PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. BỐI CẢNH ĐỀ TÀI
Trong những năm qua sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước ta đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Số trường lớp ngày càng tăng và đa dạng về loại hình
đào tạo.
Trong tình hình hiện nay, nền kinh tế đang phát triển cùng với sự phát triển
của xã hội thì khoa học công nghệ cũng phát triển mạnh mẽ. Xã hội đòi hỏi
người có học vấn hiện đại không chỉ có khả năng lấy ra từ trí nhớ các tri thức
dưới dạng có sẵn đã lĩnh hội được ở trường phổ thông mà còn phải có năng lực
chiếm lĩnh, sử dụng các tri thức mới một cách độc lập, khả năng đánh giá các sự
kiện, các hiện tượng một cách chủ động trong cuộc sống. Vì vậy, đứng trước
nhu cầu tất yếu của xã hội, ngành giáo dục phải đổi mới phương pháp dạy học
theo xu hướng phát huy tính tích cực của học sinh là yêu cầu cấp bách của thời
đại, là xu thế tất yếu khách quan.
Trong luật giáo dục của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
quốc hội thông qua tháng 12 năm 1996 ở mục II trong điều 4 đã nêu rõ: “
Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tính tự giác chủ động, tư duy
sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập, ý chí
vươn lên”.
Với sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức, sự nghiệp giáo dục và
đào tạo có vai trò hết sức quan trọng với sự phát triển nền kinh tế đất nước.
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu rõ: “Giáo
dục thực sự là quốc sách hàng đầu thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục &
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt
Nam. Những biện pháp cụ thể là: Đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương
pháp dạy và học, phát huy tính sáng tạo, khả năng vận dụng thực hành của người
học”. Để thực hiện được mục tiêu này chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy
học, trong đó việc sử dụng phương tiện dạy học và thiết bị kĩ thuật để tổ chức
- 1 -
hoạt động học tập nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập là vấn
đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Do vai trò của phương tiện học tập:
Hiện nay, công tác dạy và học dần đi vào hướng tập trung vào người học là
chủ yếu. Con đường để nâng cao tính tích cực, chủ động giải quyết vấn đề học
tập là sử dụng phương tiện dạy học.Vì các phương tiện học tập giúp học sinh thu
thập thông tin một cách thuận lợi nhất.
Phương tiện dạy học giúp cho giáo viên có thêm công cụ để tổ chức học
tập, hướng cho học sinh đào sâu những tri thức và kích thích hứng thú của học
sinh vào nhận biết quan hệ giữa các hiện tượng nhằm phát huy tính qui luật hình
thành khái niệm.
Vai trò của phương tiện trực quan không chỉ là minh họa mà còn là phương
tiện để học sinh tự lực quan sát, mô tả, phân tích đối tượng, phát hiện kiến thức,
qua đó mà tư duy được phát triển.
Có thể chỉ là hình tĩnh, nhưng gắn liền với thiết bị là máy chiếu nên nó gây
được hứng thú học tập cho học sinh, bên cạnh đó việc bảo quản và vận chuyển
rất thuận lợi.
2. Do thực tiễn dạy học hiện nay:
Chương trình sinh học trung học cơ sở là chìa khóa để mở cánh cửa bước vào
thế giới sinh vật. Từ đó giáo dục cho học sinh có thể tự hào về thiên nhiên tươi
đẹp của đất nước chúng ta, có đa dạng sinh học cao, có nhiều động vật quí hiếm.
Đồng thời cho học sinh thấy được trách nhiệm phải bảo vệ và gìn giữ cho thế
giới sinh vật bền vững lâu dài. Để làm được điều đó, học phải luôn đi đôi với
hành. Mục đích của sinh học trung học cơ sở bao gồm các kiến thức mang tính
hệ thống đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đòi hỏi phải sử dụng
nhiều phim tư liệu, hình ảnh giúp học sinh dễ hiểu, sâu sát với thực tế thiên
nhiên và khám phá sinh vật dễ dàng hơn. Nhưng phương pháp dạy học hiện nay
ở các trường Trung học cơ sở vẫn còn sử dụng phương pháp truyền thống (theo
lối truyền thụ một chiều, giáo viên đọc và học sinh ghi chép) trong khi đó
- 2 -
phương pháp trực quan nói chung và kênh hình nói riêng ít được sử dụng ( nhất
là hình ảnh vẽ, sơ đồ bản trong, mẫu vật, mô hình….). Do đó phần nào hạn chế
về chất lượng dạy học.
