).
 Bố trí các công thức thí nghiệm
• Thí nghiệm gồm 4 công thức khối ngẫu nhiên đầy đủ ( RCB/RCBD) với 3
lần nhắc lại, tổng số CTTN
o
: 12.
Trong đó : CT P1: 10 tấn/ha  5kg/5m
2

CT P2: 20 tấn/ha  10kg/5m
2

CT P3: 30 tấn/ha  15kg/5m

2
CT P4: 40 tấn /ha  20kg/5m
Trên nền thí nghiệm 2 tấn phân vi sinh Sông Gianh/ha, dinh dưỡng thảo
mộc, biện pháp sinh học phòng trừ sâu bệnh hại.
• Sơ đồ thí nghiệm:
Nhắc lại I P1 P3 P4 P2
Nhắc lại II P3 P2 P4 P1
Nhắc lại III P4 P2 P3 P1
 Các biện pháp kĩ thuật
• Chuẩn bị giống:
+ Lượng hạt giống: khoảng 50g
+ Hạt giống ngâm trong nước sau 3- 4giờ vớt ra để ráo nước, sau đó ủ một
đêm rồi đem gieo.
+ Loại bỏ những hạt xấu, dị dạng.
• Chuẩn bị đất:
+ Làm đất nhỏ, tơi xốp
+ Sau đó trộn đều đất với các mức phân gà ủ cho vào hộp xốp, kích thước
hộp 0,24m
2
.
• Kỹ thuật trồng và chăm sóc:
+ Gieo trực tiếp theo hàng, 24 cây/hộp, tránh để hạt tiếp xúc với phân. Sau
khi gieo xong nên rải một lớp tro trấu mỏng để phủ hạt, trên mặt luống phủ lớp
rơm mỏng và tưới đủ ẩm.
+ Chăm sóc:
Thường xuyên tưới đủ ẩm để hạn chế sự phát triển của sâu non, bọ nhẩy
sống ở phần gốc cây dưới đất. Nhưng nếu thấy bệnh phát triển nên hạn chế tưới
nước.
2-3 ngày phun dinh dưỡng bằng dung dịch cá ngâm 1 lần
Theo dõi thường xuyên nếu thấy xuất hiện các sâu bệnh hại như trứng sâu

ăn tạp, sâu tơ, bệnh thối nhũn… có thể dùng tay bắt giết.
c)Các chỉ tiêu theo dõi
• Theo dõi ngẫu nhiên 5 cây/ ô thí nghiệm, 10 ngày/ lần.
• Các chỉ tiêu sinh trưởng:
+ Chiều cao cây (cm)
+ Số lá
• Năng suất
+ Năng suất lí thuyết (kg/m
2
) = (năng suất cá thể * số cây/ 1 đơn vị diện tích
) / 1000
+ Năng suất thực thu (kg/hộp) = Thực thu trên ô thí nghiệm
d) Phương pháp xử lí số liệu
Số liệu được xử lí trên chương trình IRRISTAT 5.0 và bằng phần mềm
EXCEL.
PHẦN IV
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Ảnh hưởng của việc ủ phân gà bằng IMO và bằng chế phẩm Bio-plant
đến chất lượng của phân.
4.1.1. Sự thay đổi nhiệt độ đống phân trong quá trình ủ
Nhiệt độ của đống phân được theo dõi ở 5 điểm chéo góc của đống phân,
kết quả cho thấy:
Sau một tuần ủ nhiệt độ tăng lên rất nhanh, trung bình nhiệt độ tăng lên
4,5
0
C đối với ủ phân bằng IMO, khoảng 6
0
C đối với ủ phân bằng chế phẩm Bio-
plant và 4
0

C với công thức đối chứng. Sau đó nhiệt độ tiếp tục tăng lên và đạt
đỉnh cao nhất vào tuần thứ 3, ủ bằng chế phẩm Bio-plant nhiệt độ cao nhất
52,35
0
C, IMO là 51,85
0
C và đối chứng là 50,75
0
C. Nhiệt độ bắt đầu giảm xuống
vào tuần thứ 4. Sang tuần thứ 5 nhiệt độ có xu hướng giảm tiếp và dần ổn định ở
36,4
0
C.
Đồ thị 4.1.Sự thay đổi nhiệt độ đống phân trong quá trình ủ
Muller (1980) nhiệt độ đống phân ủ sau 7 ngày có thể đạt tới 55 - 60
0
C
và có thể đạt đỉnh cao ở 65 - 70
0
C. Nhiệt độ tăng là kết quả hoạt động của vi
sinh vật, đồng thời nhưng gây tổn thất về chất dinh dưỡng đặc biệt là đạm.

×