Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

giáo trình dịch tễ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 129 trang )





TRƯỜNG TRUNG CAÁP Y TEÁÁ TAÂY NINH




GIAÙO TRÌNH

CHÖÔNG TRÌNH TRUNG CAÁP

TRƯỜNG TRUNG CẤP Y TẾÁ TÂY NINH
BỘ MÔN Y HỌC CỘNG ĐỒNG
      


GIÁO TRÌNH









CHƯƠNG TRÌNH TRUNG CẤP





BIÊN SOẠN VÀ TRÌNH BÀY:
BS.CKI. Nguyễn Văn Thịnh
Mục lục.
Giáo trình Dịch tễ học.
MỤC LỤC



Trang
1.
Chương trình Dịch tễ học
1
2.
Đại cương Dịch tễ học - Quá trình dịch
3
3.
Các bệnh truyền nhiễm mới nổi
18
4.
Các phương pháp và công cụ thu thập thông tin
30
5.
Các phương pháp nghiên cứu dịch tễ học
50
6.
Đo lường tần suất bệnh trạng: số đo mắc bệnh, số đo tử vong
64
7.

Phương tiện và hóa chất và nguyên lý phòng chống dịch
76
8.
Thu thập và bảo quản bệnh phẩm
85
9.
Giám sát dịch tễ học
94
10.
Các bước điều tra xử lý một vụ dịch
106
11.
Viết báo cáo và trình bày kết quả
117
12.
Tài liệu tham khảo
125



Trang 1 Chương trình Dịch tễ học.
Giáo trình Dịch tễ học.
CHƯƠNG TRÌNH DỊCH TỄ HỌC

Mã số môn học: C’.00.02
Số học phần: 01
Số đơn vị học trình: 03 (2/1)
Số tiết: 60 (30/30)
Thời điểm thực hiện: Học kỳ 4
Phân bố thời gian: 8 tiết/tuần – tổng số 8 tuần



ĐIỀU KIỆN: Học sinh đã học xong chương trình chuyên môn.
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được các khái niệm và nguyên lý của dịch tễ học.
2. Tính toán được các chỉ số sức khoẻ chủ yếu của cộng đồng.
3. Mô tả được tình hình sức khoẻ và bệnh tật của cộng đồng.
4. Trình bày được chu trình dịch và cách phòng chống, quản lý, xử lý dịch.
NỘI DUNG:
Tt
Nội dung bài học
Số tiết
Tổng
LT
TH
1.
Đại cương Dịch tễ học - Quá trình dịch
4
4
0
2.
Các bệnh truyền nhiễm mới nổi
4
4
0
3.
Các phương pháp và công cụ thu thập thông tin
8
4
4

4.
Các phương pháp nghiên cứu dịch tễ học
8
4
4
5.
Đo lường tần suất bệnh trạng: số đo mắc bệnh, số đo tử vong
10
4
6
6.
Phương tiện và hóa chất và nguyên lý phòng chống dịch
4
3
1
7.
Thu thập và bảo quản bệnh phẩm
6
2
4
8.
Giám sát dịch tễ học
2
2
0
9.
Các bước điều tra xử lý một vụ dịch
8
2
6

10.
Viết báo cáo và trình bày kết quả
6
1
5

Cộng
60
30
30
Chương trình Dịch tễ học. Trang 2

Giáo trình Dịch tễ học.
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN:
 Yêu cầu giáo viên:
- Giáo viên là Bác sỹ chuyên ngành Y tế công cộng hoặc đã được huấn luyện
chương trình Dịch tễ học.
 Phương pháp giảng dạy:
- Lý thuyết: thuyết trình, áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực.
- Thực hành: thực hành tại lớp. Tổ chức nhóm, thảo luận, làm bài tập tình huống.
Có thể xem tranh, Video, Slide. Lớp học chia thành các tổ, mỗi tổ khoảng 10 – 12
học sinh.
 Trang thiết bị dạy học:
- Thực hành: đảm bảo đủ dụng cụ theo cơ số quy định.
 Đánh giá:
- Kiểm tra thường xuyên: 02 cột điểm, bài viết dạng câu hỏi nhỏ.
- Kiểm tra định kỳ: 01 cột điểm, bài tập xử lý tình huống hoặc trắc nghiệm.
- Thi kết thúc môn học: bài thi trắc nghiệm 60 câu trong 45 phút
Trang 3 Đại cương về dịch tễ học.
Giáo trình Dịch tễ học.

ĐẠI CƯƠNG VỀ DỊCH TỄ HỌC - QUÁ TRÌNH SINH DỊCH
BS.CKI. Nguyễn Văn Thịnh
MỤC TIÊU HỌC TẬP
1. Trình bày lịch sử, khái niệm về dịch tễ
2. Trình bày mục tiêu, đối tượng nghiên cứu của dịch tễ học.
3. Mô tả chu trình nghiên cứu dịch tễ học.
4. Mô tả quá trình sinh dịch, các đặc điểm của dịch.

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DỊCH TỄ HỌC
Dịch tễ học là một khoa học y học rất cổ. Từ thời xưa, Hipocrate, là người đầu
tiên đặt nền móng cho khoa học này, ông đã đưa ra quan niệm rằng, sự phát triển
bệnh tật ở người có thể liên quan đến những yếu tố của môi trường bên ngoài của
một cá thể, nhưng vào thời đó và một thời gian dài tiếp theo dịch tễ học đã phát triển
rất chậm.
Dịch tễ học, được dịch từ một từ tiếng Anh là epidemiology. Theo từ nguyên,
epidemiology bắt nguồn từ 3 từ La tinh, epi có nghĩa là về, demos có nghĩa là dân, và
logos là môn học. Như vậy, dịch tễ học là một môn học khảo sát về những hiện tượng
xảy ra ở người dân.
Vào lúc khởi thủy trong lịch sử phát triển của dịch tễ học, những hiện tượng đó
là những hiện tượng xảy ra hàng loạt, và lây lan từ người này sang người khác trong
một tập thể vào một thời điểm nào đó, thí dụ như một trận dịch hạch, dịch tả Nói
một cách khác, lúc ban đầu, dịch tễ học chỉ nghiên cứu những bệnh lây thành dịch.
Chính vì thế, cho đến nay, còn không ít người vẫn hiểu lầm rằng dịch tễ học chỉ quan
tâm đến những bệnh truyền nhiễm. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của y khoa,
những nhà khoa học đã nhận ra rằng có những bệnh vẫn xảy ra hàng loạt ở con
người, nhưng không lây từ người này sang người khác, thí dụ, ung thư phổi, xơ vữa
động mạch, tai nạn giao thông, bướu cổ
Bằng cách áp dụng những phương pháp nghiên cứu của dịch tễ học, các
chuyên gia trong ngành y đã xác định được những nguyên nhân, hay những yếu tố đã
tạo điều kiện khiến cho con người mắc những bệnh không lây nói trên, và từ đó, đề ra

những biện pháp phòng chống rất hiệu quả.
Khi mô tả về bệnh, hoặc nói chung là những hiện tượng sức khỏe, nhà dịch tễ
học không chỉ diễn tả một cách chung chung rằng bệnh đã xảy ra nhiều hay ít trong
một tập thể người, mà cụ thể hơn, họ sẽ cho thấy những tần số và tỷ lệ bệnh ở
những nhóm người có những thuộc tính đặc biệt, cư ngụ tại một khu vực riêng biệt,
và vào một thời điểm nào đó trong năm.
BS.CKI. Nguyễn Văn Thịnh. Trang 4