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG:
1. Phạm vi đề tài:
Sử dụng phương tiện trực quan để phát huy tính tích cực học sinh trong dạy
bài 42, 43, 44, 50 sinh học 9
2. Đối tượng của đề tài:
Học sinh khối 9 trường trung học cơ sở Hòa Điền- Kiên Lương- Kiên Giang
IV. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI:
Từ những cơ sở trên và mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc tìm
tòi các biện pháp thích hợp nhằm tổ chức học sinh học tập tích cực, tiết dạy
phong phú, hấp dẫn , đồng thời nâng cao chất lượng bộ môn, qua đó giáo dục tốt
việc bảo vệ môi trường, kĩ năng sống cho học sinh nên tôi thấy việc nghiên cứu
đề tài : “ Sử dụng phương tiện trực quan để phát huy tính tích cực học tập của
học sinh trong dạy học bài 42, 43, 44, 50 sinh học 9 là việc cần thiết”.
V. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI:
Có thể nói những điểm mới của đề tài là: xác định cơ sở lí luận về cơ sở
dạy học nói chung và phương tiện trực quan nói riêng, xác định hệ thống
phương tiện trực quan để tổ chức dạy học sinh 9 và đề xuất những biện pháp sử
dụng phương tiện trực quan.
VI. TÍNH SÁNG TẠO VỀ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN
ĐỀ
Qua việc sử dụng phương tiện trực quan vào bài 42, 43, 44, 50 thấy được
kết quả đáng kể, đa số các em không còn thấy khó khăn khi giải quyết vấn đề,
hứng thú hơn trong học tập, tích cực khai thác kiến thức, đồng thời chủ động
nắm được kiến thức thông qua tranh ảnh sinh động thay vì đọc kênh chữ trong
sách giáo khoa.
Vấn đề sử dụng pương tiện dạy học hiện nay là phổ biến nhưng quan trọng
phải sử dụng như thế nào là hiệu quả, phương tiện đó có đáp ứng nhu cầu của
- 3 -
học sinh hay không, phương tiện đó có kích thích được sự chú ý của học sinh
hay không, chính vì thế việc nghiên cứu sử dụng phương tiện trực quan vào các
bài kênh chữ nhiều và ít liên hệ được kiến thức thực tế là hoàn toàn có cơ sở
khoa học.
PHẦN II. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:
Trong tác phẩm “ Những cơ sở lí luận dạy học” BPEXIPÔP đã đưa phương
tiện nghe nhìn là phương tiện để cải tiến quá trình dạy học để nhấn mạnh vai trò
của phương tiện nghe, nhìn, tác giả nêu: “ Trong chục năm gần đây, các nhà
giáo dục học, các nhà lãnh đạo các ngành giáo dục quốc dân, các kĩ sư đã chú ý
đến những phương tiện kĩ thuật mới mẻ khác nhau mà việc áp dụng các phương
tiện ấy sẽ nâng cao hiệu quả dạy học lên rất nhiều, ở nhiều nước người ta đang
cố gắng mở rộng việc sử dụng các phương tiện đó”.
Trong cuốn đại cương về phương pháp dạy học sinh học tập 1 do NMV
ezilin và VM cổ vũ cấp 1 biện soạn. Khi đề cập đến phương pháp trực quan, các
tác giả đã nêu: “ Đồ dùng trực quan dùng trong các bài giảng sinh vật học có thể
là mẫu tự nhiên có thể là mẫu hình tượng ( các bản đồ, tranh ảnh, sơ đồ, mô
hình, phim ảnh ) ở các đoạn khác tác giả nêu vai trò của phương tiện trực quan
hình tượng sau: “ ……Cung cấp cho học sinh biểu tượng về cấu tạo, màu sắc vật
nghiên cứu, về ngoại cảnh tự nhiên và lối sống của chúng….”
Ở nước ta, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực chủ động của học sinh, nhằm tạo những con người lao động sáng tạo đã
được đặt ra trong ngành giáo dục từ những năm 60 với khẩu hiệu: “ Biến quá
trình giáo dục thành quá trình tự đào tạo”. Trong phương pháp giáo viên chủ yếu
là người hướng dẫn, tổ chức giúp đỡ học sinh tự tìm tòi con đường đi đến kiến
thức và học sinh tự dành lấy kiến thức.
- 4 -
Từ năm 1975 có rất nhiều công trình nghiên cứu về phương pháp, biện pháp,
hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Trong đó,
các tác giả đề cập đến nhiều biện pháp để rèn luyện trí thông minh như Trần Bá
Hoành “Rèn luyện trí thông minh cho học sinh qua chương trình di truyền và
biến dị” (nghiên cứu giáo dục số 18-1986) Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành – 2000,
phương pháp tích cực trong dạy học ở trường trung học cơ sở đã đề cập đến thực
trạng kênh hình: “ Phim, đèn chiếu…” Sử dụng công tác độc lập với sách giáo
khoa để phát huy tính tích cực của học sinh: “Nguyễn Văn Vinh, Đặng Thị Dạ
Thủy – luận án thạc sĩ, khoa học tâm lí 1977, Đinh Quang Báo”, “hình thành
biện pháp học tập trong dạy học sinh giáo sư Trần Bá Hoành- nghiên cứu giáo
dục số 1-1994”. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
Nguyễn Kì “ thiết kế bài học theo phương pháp tích cực” và một số hội thảo
về đổi mới phương pháp dạy học đã được tổ chức như: “ hội thảo phương pháp
dạy học phổ thông’’ Do hội tâm lí học- giáo dục tổ c hức tại Hà Nội….
Năm 1995-1996, Bộ Giáo Dục đào tạo có chương trình nghiên cứu “ đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng hoạt động hóa người học”.
Hầu hết các công trình nêu trên đều đi sâu nghiên cứu cơ sở lí luận một số đề
tài theo hướng vận dụng vào giảng dạy các phân môn sinh học ở trường phổ
thông. Song còn ít số lượng và thiếu sự tập trung vào những phần trọng tâm của
chương trình.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ:
Sinh học là một môn học không khó đối với học sinh THCS , nó là môn học
được tổng hợp từ kiến thức của cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, vì thế
học sinh chưa thấy được tầm quan trọng nên còn lúng túng, thờ ơ đối với tiết
học.
Mặt khác, chương trình sinh học phổ thông là những kiến thức đại cương về
sinh học từ trước tới nay của nhân loại. Là môn khoa học thực nghiệm, phương
tiện dạy học là điều cần thiết để giáo viên chuyển tải kiến thức đến học sinh.
Tuy nhiên ở thực tế trường, các phương tiện trang thiết bị cần thiết cho bộ môn
còn thiếu thốn vì vậy việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên còn
- 5 -
gặp rất nhiều khó khăn, hậu quả là tỉ lệ học sinh hứng thú học sinh học còn rất
thấp.
Nhiều học sinh cho rằng việc học bài 42,43,44,50 là trừu tượng khó hiểu vì
không có nhiều tranh ảnh minh họa cho kênh chữ.
Hiện nay việc sử dụng phương tiện trực quan vào việc dạy học cũng rất được
chú trọng, tuy nhiên qua quan sát thực tế các tiết dạy cho thấy việc sử dụng các
tranh ảnh có trong sách giáo khoa là chưa đảm bảo được yêu cầu, mục tiêu của
tiết học , bên cạnh đó việc nghiên cứu chưa sâu về phương tiện dạy học cũng
phần nào ảnh hưởng đến tiết học.
Ngoài ra không phải tiết học nào cũng đảm bảo đầy đủ các phương tiện, thiết
bị cho tiết dạy mà đòi hỏi cần có sự nghiên cứu, tìm tòi có sự kết hợp giữa
phương pháp và các phương tiện một cách phù hợp, đồng thời phải có sự sáng
tạo trong thiết kế đồ dùng dạy học phù phợp cho nội dung bài.