Giáo trình Dịch tễ học.
Bệnh là một quá trình biến đổi từ trạng thái sinh lý bình thường đến một mức
độ làm thay đổi chức năng của một bộ phận hoặc một cơ quan trong cơ thể con
người. Tuy nhiên, y khoa không chỉ nghiên cứu bệnh tật mà còn quan tâm đến những
hiện tượng liên quan đến bệnh tật. Ung thư phổi là một bệnh có tử vong rất cao,
thường xảy ra ở những người hút thuốc lá. HIV/AIDS thường gặp ở gái mại dâm,
những người mua dâm, những người nghiện ma túy sử dụng chung bơm kim tiêm.
Tiêu chảy thường gặp ở những trẻ em không có thói quen rửa tay trước khi ăn, và
sau khi đi cầu. Hút thuốc lá không phải là bệnh tật mà là một hiện tượng có liên quan
đến bệnh ung thư phổi, cũng như mại dâm, ma túy đối với HIV/AIDS, và hành vi không
rửa tay đối với bệnh tiêu chảy. Hút thuốc lá, mại dâm, ma túy, và những hành vi kém
vệ sinh là những hiện tượng liên quan đến sức khỏe.
Cũng có những nguyên nhân để những hiện tượng này xảy ra hàng loạt ở một
tập thể người vào một thời điểm nào đó, và dịch tễ học cũng nghiên cứu những
nguyên nhân gây những ra hiện tượng này.
Để đi tới được quan niệm dịch tễ học hiện đại như hiện nay, lịch sử phát triển
của dịch tễ học trải qua nhiều thời kỳ, nổi bật nhất là ba cột mốc đánh dấu những giai
đoạn phát triển đặc biệt góp phần hình thành cơ sở phát triển của dịch tễ học hiện
đại.
- John Graunt là người đầu tiên đã định lượng các hiện tượng sức khỏe và bắt đầu
chú ý rằng tần số mắc bệnh khác nhau ở các lứa tuổi khác nhau, giới tính khác
nhau.

- Năm 1893 William Farr đã thiết lập một hệ thống đếm số chết và nguyên nhân chết.
Ông đã đóng góp rất nhiều cho việc hình thành về phương pháp nghiên cứu dịch tễ
học hiện đại như định nghĩa quần thể có nguy cơ, phương pháp so sánh giữa các
đối tượng khác nhau, chọn nhóm so sánh thích hợp và rất coi trọng đến các yếu tố
có thể liên quan đến tình trạng sức khoẻ như tuổi, thời gian phơi nhiễm.
- W. Farr, có John Snow là người đầu tiên đưa ra giả thuyết về một yếu tố bên ngoài
có liên quan chặt chẽ với một bệnh. J. Snow là người đầu tiên đã nêu đầy đủ các
thành phần của định nghĩa dịch tễ học, và đã quan niệm đúng đắn về một đề cập
dịch tễ học, mà dịch tễ học hiện đại đang sử dụng ngày nay để không những hình
thành một giả thuyết mà còn kiểm định giả thuyết đó nữa.
Từ đó đến nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các khoa học cơ bản và y học cơ
sở, dịch tễ học đã có thể cung cấp những phương pháp tin cậy trong việc nghiên cứu
của tất cả các lĩnh vực y học.
Thành tựu đáng chú ý nhất là các phương pháp thiết kế nghiên cứu dịch tễ học,
và các kỹ thuật thu thập và phân tích các dữ kiện dịch tễ, đã tạo điều kiện dễ dàng cho
việc đánh giá vai trò của các yếu tố nguy cơ đối với các bệnh mạn tính và hiệu quả của
các biện pháp can thiệp điều trị và dự phòng.
Trang 5 Đại cương về dịch tễ học.
Giáo trình Dịch tễ học.
Với sự phát triển của máy vi tính, các kỹ thuật và phương pháp dịch tễ học ngày
nay có thể triển khai trên những quy mô rộng lớn đối vơí nhiều vấn đề sức khoẻ khác
nhau đã làm tăng độ chính xác và độ tin cậy của các công trình nghiên cứu dịch tễ học
trong mọi lĩnh vực y tế tiến hành trên quần thể người, góp phần bảo vệ và nâng cao
sức khỏe cộng đồng ngay cả trước khi những cơ chế xuất hiện và lan truyền một vấn
đề sức khoẻ nào đó chưa được biết rõ.
KHÁI NIỆM DỊCH TỄ HỌC
Từ trước đến nay, cùng với sự phát triển của dịch tễ học, đã có nhiều định
nghĩa về môn học này, mỗi định nghĩa đánh dấu một bước phát triển ở thời kỳ đó.
Tháng 10/1980, tại Manila, Tổ chức y tế thế giới đưa ra định nghĩa: Dịch tễ học là
một khoa học nghiên cứu sự phân bố sức khỏe và bệnh tật của con người, lý giải sự

phân bố đó nhằm làm cho các dịch vụ y tế hoạch định có cơ sở, việc giám sát bệnh tật
được thực hiện và các chương trình phòng chống, khống chế bệnh tật được triển
khai và có thể đánh giá được.
Định nghĩa này cho thấy dịch tễ học có 3 thành phần liên quan mật thiết với
nhau: tần suất bệnh, sự phân bố bệnh tật và các yếu tố quy định sự phân bố bệnh tật.
1. Tần suất bệnh:
Tần suất bệnh cho phép nhà dịch tễ định lượng về bệnh tật có tồn tại hoặc
đang xảy ra thế nào trong cộng đồng. Những số liệu về tần suất bệnh là điều kiện tiên
quyết cho bất kỳ một cuộc điều tra nào về mô hình bệnh tật của cộng đồng.
Phải định lượng các hiện tượng sức khỏe đó dưới dạng số tuyệt đối, đo đếm
chính xác và dưới dạng tỷ số để có thể đem so sánh được.
2. Sự phân bố bệnh tật:
Sự phân bố tần số mắc và tần số chết đối với một bệnh trạng nhất định được
nhìn từ ba góc độ của dịch tễ học: Con người-Không gian-Thời gian, để có thể trả lời
được câu hỏi là một bệnh trạng nào đó được phân bố như thế nào, ở những ai (tuổi
nào, giới tính nào, nghề nghiệp nào, dân tộc nào) ở đâu (vùng địa lý nào, nước nào)
vào thời gian nào (trước kia, hiện nay, năm, tháng nào).
3. Các yếu tố quy định sự phân bố bệnh tật:
Các yếu tố quy định sự phân bố các bệnh trạng bao gồm mọi yếu tố nội và
ngoại sinh thuộc nhiều lĩnh vực, bản chất khác nhau có ảnh hưởng đến sự mất cân
bằng sinh học đối với một cơ thể khiến cơ thể đó không duy trì được tình trạng sức
khỏe bình thường nữa.
Nghiên cứu các yếu tố quy định sự phân bố tần số tình trạng đó, xem tại sao lại
có sự phân bố như vậy, mới lý giải được các yếu tố nguyên nhân hoặc các yếu tố
phòng ngừa đối với từng bệnh trạng nhất định.
BS.CKI. Nguyễn Văn Thịnh. Trang 6

Giáo trình Dịch tễ học.
Sự hiểu biết và nắm vững ba thành phần liên quan chặt chẽ với nhau đó trong
định nghĩa dịch tễ học là rất cần thiết trong quá trình lập luận dịch tễ học.