Với tình hình cụ thể ở bộ môn sinh học 9 đặc biệt một số bài cần phân tích
kênh hình để dễ nắm được kiến thức như bài 42, 43, 44, 50, lại không có tranh
ảnh sinh động có liên quan mà chỉ có một vài bức tranh ở sách giáo khoa, điều
đó không làm nổi bật được nội dung cần nghiên cứu. Đặc biệt đứng trước tình
hình hiện nay, dạy học lấy học sinh làm trung tâm luôn được chú trọng chính vì
thế việc tăng cường sử dụng các phương tiện trực quan phục vụ cho tiết dạy là
hết sức cần thiết, học sinh cần phải biết tự phân tích, so sánh khái quát kiến thức
thông qua sự quan sát kênh hình với sự hướng dẫn của giáo viên.
Đặc trưng của bộ môn sinh học 9 lại là nền tảng cho chương trình sinh học ở
các lớp sau này do đó, yêu cầu đòi hỏi ở học sinh là tương đối cao, sau mỗi bài
học học sinh không chỉ nắm kiến thức thôi mà còn khắc sâu và vận dụng được
vào việc giải bài tập, giải thích một số hiện tượng thực tế trong cuộc sống.
Ở chương trình học kì II sinh 9 đề cập nhiều đến môi trường. Bởi môi
trường chính là nơi ở, nơi sinh sống của sinh vật bao gồm các yếu tố tự nhiên và
vật chất nhân tạo bao quanh con người có ảnh hưởng đến đời sống, sự tồn tại,
phát triển của con người và sinh vật. Cũng chính môi trường là nơi chứa đựng
nhiều nguồn tài nguyên quí giá bao gồm tài nguyên rừng, đất, nước, không khí,
- 6 -
sinh vật, các loại khoáng sản…thế nhưng hiện tại môi trường đang trên đà bị suy
thoái về mọi mặt mà tác nhân chủ yếu là do con người trong quá trình khai thác
sử dụng không biết tiết kiệm và gìn giữ. Do đó việc đưa chương trình môi
trường vào bài dạy là hết sức thiết thực.
Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng phát triển, nhiều gia đình cũng quan
tâm đến việc đầu tư cho việc học tập của con em nhiều hơn nhưng đối với bộ
học bài như môn sinh ở cấp trung học cơ sở lại ít được chú trọng, quan tâm nên
phần nào ảnh hưởng đến chất lượng bộ môn, bên cạnh đó việc tiếp thu kiến
thức giáo dục môi trường cho học sinh vẫn còn hạn chế. Vì thế việc đầu tư cho
tiết dạy nhằm thu hút sự chú ý của học sinh là hết sức quan trọng.
Những hạn chế, khó khăn khi giải quyết vấn đề :
* Thuận lợi :
Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước, đời sống giáo viên ngày một nâng
cao. Bên cạnh đó, hằng năm sở giáo dục và đào tạo tỉnh Kiên Giang không
ngừng bồi dưỡng chuyên môn, rèn luyện tay nghề cho giáo viên đứng lớp trong
các lớp tập huấn ngắn hạn.
Được sự quan tâm từ Ban Giám Hiệu nhà trường và Ủy Ban Nhân Dân xã
Hòa Điền đã tạo điều kiện và giúp đỡ những em học sinh có hoàn cảnh khó khăn
được đến lớp.
Trường, lớp khang trang tương đối đầy đủ cơ sở vật chất, phục vụ tốt cho
việc dạy và học.
Giáo viên có ý thức học hỏi phấn đấu, trao đổi nghiệp vụ, tích lũy chuyên
môn để phục vụ giảng dạy.
Các đồng nghiệp trong tổ nhiệt tình đóng góp ý kiến, trao đổi kinh nghiệm
giảng dạy qua các tiết dự giờ, thao giảng, có sự chỉ đạo, giúp đỡ kịp thời của tổ
chuyên môn, BGH nhà trường.
* Khó khăn :
Giáo viên còn thiếu tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học dùng cho môn học
còn thiếu nhiếu, chưa trang bị được phòng thực hành.