Quá trình lập luận dịch tễ học thường được bắt đầu bằng sự nghi ngờ về
những ảnh hưởng có thể có của một phơi nhiễm đặc thù nào đó đến sự xuất hiện,
duy trì, thoái trào của một bệnh trạng nhất định.
Sự nghi ngờ này có thể nảy sinh từ những thực hành lâm sàng, xét nghiệm,
những báo cáo thu thập tình hình các bệnh trạng, những nghiên cứu mô tả dịch tễ
học các bệnh trạng để phác thảo nên những giả thuyết về sự liên quan giữa một phơi
nhiễm đối với một bệnh trạng: giả thuyết về một quan hệ nhân - quả.
Giả thuyết nhân quả này sẽ được kiểm định bằng các nghiên cứu dịch tễ trên
thông qua việc so sánh nhóm bệnh và nhóm đối chứng để xác định xem có một kết
hợp thống kê hay không, bao hàm cả việc loại trừ các sai số hệ thống, loại trừ các may
rủi và nhiễu và rồi sau cùng là tiến hành một suy luận xem kết hợp thống kê đó có
phản ánh một kết hợp nhân quả giữa một phơi nhiễm và bệnh hay không.
MỤC TIÊU CỦA DỊCH TỄ HỌC
Với những quan niệm và định nghĩa của dịch tễ học như đã nêu ở trên, dịch tễ
học có mục tiêu chung và mục tiêu chuyên biệt như sau:
1. Mục tiêu chung:
Đề xuất được những biện pháp can thiệp hữu hiệu nhất để phòng ngừa, khống
chế và thanh toán những vấn đề sức khỏe của con người.
2. Các mục tiêu chuyên biệt:
2.1. Xác định căn nguyên hay các yếu tố nguy cơ của bệnh:
Mục đích có ý nghiã nhất của dịch tễ học là tiến hành những can thiệp nhằm
làm giảm thiểu tỷ lệ mắc và /tỷ lệ chết đối với một bệnh.
Để làm được như vậy, chúng ta cần biết bệnh đã lan truyền từ cơ thể này sang
cơ thể kia như thế nào.
Nếu biết rõ các yếu tố căn nguyên hoặc những yếu tố nguy cơ của bệnh và có
thể làm giảm thiểu việc loại trừ phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ đó, thì chương
trình phòng chống với bệnh mới có hiệu quả.
2.2. Xác định tỷ lệ, phân bố và chiều hướng bệnh trong cộng đồng:
Xác định tỷ lệ mắc bệnh đó trong cộng đồng, phân bố của nó như thế nào, mức
độ phổ biến hay lan tràn trong cộng đồng ra sao. Nói một cách khác là gánh nặng

bệnh tật đó trong cộng đồng là như thế nào.
Điều này rất quan trọng trong việc hoạch định kế hoạch cung cấp các dịch vụ
đối với sức khỏe cộng đồng cũng như cho các kế hoạch đào tạo cán bộ cho tương lai
cho các hoạt động chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Trang 7 Đại cương về dịch tễ học.
Giáo trình Dịch tễ học.
2.3. Nghiên cứu quá trình diễn biến tự nhiên và tiên lượng của bệnh:
Có những bệnh diễn biến nghiêm trọng hơn các bệnh khác, một số bệnh gây tử
vong nhanh chóng, một số bệnh khác lại có thời kỳ sống sót hoặc dài hoặc ngắn Tất
cả những điều đó đòi hỏi chúng ta phải xác định được quá trình diễn biến tự nhiên
của bệnh, từ đó mới có thể xây dựng những chương trình can thiệp hoặc điều trị
hoặc trong việc phòng ngừa những biến.
2.4. Đánh giá các hiệu quả của các biện pháp phòng bệnh và chữa bệnh:
Dịch tễ học có nhiệm vụ quan trọng là cung cấp những thiết kế nghiên cứu
nhằm đánh giá hiệu quả của những biện pháp phòng bệnh và chữa bệnh một cách
khách quan và đáng tin cậy.
2.5. Cung cấp cơ sở phát triển các chính sách liên quan đến vấn đề sức khỏe:
Mọi quyết định về đường lối và chính sách đều phải dựa trên những thông tin
hay bằng chứng khoa học và đáng tin cậy.
Dịch tễ học sẽ cung cấp những phương pháp nhằm đưa ra những thông tin về
tình hình, phân bố, các yếu tố nguy cơ và hiệu quả của các biện pháp can thiệp và dự
phòng, làm cơ sở cho việc đề xuất những chính sách phù hợp, đặc biệt là việc cung
cấp các dịch vụ y tế nhằm cải thiện sức khỏe cộng đồng.
2.6. Cung cấp thông tin cho việc lập các mô hình dự báo bệnh:
Dựa trên những hiểu biết về căn nguyên hay các yếu tố nguy cơ của bệnh, tỷ
lệ, phân bố và chiều hướng bệnh trong cộng đồng, quá trình diễn biến tự nhiên và
tiên lượng, hiệu quả của các biện pháp phòng và điều trị, người ta có thể xây dựng
các mô hình phát triển bệnh và từ đó có thể dự báo được diễn biến bệnh trong tương
lai thông qua các thiết kế phần mềm trên máy vi tính.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Dịch tễ học nghiên cứu các quy luật của sự phát sinh (xuất hiện, tái diễn) và
diễn biến (gia tăng, giảm đi, kết thúc) của các hiện tượng sức khỏe xảy ra trong quần
thể người trên những quy mô nhất định làm ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe cộng
đồng và sức sản xuất của xã hội.
Các bệnh trạng được kể ở đây bao gồm các bệnh trạng đã hình thành định
nghĩa rõ ràng như các bệnh truyền nhiễm, các bệnh mạn tính và mọi trạng thái không
bình thường về thể chất, tâm thần, xã hội của dân chúng.
Trong mối liên hệ của chúng, các bệnh trạng chịu ảnh hưởng tác động qua lại
chặt chẽ của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài khác nhau.
Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu của dịch tễ học là các quy luật phân bố của các
bệnh trạng xảy ra trong những quần thể dân chúng nhất định, với các yếu tố nguyên
nhân chi phối tình trạng phân bố đó.
BS.CKI. Nguyễn Văn Thịnh. Trang 8

Giáo trình Dịch tễ học.
Đối với chủ thể con người, bên cạnh những đặc điểm về tuổi, giới, phong tục,
tập quán, chủng tộc, dân tộc người ta còn quan tâm đến cả những đặc thù sinh học,
tâm sinh lý trong mối tương tác toàn diện với các đặc điểm tự nhiên, xã hội trong đó
các cá thể sinh sống.
Dịch tễ học có khả năng xác định căn nguyên hay yếu tố nguy cơ của các hiện
tượng sức khỏe cộng đồng, tìm ra những yếu tố nguy cơ chi phối sự phát sinh và diễn
biến của bệnh trạng, để rồi từ đó đề xuất ra những biện pháp đúng đắn, hữu hiệu
nhằm hạn chế và thu hẹp dần phân bố tần số các bệnh trạng tiến tới thanh toán các
bệnh trạng đó trong quần thể.
1. Mô tả bệnh trạng và sự phân bố:
Mô tả bệnh trạng với sự phân bố tần số của chúng dưới các góc độ: Chủ thể
con người - không gian - thời gian, trong mối quan hệ tương tác thường xuyên của cơ
thể cùng các yếu tố nội ngoại sinh, nhằm hình thành nên giả thuyết về quan hệ nhân
quả giữa yếu tố nguy cơ và bệnh trạng (Dịch tễ học mô tả).
2. Phân tích dữ kiện:

Phân tích các dữ kiện thu thập từ dịch tễ học mô tả, tìm cách giải thích những
yếu tố căn nguyên có thể chịu trách nhiệm cho sự xuất hiện và phân bố với bệnh
trạng. Tiến hành những nghiên cứu phân tích, áp dụng các kiến thức về cả thống kê
học và y sinh học để xác định căn nguyên và các tác động của chúng đến các hiện
tượng sức khỏe nghiên cứu. Nói một cách khác là tiến hành kiểm định những giả
thuyết được hình thành từ dịch tễ học mô tả, trên cơ sở đó, đề xuất các biện pháp
can thiệp thích hợp (Dịch tễ học phân tích).
3. Kiểm tra, đánh giá biện pháp can thiệp:
Dịch tễ học tìm cách thử nghiệm, so sánh hiệu quả của các biện pháp can thiệp
khác nhau hay so sánh với nhóm đối chứng, bằng những phương pháp kỹ thuật ít sai
số nhất, nhằm mang lại nhũng thông tin có giá trị nhất về hiệu quả của các biện pháp
can thiệp (Dịch tễ học can thiệp).
4. Xây dựng mô hình bệnh tật:
Xây dựng các mô hình lý thuyết về bệnh trạng trên cơ sở khái quát hoá sự phân
bố cùng với những mối tương tác với các yếu tố căn nguyên, giúp cho việc ngăn ngừa
khả năng xuất hiện, gia tăng và phân bố rộng rãi của bệnh trạng trên thực tế trong
những quần thể tương tự (Dịch tễ học lý thuyết).
CHU TRÌNH NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ
1. Chu trình nghiên cứu dịch tễ học:
Các nghiên cứu dịch tễ học được bắt đầu trước hết bằng những nghiên cứu
mô tả sự phân bố của bệnh trong những nhóm quần thể theo con người - không gian
- thời gian.
Trang 9 Đại cương về dịch tễ học.
Giáo trình Dịch tễ học.
Dịch tễ học mô tả cũng còn là bước đầu trong việc làm sáng tỏ các nguyên
nhân của bệnh vì đã nêu rõ ra các nhóm người có tỷ lệ mắc cao hoặc thấp đối với một
bệnh nhất định, và hình thành nên những giả thuyết về nguyên nhân, về tại sao lại có
sự khác nhau về tỷ lệ mắc bệnh đó.
Bước tiếp theo của chu trình nghiên cứu dịch tễ học là kiểm định những giả
thuyết hình thành từ các nghiên cứu mô tả bằng các nghiên cứu dịch tễ học phân tích.

Các nghiên cứu dịch tễ học phân tích không chỉ có nhiệm vụ xác định hoặc loại bỏ giả
thuyết đã nêu của nghiên cứu mô tả, mà còn mang lại những kết quả là tiền đề cho
những nghiên cứu mô tả khác để dẫn tới những giả thuyết mới thích hợp hơn.
Sau khi giả thuyết đề xuất từ các nghiên cứu mô tả đã được kiểm định là đúng
bởi các nghiên cứu phân tích tiến hành trên quần thể thì người ta tiến hành các
nghiên cứu can thiệp nhằm đánh giá hiệu quả của các biện pháp tác động vào yếu tố
nguy cơ nhằm làm giảm khả năng mắc hoặc chết do bệnh đó, thường là các can thiệp
tiêm phòng vaccin, thay đổi hành vi, lối sống, hay các phương pháp điều trị mới.
Nếu các nghiên cứu dịch tễ học nêu trên mang lại những kết quả tin cậy và có
giá trị, cuối cùng người ta có thể xây dựng được các mô hình dịch tễ học về sự xuất
hiện, lan tràn và dự phòng bệnh trạng mà ta nghiên cứu.

















Sơ đồ 1.1: Chu trình nghiên cứu dịch tễ học
Nghiên cứu mô tả

HÌNH THÀNH
GIẢ THUYẾT NHÂN QUẢ
Nghiên cứu phân tích
Nghiên cứu can thiệp
Nghiên cứu thực nghiệm
KIỂM ĐỊNH
GIẢ THUYẾT NHÂN QUẢ
ĐÁNH GIÁ GIẢ THUYẾT
XÂY DỰNG
MÔ HÌNH DỊCH TỄ
BS.CKI. Nguyễn Văn Thịnh. Trang 10

Giáo trình Dịch tễ học.
2. Sự khác biệt giữa dịch tễ học và lâm sàng:
Nếu những người làm lâm sàng quan tâm đến từng người bệnh từ chẩn đoán,
điều trị và chăm sóc sức khỏe sau khi điều trị, thì những người làm công tác dịch tễ
học lại quan tâm đến các bệnh xảy ra trong cộng đồng, theo dõi sự diễn biến của nó,
và các biện pháp ngăn ngừa việc lan truyền bệnh.
Đề cập dịch tễ học là một quá trình lập luận qua nhiều bước nối tiếp nhau về
xác suất xuất hiện một sự kiện sức khoẻ, dựa trên những quan sát sự kiện không phải
trên một cá thể nhất định nào mà trên cả một quần thể. Trong các đề cập dịch tễ học,
một khái niệm cần được hiểu rõ đối với một hiện tượng sức khỏe của quần thể không
phải chỉ đơn giản là tổng các hiện tượng sức khoẻ của cá thể mà còn có nhiều yếu tố
khác chi phối vào nữa.
Các nghiên cứu quan sát là rất quan trọng trong dịch tễ học, cho nên cần coi
trọng quá trình lập luận này để có thể làm sáng tỏ các yếu tố nguyên nhân của bệnh,
từ đó xác định mối quan hệ nhân quả giữa yếu tố nguy cơ và bệnh.

Lâm sàng
Dịch tễ học

Đối tượng
Người bệnh
Bệnh hay một hiện tượng sức khỏe
Nội dung
Chẩn đoán từng cá thể
Xác định bệnh trong quần thể
Căn nguyên
Làm người bệnh mắc
Xuất hiện, lan truyền bệnh trong quần thể
Mục đích
Người bệnh khỏi
Khống chế thanh toán bệnh trong quần thể
Theo dõi
Sức khỏe người bệnh
Giám sát dịch tễ học, phân tích hiệu quả của
các biện pháp can thiệp ngăn ngừa bệnh
xuất hiện trong quần thể
Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa lâm sàng và dịch tễ học

Chuỗi lập luận dịch tễ học gồm các giai đoạn liên quan mật thiết nhau:
- Thu thập những thông tin dịch tễ học: có thể bổ sung với những thông tin từ các
môn học khác như di truyền học, vi sinh vật học, hoá sinh học, môi sinh học, xã
hội học để làm sáng tỏ nguyên nhân của bệnh và hình thành giả thuyết về mối
liên quan giữa yếu tố căn nguyên/yếu tố nguy cơ và bệnh.
- Xác định một kết hợp thống kê giữa phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ và bệnh. Các
phương pháp này thường xuất phát trước hết từ những kết hợp giữa một yếu tố
nguy cơ và bệnh dựa trên các nghiên cứu ở các nhóm quần thể. Từ đó người ta
có thể quy cho những khác biệt về một số đặc đặc tính hay yếu tố nào đó, thường
là những yếu tố về môi trường, thói quen sống của con người, đặc điểm di truyền,
nghĩa là có thể nghĩ đến bất kỳ yếu tố nội sinh hoặc ngoại sinh nào, nếu yếu tố này

là khác biệt giữa các nhóm đem so sánh đó.
Trang 11 Đại cương về dịch tễ học.
Giáo trình Dịch tễ học.
- Suy luận sinh học từ kết hợp thống kê đó. Sau khi đã khẳng định sự kết hợp giữa
một yếu tố nguy cơ và bệnh từ nghiên cứu, thì bước tiếp theo bao giờ cũng đi tới
việc xác định xem liệu kết hợp đó có phù hợp với các dữ kiện thu thập được, từ
các cá thể ở trong nhóm đó hay không, bằng cách tìm cách trả lời những câu hỏi
như: ở những người bệnh có gặp những đặc tính đó nhiều hơn những người
không có bệnh hay không? Hoặc ở những người có đặc tính đó, bệnh phát triển
bệnh nhiều hơn những người không có đặc tính đó hay không? Sự xác định từ
những dữ kiện của cá thể là rất cần thiết, vì nó sát với ý nghĩa sinh học hơn là
những nghiên cứu từ những dữ kiện theo nhóm.
QUÁ TRÌNH SINH DỊCH
Các bệnh nhiễm khuẩn nối tiếp nhau liên tục với sự có mặt của các vi sinh vật là
tác nhân gây bệnh, xảy ra trong những điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Thực tế
quá trình dịch là một dãy những ổ dịch có liên quan với nhau, ổ dịch này phát sinh ra
từ ổ dịch khác với mối liên quan bên trong của chúng được quyết định bởi các điều
kiện sống của xã hội loài người.
1. Ba mắt xích trực tiếp:
- Nguồn truyền nhiễm:
Là những cơ thể sống của người (hoặc súc vật) trong đó vi sinh vật gây bệnh ký
sinh tồn tại được và phát triển được.
- Đường truyền nhiễm:
Để bảo toàn nòi giống, các vi sinh vật gây bệnh, sau khi được đào thải ra ngoài
cơ thể của nguồn truyền nhiễm chúng phải nhờ các yếu tố của môi trường xung
quanh làm phương tiện vận chuyển đến một cơ thể lành khác.
Các yếu tố của môi trường xung quanh như không khí, nước, thực phẩm,
bụi, ruồi, muỗi, bọ chét Sự vận động của các yếu tố này đưa vi sinh vật gây bệnh từ
một nguồn truyền nhiễm sang một cơ thể lành gọi là đường truyền nhiễm. Có 4 loại
đường truyền nhiễm gồm: hô hấp, tiêu hoá, máu và da niêm.

- Khối cảm nhiễm:
Tất cả những người khoẻ mạnh, nếu chưa có miễn dịch, đều có thể cảm nhiễm
với các bệnh nhiễm khuẩn. Nếu đã có khả năng miễn dịch thì sẽ không mắc hoặc mắc
bệnh nhẹ. Khi các cá thể trong khối cảm nhiễm bị mắc bệnh thì đến lượt họ lại trở
thành nguồn truyền nhiễm và quá trình dịch lại tiếp diễn.
2. Hai yếu tố tác nhân gián tiếp:
- Yếu tố thiên nhiên:
Thời tiết, khí hậu, điều kiện vật lý, thảm thực vật, hoàn cảnh sinh thái đều có
ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển, hoặc lụi tàn một bệnh truyền nhiễm nhất định.
BS.CKI. Nguyễn Văn Thịnh. Trang 12

Giáo trình Dịch tễ học.
- Yếu tố xã hội:
Tổ chức xã hội, tổ chức chăm sóc y tế, trình độ văn hoá của một xã hội đều có
ảnh hưởng, nhiều khi quyết định đến sự xuất hiện, duy trì hoặc thanh toán một bệnh
truyền nhiễm.
3. Các hình thái và mức độ dịch:
3.1. Dịch:
Một bệnh truyền nhiễm sẽ trở thành một vụ dịch khi trong một thời gian ngắn,
có tỷ lệ mắc hoặc chết vượt quá tỷ lệ mắc hoặc chết trung bình trong nhiều năm liền
tại khu vực không gian đó. Để xác định dịch người ta tính hệ số năm dịch (HSND):



Trong đó:



Nếu hệ số năm dịch có giá trị > 1 là đang xảy ra dịch.
3.2. Dịch địa phương:

Là bệnh dịch chỉ xảy ra trong một khu vực không gian nhất định, trong địa
phương đó,không lan tràn ra các địa phương khác. Dịch địa phương tồn tại và diễn
biến theo những yếu tố căn nguyên quy định của dịch. Những yếu tố này chỉ có và
diễn biến trong địa phương đó, khi những yếu tố căn nguyên này bị thay đổi hoặc
triệt tiêu thì dịch địa phương cũng thay đổi hoặc bị đình chỉ.
Ví dụ: dịch sốt rét ở một số xã giáp biên giới của Châu Thành, Tân Biên, Bến
cầu có tỷ lệ mắc cao hơn những nơi khác trong tỉnh.
3.3. Đại dịch và dịch tối nguy hiểm:
- Đại dịch là bệnh dịch xảy ra ở ít nhất 2 quốc gia hoặc gây nên số mới mắc rất lớn
khác thường, cho dù mới chỉ là lưu hành trong một nước.
- Dịch tối nguy hiểm là những bệnh không những có khả năng làm mắc nhiều người
mà còn gây ra tử vong cao.
3.4. Các trường hợp tản phát:
Là những trường hợp mắc lẻ tẻ không có quan hệ gì với nhau về không gian,
thời gian.
Số mắc bệnh trong nhiều năm đó
Số tháng trong nhiều năm đó
B =
Số mắc bệnh trong năm đó
12 tháng
A =
Chỉ số mắc bệnh trung bình tháng trong năm (A)
Chỉ số mắc bệnh trung bình tháng trong nhiều năm (B)
Hệ số năm dịch =
Trang 13 Đại cương về dịch tễ học.
Giáo trình Dịch tễ học.
3.5. Dịch theo mùa:
Có những dịch có những diễn biến khá đều đặn theo các tháng trong năm, rõ
rệt nhất là đối với đa số các bệnh truyền nhiễm. Tính theo mùa chịu ảnh hưởng nhiều
của các yếu tố thiên nhiên, nhưng cũng có can thiệp của các yếu tố xã hội. Để xác định

tính chất theo mùa của dịch, người ta tính hệ số mùa dịch (HSMD) theo tháng:



Trong đó:



Nếu hệ số mùa dịch có giá trị > 1 là tháng dịch và nhiều tháng dịch liền nhau
trong một năm được coi là mùa dịch.
3.6. Khái niệm dịch vận dụng với các bệnh không truyền nhiễm, mạn tính:
Trước đây không có khái niệm dịch với các bệnh này. Khái niệm này được thay
thế bằng khái niệm tăng hoặc giảm trong một thời gian dài nhiều năm, bằng cách
theo dõi về tỷ lệ mới mắc của một bệnh trạng nhất định.
4. Quá trình tự nhiên của bệnh:
4.1. Phân loại theo dịch tễ:
- Giai đoạn cảm nhiễm: là giai đoạn bệnh chưa phát triển nhưng cơ thể đã bắt đầu
phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ có thể xuất hiện bệnh tương ứng.
- Giai đoạn tiềm tàng: số lượng mầm bệnh bắt đầu tăng lên nhưng chưa đến mức để
truyền bệnh.
- Giai đoạn lây nhiễm: số lượng mầm bệnh đạt mức có khả năng lây truyền bệnh.
4.1. Phân loại theo lâm sàng:
- Giai đoạn ủ bệnh: cơ thể chưa có triệu chứng nào của bệnh nhưng đã bắt đầu có
những thay đổi bệnh lý do sự tác động qua lại giữa cơ thể và yếu tố nguy cơ. Có
thể chẩn đoán bệnh dựa vào chỉ số sinh học.
- Giai đoạn lâm sàng: cơ thể xuất hiện các triệu chứng có thể chẩn đoán được về
phương diện lâm sàng.
- Giai đoạn hậu lâm sàng: giai đoạn khỏi hoàn toàn. Có thể để lại các khuyết tật nhất
thời hoặc vĩnh viễn ở nhiều mức độ tàn phế khác nhau.
A =

Số mắc bệnh trong tháng
Số ngày trong tháng đó
Số mắc bệnh trong năm
365 ngày
B =
Chỉ số mắc bệnh trung bình ngày trong tháng (A)
Chỉ số mắc bệnh trung bình ngày trong năm (B)
Hệ số mùa dịch =
BS.CKI. Nguyễn Văn Thịnh. Trang 14

Giáo trình Dịch tễ học.













Sơ đồ 1.2: Quá trình tự nhiên của bệnh

5. Phân loại bệnh truyền nhiễm:
Căn cứ vào vị trí cảm nhiễm thứ nhất người ta chia các bệnh truyền nhiễm làm
4 loại khác nhau:
- Bệnh truyền nhiễm theo tiêu hoá: lan truyền theo đường phân-miệng.

- Bệnh truyền nhiễm theo hô hấp: lan truyền theo giọt nước bọt, bụi - hít thở.
- Bệnh truyền nhiễm theo tuần hoàn: lan truyền theo đường máu- tuần hoàn.
- Bệnh truyền nhiễm theo da, niêm mạc: lan truyền ngoài da, niêm mạc.
- Một số bệnh có nhiều cơ chế lan tràn.
6. Các cấp độ dự phòng:
- Dự phòng cấp 0:
Dự phòng yếu tố nguy cơ, không để yếu tố nguy cơ xảy ra. Ví dụ không trồng
cây anh túc sẽ không có thuốc phiện, vì vậy không có người nghiện ma túy
- Dự phòng cấp 1:
Dự phòng sự xuất hiện của các bệnh. Các biện pháp nâng cao sức khoẻ bao
gồm điều kiện ăn, ở, làm việc, tập luyện và các biện pháp bảo vệ đặc hiệu bao gồm
gây miễn dịch, thanh khiết môi trường, chống các tai nạn xã hội, tai nạn nghề
nghiệp
- a: Cảm nhiễm
- b: Tiềm tàng
- c: Lây nhiễm
- 1: Ủ bệnh
- 2: Lâm sàng
- 3: Hậu lâm sàng
Thời gian
Nồng độ mầm bệnh
a
b
1
2
c
3
Trang 15 Đại cương về dịch tễ học.
Giáo trình Dịch tễ học.
- Dự phòng cấp 2:

Phát hiện sớm và điều trị kịp thời để có thể chữa khỏi hẳn ngay từ đầu, hoặc
làm chậm lại quá trình tiến triển của bệnh, phòng ngừa các biến chứng, hạn chế được
khuyết tật, khả năng lây lan rộng của bệnh truyền nhiễm.
- Dự phòng cấp 3:
Điều trị với hiệu quả tối đa cho những người đã mắc bệnh nhằm hạn chế các tật
nguyền do các bệnh trạng để lại và phục hồi các chức năng để khắc phục các tật
nguyền, hạn chế tử vong cho người đã mắc bệnh.
7. Miễn dịch quần thể:
Sự lan tràn của vụ dịch có thể liên quan đến hai yếu tố: khả năng lây nhiễm của
tác nhân và khả năng mắc bệnh của một người trong dân số được mô tả là số lượng
cảm nhiễm (dân số nguy cơ).

























Sơ đồ 1.3: Hiện tượng tảng băng trong bệnh nhiễm
ĐÁP ỨNG TẾ BÀO
BIẾN
ĐỔI
THẤY
ĐƯỢC
BIẾN
ĐỔI
KHÔNG
THẤY
ĐƯỢC
Hủy tế bào
Rối loạn chức
năng tế bào
Mầm bệnh
phát triển
chưa hoàn
tất
Tiếp xúc
không
thâm nhập
tế bào
Tiếp xúc
không nhiễm
trùng

Nhiễm trùng
không triệu
chứng
Bệnh trung
bình
Bệnh nặng,
điển hình
Chết

TRIỆU
CHỨNG
THỂ
ẨN
ĐÁP ỨNG VẬT CHỦ
BS.CKI. Nguyễn Văn Thịnh. Trang 16

Giáo trình Dịch tễ học.
Sức đề kháng của cả dân số chống lại một bệnh nhiễm trùng sẽ mạnh khi phần
lớn cá thể trong dân số đó được miễn dịch (do được chủng ngừa hoặc đã mắc bệnh
trước đó). Trong quần thể được miễn dịch, bệnh không thể lan truyền trong cộng
đồng do tỷ lệ người được miễn dịch lớn hơn nhiều so với số cảm nhiễm. Tỷ lệ miễn
dịch trong dân số càng cao thì số người mắc càng ít. Nói cách khác, dân số có miễn
dịch quần thể là dân số đã được bảo vệ.
Như vậy, để bảo vệ quần thể không nhất thiết phải chủng ngừa 100% dân số mà
chỉ cần đạt một tỷ lệ có dân số miễn dịch đủ hiệu quả để ngăn chặn dịch xảy ra. Tỷ lệ
này khác nhau tùy thuộc vào tác nhân. Ví dụ với bệnh sởi cần tỷ lệ miễn dịch quần thể
đạt 85-94%, với bệnh bạch hầu chỉ cần đạt 75%
Để có miễn dịch quần thể cần một số điều kiện sau:
- Tác nhân gây bệnh chỉ giới hạn trong một loại vật chủ.
- Cách lây truyền tương đối trực tiếp trong những cá thể của dân số.

- Miễn dịch phải bền vững.
- Dịch chỉ xảy ra trong dân số trộn lẫn ngẫu nhiên, trong đó xác suất mắc bệnh của
các cá thể như nhau.
Trang 17 Đại cương về dịch tễ học.
Giáo trình Dịch tễ học.
TỰ LƯỢNG GIÁ

C©u 1 :
Người đầu tiên nêu đầy đủ các thành phần của dịch tễ học:
A.
W. Farr
B.
J. Snow
C.
J. Graunt
D.
Lambeth
C©u 2 :
Mục tiêu chung của dịch tễ học bao gồm những yếu tố sau, NGOẠI TRỪ:
A.
Đề xuất giải pháp phòng ngừa
B.
Đề xuất giải pháp điều trị
C.
Đề xuất giải pháp khống chế
D.
Một câu trả lời khác
C©u 3 :
Người đầu tiên thiết lập hệ thống đếm số chết và nguyên nhân chết:
A.