- 7 -
Một số bộ phận học sinh còn xem nhẹ môn học cho rằng đây là môn học phụ
do đó trong tiết học còn thiếu tập trung, chú ý, xây dựng bài dẫn đến tiết học
chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Cứ 10 học sinh có 7 học sinh có tư tưởng
như vậy chiếm 70%.
Một số em do hoàn cảnh khó khăn nên phải đi làm thêm phụ giúp gia đình
nên ít có thời gian dành cho học tập. Cứ 10 học sinh có 5 em có hoàn cảnh như
vậy chiếm 50%.
Do phải lao động kiếm sống cùng gia đình nên các em không có điều kiện ôn
lại kiến thức cũ, tự rèn luyện nâng cao kiến thức của mình ở nhà, chưa thật sự
chuẩn bị bài tốt trước khi đến lớp. Cứ 10 học sinh có 6 em như vậy chiếm 60%.
Ngoài ra một số bộ phận học sinh chưa có ý thức phấn đấu trong học tập, ít
quan tâm đến việc chuẩn bị bài ở nhà cũng là một trong những nguyên nhân làm
cho tiết học không được hiệu quả. Cứ 10 học sinh có 6 em là không chuẩn bị bài
trước khi đến lớp chiếm 60%.
Học sinh lĩnh hội kiến thức theo lối học vẹt, qua loa nên phần nào hạn chế
trong việc khắc sâu kiến thức.
Trong điều kiện hiện tại chưa liên kết được các nhóm học tập, giúp đỡ lẫn
nhau giữa các nhóm học sinh ở khu vực gần nhà, tổ, ấp….
Học sinh chưa hứng thú trong việc khai thác kiến thức qua kênh chữ mà phải
có những hình ảnh phù hợp, sinh động kích thích được chú ý của học sinh. Cứ
10 học sinh có 9 em có nhu cầu như vậy.
Những khó khăn chung đó thầy và trò chúng tôi đã phải khắc phục rất nhiều để
đảm bảo chất lượng dạy và học.
Qua kiểm tra chất lượng đầu năm, năm học 2010-2011 tại trường trung học cơ
sở Hòa Điền tôi thu đựơc kết quả như sau :
Lớp
Kết quả 9/1 9/2 9/3
Giỏi 15% 5% 10%
Khá 30% 35% 20%
- 8 -
Trung bình 50% 50% 55%
Yếu 5% 10% 15%
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH:
Trong quá trình giảng dạy tôi luôn tìm tòi, nghiên cứu để lựa chọn nội dung cơ
bản của tiết dạy, chọn phương pháp phù hợp để học sinh tiếp thu kiến thức của
bài học một cách thoải mái, không bị gò bó, thụ động, gây được sự hứng thú học
đối với học sinh. Từ đó đã định ra những kiến thức cần chuẩn bị cho học sinh.
Những thao tác tư duy cần được sử dụng thành thạo, những đơn vị kiến thức cần
truyền thụ trao đổi với các đồng nghiệp trong nhóm, tổ chuyên môn, từng bước
thử nghiệm qua từng bài dạy, chuẩn bị các kiến thức cơ bản cho nội dung bài
này. Giảng kỹ các kiến thức đã dạy, đặc biệt là kiến thức cơ bản, trọng tâm trong
những chương trình sinh học THCS.
Qua quá trình dạy lớp tôi nhận thấy việc sử dụng phương tiện trực quan vào
bài dạy 42, 43, 44,50 sinh học 9 là hết sức thiết thực vì nội dung bài trừu tượng,
khó hiểu. Nếu chỉ sử dụng kênh chữ, học sinh khó có thể nắm được kiến thức
một cách hoàn chỉnh mà phải bằng hình ảnh thật sinh động giúp học sinh so
sánh đối chiếu, từ đó hình thành nên những khái niệm cụ thể, lấy được những ví
dụ trong thực tế. Nếu chỉ sử dụng những hình ảnh trong tranh của sgk để học
sinh quan sát thì chưa thực sự thuyết phục tính tích cực sáng tạo của học sinh, từ
đó tôi đã thiết kế nội dung bài giảng của mình chú trọng việc tự làm đồ dùng dạy
học bằng cách sưu tầm, phác họa lại tranh, sơ đồ có liên quan đến nội dung bài
dạy để học sinh hứng thú hơn trong tiết học.
Tôi xin phép được trình bày một số kinh nghiệm nhỏ trong việc sử dụng
phương tiện trực quan trong dạy học bài 42, 43, 44, 50 sinh học 9, cụ thể như
sau:
* Bài 42: Ảnh hưởng của ánh sáng lên đời sống sinh vật
Dạy mục I- Ảnh hưởng của ánh sáng lên đời sống thực vật :
- 9 -
Để chứng minh được ánh sáng có ánh hưởng đến hoạt động sinh lí thực vật,
ngoài tranh ảnh sgk, ta có thể cho học sinh quan sát một số hình ảnh sau:
Cây trồng ngoài sáng Cây trồng trong bóng râm
-Học sinh sẽ thấy được cùng một loại cây nhưng sống ở môi trường ánh sáng
khác nhau dẫn đến hình thái khác nhau.
+ Cách sắp xếp lá trên thân của cây lá lốt và cây lúa:
Cây lá lốt: Lá xếp ngang nhận nhiều ánh sáng Cây lúa : lá xếp nghiêng tránh tia nắng chiếu thẳng góc
Qua quan sát tranh thấy được sự thích nghi của thực vật đối với môi trường
sống.
Khi phân biệt các nhóm cây ưa bóng và cây ưa sáng, chúng ta có thể đưa ví dụ
cụ thể bằng hình ảnh chụp được của một số loại cây .Thông qua hình ảnh học
sinh có thể nêu những đặc điểm nhận dạng cây ưa sáng và cây ưa tối.
Ví dụ:
1 Cây ưa bóng:
2. Cây ưa sáng:
Từ đó học sinh rút ra được kết luận:
1. Cây ưa sáng gồm những cây sống nơi quang đãng.
Ví dụ:
2. Cây ưa bóng: Gồm những cây sống nơi ánh sáng yếu, dưới tán cây khác
Ví dụ:
Dạy mục II. Ảnh hưởng của ánh sáng lên đời sống động vật :
Thay vì sử dụng từ ngữ để phân tích ảnh hường của ánh sáng đến sự nhận
biết đường đi của kiến thì ta có thể sử dụng hình ảnh trực quan mô tả sự di
chuyển của đàn kiến khi có ánh sáng sẽ giúp học sinh thích thú quan sát và nhận
- 10 -
biết được ánh sáng ảnh hưởng đến sự nhận biết, định hướng di chuyển trong
không gian của động vật.
Cũng trong mục này để cho học sinh phân biệt được động vật ưa sáng và ưa tối
có thể cho học sinh quan sát tranh một số động vật , cho học sinh sắp xếp các
động vật vào nhóm hoạt động ban ngày và nhóm hoạt động về đêm.
Từ đó học sinh nêu được đặc điểm khác nhau giữa hai nhóm động vật:
+ Động vật ưa sáng: Gồm những động vật hoạt động ban ngày
Ví dụ:
+ Động vật ưa tối: Gồm những động vật hoạt động ban đêm, sống trong hang,
hốc đất.
Ví dụ:
Qua việc nghiên cứu sử dụng trực quan trong bài này giúp cho học sinh biết
được ánh sáng ảnh hưởng lên sinh vật và sự thích nghi của sinh vật với môi
trường từ đó học sinh có cách chăm sóc phù hợp từng loại sinh vật, bảo vệ
chúng đúng cách. Đồng thời giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là biết tìm
kiếm, xử lí thông tin, kĩ năng hợp tác và kĩ năng tự tin trình bày ý kiến trước tổ,
nhóm lớp.
Bài 43: Ảnh hưởng của nhiệt độ và độ ẩm lên đời sống sinh vật
Dạy mục I. Ảnh hưởng của nhiệt độ lên đời sống sinh vật:
Với những hình ảnh trong sách giáo khoa không đủ để hấp dẫn được sự chú
ý của học sinh mà có thể sử dụng tranh thật có liên quan của mộn địa lí về đặc
điểm của một số loài động vật hay thực vật sống vùng nam cực, hoặc vùng nhiệt
- 11 -
đới để học sinh thấy rõ hơn về sự thay đổi đặc điểm của các lồi khi sống ở các
mơi trường khác nhau.