J. Graunt
B.
W. Farr
C.
J. Snow
D.
Lambeth
C©u 4 :
Tần suất bệnh cho phép nhà dịch tễ học định lượng điều gì:
A.
Bệnh có đang xảy ra
B.
Bệnh xảy ra thế nào
C.
Bệnh đã chấm dứt chưa
D.
Tất cả đều đúng
C©u 5 :
Tam giác dịch tễ học:
A.
Con người-môi trường-vật nuôi
B.
Tác nhân-túc chủ-môi trường
C.
Con người-tác nhân-vật nuôi
D.
Vật nuôi-tác nhân-môi trường
C©u 6 :
Người đặt nền móng đầu tiên cho ngành dịch tễ học:
A.

Aschimet
B.
Hipocrate
C.
J. Graunt
D.
J. Snow
C©u 7 :
Người đầu tiên đưa ra giả thuyết yếu tố bên ngoài liên quan chặc chẽ đến bệnh:
A.
W. Farr
B.
J. Snow
C.
J. Graunt
D.
Lambeth
C©u 8 :
Dịch tễ học nhìn nhận vấn đề dưới góc độ:
A.
Con người
B.
Không gian
C.
Thời gian
D.
Tất cả đúng
C©u 9:
Đây là những đối tượng nghiên cứu của dịch tễ học, NGOẠI TRỪ:
A.

Quy luật của các hiện tượng sức khỏe
B.
Các bệnh trạng
C.
Quy luật phân bố bệnh trạng
D.
Một câu trả lời khác
C©u 10:
Đây là những mục đích chuyên biệt của dịch tễ học, NGOẠI TRỪ:
A.
Nghiên cứu diễn tiến tự nhiên và tiên
lượng bệnh
B.
Cung cấp giải pháp kinh phí dự
phòng bệnh
C.
Cung cấp thông tin dự báo bệnh
D.
Một câu trả lời khác
C©u 11:
Người đầu tiên định lượng các hiện tượng sức khỏe:
A.
W. Farr
B.
J. Graunt
C.
J. Snow
D.
Lambeth
C©u 12:

Đây là những thành phần chính của dịch tễ học, NGOẠI TRỪ:
A.
Sự phân bố bệnh tật
B.
Các yếu tố bệnh tật
C.
Các yếu tố ảnh hưởng bệnh tật
D.
A và C đúng
BS.CKI. Nguyễn Văn Thịnh. Trang 18

Giáo trình Dịch tễ học.
CÁC BỆNH TRUYỀN NHIỄM MỚI NỔI
BS.CKI. Nguyễn Văn Thịnh
MỤC TIÊU HỌC TẬP
1. Trình đặc điểm một số vụ dịch điển hình.
2. Xác định được tầm quan trọng và nguyên nhân xuất hiện các bệnh truyền nhiễm mới
nổi.
3. Trình bày phân loại các bệnh truyền nhiễm mới nổi.
4. Mô tả đặc điểm dịch tễ một số bệnh truyền nhiễm.
ĐẠI CƯƠNG
Bệnh truyền nhiễm mới nổi (emerging infectious disease - EID) là bệnh truyển
nhiễm mới xuất hiện trong một quần thể hoặc đã từng tồn tại nhưng có tỷ lệ mắc tăng
nhanh hoặc lan rộng sang các vùng địa dư mới và đe dọa tăng lên nhanh chóng trong
thời gian tới. Các bệnh truyền nhiễm mới nổi này gây ra bởi sự đột biến hoặc biến đổi
các tác nhân hiện tại (như cúm A/H5N1), hoặc chính là một bệnh đang lưu hành địa
phương lại lan rộng ra khu vực mới hoặc cộng đồng khác (như Virus Tây sông Nin) hay
là một bệnh đã lưu hành trước đây nhưng nổi lên trở lại vì hiện tượng kháng thuốc (lao
kháng trị).
Một vụ dịch ở bất cứ nơi nào trên thế giới chỉ cần vài giờ đã có thể trở thành

mối đe dọa hiển nhiên cho một khu vực khác, và thậm chí trên toàn thế giới. Trong
vòng 5 năm trở lại đây, tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization - WHO) đã
phải giải quyết hơn 1.100 vụ dịch bệnh lớn nhỏ trên toàn cầu.
Hiểu biết về cơ chế bệnh sinh, đáp ứng miễn dịch, biện pháp điều trị, phòng
ngừa các bệnh mới nổi còn nhiều hạn chế, gây nhiều khó khăn cho việc kiểm soát, can
thiệp của ngành y tế do đó đòi hỏi nhiều công trình nghiên cứu quy mô về các lĩnh vực
này.
Các khám phá gần đây cho thấy một chủng Virus gây ra hội chứng suy giảm miễn
dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) đã nhiễm ở người ít nhất từ năm 1959 cho thấy các
tác nhân gây bệnh truyền nhiễm có thể lưu hành âm thầm hàng năm trước khi nổi lên
như một vấn đề y tế nổi trội trong xã hội.
MỘT SỐ VỤ DỊCH ĐIỂN HÌNH
1. Khu vực đông Âu:
Vào đầu những năm 1990, một vụ dịch Bạch hầu lớn tràn qua vùng đông Âu. Do
số lượng các ca mắc bệnh tăng cao kỷ lục trong 3 năm liền nên vụ dịch này được coi là
một tình trạng khẩn cấp mang tính toàn cầu.
Các bệnh truyền nhiễm mới nổi.
Giáo trình Dịch tễ học.
Vào năm 1994, gần 90% các trường hợp bệnh được ghi nhận đã xuất hiện tại
đây. Trong thập kỷ qua khu vực này cũng có sự gia tăng đáng kể bệnh Giang mai và các
bệnh nhiễm khuẩn đường sinh dục khác.
Tại Cộng hoà Liên bang Nga những năm từ 1989 - 1995 tỷ lệ bệnh Giang mai tăng
lên 40 lần, các quốc gia độc lập trong Cộng hoà Liên bang Nga tăng từ 15 đến 30 lần.
2. Khu vực Bắc Mỹ:
Năm 1993, một vụ bùng phát dịch bệnh mới ở Mỹ - Hội chứng viêm phổi do
Hanta Virus. Bệnh xuất hiện do hạn hán đã đẩy loài gặm nhấm mang bệnh tiếp xúc với
con người. Có hơn 50 trường hợp mắc bệnh tại vài bang của Mỹ. Hơn 2/3 trong số đó
đã tử vong. Một đại dịch tả diễn ra tại các nước châu Mỹ với hàng triệu ca mắc bệnh và
khoảng 11.000 ca tử vong.
3. Khu vực châu Phi:

Tại châu Phi trong những năm từ 1996 - 1998, đã có 300.000 trường hợp mắc và
35.000 ca tử vong trong các vụ dịch viêm màng não. Những vụ dịch tả lớn đã tấn công
khu vực đông Phi với hàng vạn người nhiễm ở hơn 10 quốc gia.
Năm 1996, 7 nước châu Phi đã ghi nhận các trường hợp tử vong do sốt vàng,
một loại bệnh sốt xuất huyết khác do Virus, hiện đang lây lan tới nhiều khu vực mới.
4. Khu vực châu Á:
Năm 1994 dịch hạch ở người đã tái xuất hiện ở Malawi, Mozambique và Ấn Độ
sau 15 - 30 năm vắng bóng. Số ca nhiễm trong dịch Rickettsia tại Burundi trong khoảng
thời gian từ 1996-1998 lên tới 100.000 ca. Trong quá khứ bệnh truyền nhiễm do chấy
rận này xuất hiện trong thời kỳ chiến tranh hoặc nạn đói.
Vào năm 1997, một chủng Virus cúm gia cầm vốn chưa từng tấn công con người
đã gây tử vong cho một số người bệnh tại Hồng Kông.
Cũng trong năm 1997, một chủng tụ cầu trùng vàng có tên là Staphylococcus
aureus kháng lại với vancomycin đã được ghi nhận tại Nhật Bản và Hoa Kỳ.
Trong trường hợp không có thuốc thay thế vancomycin đã bị mất hiệu quả điều
trị hoặc bệnh này tiếp tục nổi lên và không thể khống chế thì một số bệnh tật trở nên
vô phương cứu chữa như các kỷ nguyên trước khi có kháng sinh.
5. Các vụ dịch toàn cầu:
Cuối năm 2002, hội chứng hô hấp cấp tính nặng (hay còn gọi là SARS) đã xuất
hiện, gây dịch trên phạm vi toàn cầu. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, 30 quốc gia và 6
vùng lãnh thổ trên thế giới đã bùng nổ dịch SARS làm 249 ca mắc trong đó có 219 nhân
viên y tế.
Dịch SARS lây lan nhanh và có số mắc và tử vong cao, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến tình hình kinh tế xã hội của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
BS.CKI. Nguyễn Văn Thịnh. Trang 20

Giáo trình Dịch tễ học.
Tại những vùng khác sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue cũng tăng lên do sự
phát triển tràn lan của muỗi, tạo ra những khu vực cư trú mới của muỗi ở các nước
châu Mỹ, một phần châu Phi và châu Á. Trong 40 năm qua số lượng các ca mắc bệnh đã

tăng lên ít nhất 20 lần và số ca sốt xuất huyết Dengue lần thứ 2 hoặc lần thứ 3 cũng
tăng lên so với các giai đoạn trước.
Lao kháng thuốc đang có chiều hướng gia tăng. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO), tỷ lệ nhiễm lao kháng nhiều thuốc hiện nay ở mức cao chưa từng có.
Mỗi năm có khoảng nửa triệu ca lao kháng nhiều thuốc (MDR-TB), khoảng 5% trong số
9 triệu ca nhiễm lao hàng năm.
Cũng trong báo cáo này, lần đầu tiên lao kháng thuốc cực mạnh (EDR-TB) được
đề cập, đây là dạng gần như không chữa được. Hiện nay số liệu về lao kháng thuốc tại
Việt Nam chưa có con số chính xác. Nhưng với mức sống thấp và quá chật chội hiện
nay tại các thành phố lớn, tỷ lệ nhiễm lao kháng nhiều thuốc ở Việt Nam không phải
thấp.
NGUYÊN NHÂN XUẤT HIỆN DỊCH BỆNH TRUYỀN NHIỄM MỚI NỔI
Các bệnh truyền nhiễm mới nổi được đặc biệt chú ý kể từ hai thập kỷ trở lại đây
do sự gia tăng các trường hợp kháng kháng sinh và phát hiện ra các tác nhân vi sinh
gây bệnh mới, đồng thời cũng ghi nhận thấy gia tăng sự phát tán bệnh tật vốn dĩ trước
đây chỉ xảy ra lẻ tẻ mang tính địa phương.
Tại Hoa Kỳ vào năm 2001, việc sử dụng hóa chất và kháng sinh quen thuộc đã tỏ
ra không hữu hiệu trong việc khống chế tác hại của việc phát tán vi khuẩn than qua thư
tín như một loại vũ khí sinh học.
Các nguyên nhân làm xuất hiện hoặc tái xuất hiện các bệnh mới nổi là rất phức
tạp. Mặc dầu các đặc tính của các vi sinh vật gây bệnh như sự biến đổi gen là vô cùng
quan trọng nhưng con người cũng có vai trò to lớn trong các bệnh mới nổi.
Toàn cầu hóa, hành vi và tập quán sinh hoạt và sản xuất của con người cũng cần
được đặc biệt chú ý trong cuộc chiến chống lại các bệnh mới nổi.
Các yếu tố có nguy cơ cao làm xuất hiện các bênh mới nổi có thể kể đến như
sau:
- Sự thích nghi của các vi sinh vật gây bệnh như các hiện tượng biến đổi gen ở Virus
cúm A độc lực cao.
- Thay đổi khả năng đề kháng của cơ thể như các nhiễm trùng cơ hội xuất hiện do suy
giảm miễn dịch ở người bệnh nhiễm HIV/AIDS.

- Biến đổi khí hậu và thời tiết: Các bệnh do véc tơ truyền như bệnh sốt Tây sông Nin
do muỗi truyền đang phát triển mạnh vì hiện tượng trái đất đang nóng lên.
- Thay đổi trong sự phân bố cư dân và thương mại, ví dụ như đi lại, giao lưu buôn bán
làm cho bệnh SARS nhanh chóng lan tràn khắp thế giới.
Các bệnh truyền nhiễm mới nổi.
Giáo trình Dịch tễ học.
- Sự suy sụp của Hệ thống y tế dự phòng, ví dụ như tình trạng hiện tại ở Zimbabue.
- Sự phát triển kinh tế, ví dụ như sử dụng kháng sinh bừa bãi trong chăn nuôi có thể
dẫn đến hiện tượng kháng kháng sinh nhanh chóng
- Nghèo đói và bất bình đẳng xã hội, ví dụ như bệnh lao là một vấn nạn tại các khu vực
thu nhập thấp.
- Chiến tranh và nội chiến.
- Khủng bố sinh học, ví dụ như vụ tấn công bằng vi khuẩn than năm 2001 tại Hoa Kỳ.
- Xây đập thủy lợi và các công trình xây dựng lớn: gây ra các biến đổi lớn về sinh thái
và là điều kiện thuận lợi gây gia tăng bệnh sốt rét và các bệnh do muỗi truyền.
MỘT SỐ BỆNH TRUYỀN NHIỄM MỚI NỔI
1. Bệnh truyền nhiễm mới nổi nhóm A:
Bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát
tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh.
- Bệnh cúm độc lực cao (HPAI)
- Bệnh tả
- Bệnh dịch hạch
- Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS)
- Bệnh sốt Tây sông Nin
2. Bệnh truyền nhiễm mới nổi nhóm B:
Các bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền nhanh và có thể gây tử vong.
- HIV và AIDS
- Sốt Dengue
- Bệnh viêm gan siêu vi trùng (Viêm gan A,B,C,D,E)
- Bệnh lao

- Bệnh bạch hầu
- Bệnh viêm màng não tuỷ gây dịch
- Bệnh do liên cầu lợn ở người (Streptococcus suis)
3. Bệnh truyền nhiễm mới nổi nhóm C:
Các bệnh truyền nhiễm ít nguy hiểm, khả năng lây truyền không nhanh.
- Bệnh giang mai.
- Bệnh sốt xuất huyết do Virus Han-ta.
- Kháng kháng sinh.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×