Ví dụ:
- Đối với thực vật:
- Đối với động vật:
Từ đó học sinh biết được những ảnh hưởng của nhiệt độ lên đời sống sinh
vật:
+ Ảnh hưởng tới hình thái, hoạt động sinh lí của sinh vật:
Ví dụ:
+ Biết được các lồi sinh vật tồn tại được ở mơi trường khắc nghiệt là do khả
năng thích nghi.
Ví dụ:
Cho học sinh quan sát tranh các nhóm sinh vật, từ đó nhận biết được các
nhóm sinh vật khác nhau:
Dạy mục II. Ảnh hưởng của độ ẩm lên đời sống sinh vật:
Để học sinh hiểu rõ hơn về ảnh hưởng của độ ẩm lên đời sống sinh vật cần
có một số tranh mơ tả đặc điểm bên ngồi của một số lồi ưa ẩm và một số lồi
ưa khơ, trên cơ sở đó học sinh có thể hiểu được những ảnh hưởng của độ ẩm làm
thay đổi hình thái, sinh lí của sinh vật:
Xương rồng và cây bụi vùng hoang mạc Cây cỏ mọc trên các đụn cát ven biển
- 12 -
- Qua đó học sinh biết được đặc điểm của những nhóm sinh vật ưa ẩm hay ưa
khơ:
Ví dụ:
Từ đó học sinh thấy được ảnh hưởng của nhiệt độ và độ ẩm lên đời sống
sinh vật, hình thành cho học sinh ý thức chăm sóc sinh vật trong điều kiện thích
hợp nhất. Đồng thời giáo dục kĩ năng sống cho học sinh bao gồm kĩ năng tìm
kiếm, xử lí thơng tin, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tự tin trình bày ý kiến trước tổ,
nhóm, lớp.
* Bài 44: Ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sinh vật:
Dạy mục I- Quan hệ cùng lồi.
Để học sinh thấy rõ được mối quan hệ hỗ trợ cùng lồi có thể chiếu hình ảnh
các đàn trâu, đàn bò hay linh dương cùng đi kiếm ăn cùng chiến đấu với kẻ thù,
hay chiếu hình ảnh rừng thơng mọc san sát cùng nhau chống được gió bão, hình
ảnh các cây mọc đơn độc dễ bị đổ ngã, hay những con thú tách bầy hay gặp
nguy hiểm bởi sự tấn cơng của thú dữ v.v…
cây bạch đàn đứng riêng lẻ bò gió thổi Các cây thông mọc gần nhau trong rừng .
Trâu rừng sống thành bầy có khả năng
tự vệ chống lại kẻ thù tốt hơn.
Cũng qua những hình ảnh đó giáo viên có thể dẫn dắt cho học sinh thấy
được mối quan hệ cạnh tranh giữa cá thể cùng lồi.
* Bài 44: Ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sinh vật:
Dạy mục I- Quan hệ cùng lồi.
Để học sinh thấy rõ được mối quan hệ hỗ trợ cùng lồi có thể chiếu hình ảnh
các đàn trâu, đàn bò hay linh dương cùng đi kiếm ăn cùng chiến đấu với kẻ thù,
hay chiếu hình ảnh rừng thơng mọc san sát cùng nhau chống được gió bão, hình
- 13 -
ảnh các cây mọc đơn độc dễ bị đổ ngã, hay những con thú tách bầy hay gặp
nguy hiểm bởi sự tấn cơng của thú dữ.
Ví dụ:
Các cây thông mọc gần nhau trong rừng . cây bạch đàn đứng riêng lẻ bò gió thổi
nghiêng về một bên
Trâu rừng sống thành bầy có khả năng tự vệ chống lại kẻ thù tốt hơn.
Cũng qua những hình ảnh đó giáo viên có thể dẫn dắt cho học sinh thấy
được mối quan hệ cạnh tranh giữa cá thể cùng lồi.
Dạy mục II- Quan hệ khác lồi:
Cũng để kích thích sự chú ý học sinh , giáo viên có thể dùng phương pháp
chiếu hình ảnh các mối quan hệ như : hình ảnh vi khuẩn trong nốt sần rễ cây họ
đậu, cánh đồng lúa có nhiều cỏ dại, Rận và bét sống bám trên da trâu bò, địa y
sống trên cành cây, cá ép bám vào rùa biển, dê và bò cùng ăn cỏ trên một cánh
đồng, giun đũa sống trong ruột người, cây nắp ấm bắt cơn trùng v.v…từ đó học
sinh có thể nắm được đặc điểm của các mối quan hệ khác lồi một cách dễ dàng
hơn là phân tích từng câu chữ.
Ví dụ:
Sử dụng hình ảnh minh họa cho các mối quan hệ cùng lồi và khác lồi
giúp học sinh thấy rõ hơn về các mối quan hệ cùng lồi và khác lồi thơng qua
đó giúp học sinh thấy được sự ảnh hưởng qua lại của các lồi sinh vật, qua đó
giáo dục cho học sinh ý thức bảo vệ thiên nhiên, đặc biệt là động vật, ứng dụng
- 14 -
vào việc chăn nuôi ở gia đình như cần tách đàn, tỉa cây để tăng năng suất vật
nuôi cây trồng. Thông qua đó giúp học sinh rèn luyện kĩ năng lắng nghe tích
cực, trình bày suy nghĩ, ý tưởng, hợp tác trong hoạt động nhóm.
* Bài 50: Hệ sinh thái:
Dạy mục I. Thế nào là một hệ sinh thái:
Để học sinh hứng thú hơn với mục này, giáo viên có thể sử dụng tranh phóng
to về hình ảnh của khu rừng với nhiều loài để học sinh quan sát từ đó có thể rút
ra được khái niệm về hệ sinh thái và xác định được các thành phần nhân tố vô
sinh và hữu sinh có trong hệ sinh thái đó:
+ Nhân tố vô sinh: Đất, nước, đá, thảm mục.
+ Sinh vật sản xuất là thực vật
+ Sinh vật tiêu thụ( động vật ăn thực vật, động vật ăn thịt)
+ Sinh vật phân giải( sinh vật phân hủy): Vi khuẩn, nấm
- Cho học sinh quan sát thêm nhiều hệ sinh thái khác từ đó rút ra kết luận
về hệ sinh thái.
Dạy mục II. Chuỗi thức ăn và lưới thức ăn:
Để giúp học sinh có thể tự lập được một chuỗi thức ăn hay một lưới thức ăn,
giáo viên có thể sử dụng các bức tranh các loài vật có mối quan hệ dinh dưỡng
với nhau, từ đó hướng dẫn cho học sinh sắp xếp thứ tự các con vật theo mối
quan hệ, theo từng bậc dinh dưỡng thông qua sơ đồ bản trong, giáo viên thay đổi
nhiều tranh các loài thú khác nhau, qua việc thực hiện phương pháp này, học
sinh sẽ nắm được kiến thức đồng thời tạo được sự hứng thú trong học tập, huy
động được nhiều học sinh làm bài tập về chuỗi hoặc lưới thức ăn.
Ví dụ
- 15 -
- Các chuỗi thức ăn có thể có:
• Lá cây "sâu " cầy " đại bàng "vsv
• Lá cây "sâu " bọ ngựa " rắn "vsv
• Lá cây "sâu " chuột " rắn "vsv
• Lá cây "sâu " cầy " hổ "vsv
• Lá cây"sâu " chuột"cầy "đại bàng
- Lưới thức ăn:
bọ ngựa rắn
Lá cây sâu chuột vi sinh vật
cầy hổ
đại bàng
Qua việc sưu tầm tranh ảnh và sử dụng sơ đồ bản trong giúp học sinh thấy
được sự gắn bó của các sinh vật trong quần xã, sự gắn bó ấy thể hiện ở nhiều
mối quan hệ, trong đó quan hệ dinh dưỡng có vai trò quan trọng được thể hiện
qua chuỗi thức ăn và lưới thức ăn và giáo dục ý thức bảo vệ đa dạng sinh học.
Trên đây là một số giải pháp cho việc sử dụng phương tiện trực quan vào dạy
học ở một số bài sinh học lớp 9 mà bản thân tôi đã vận dụng và đạt một số kết
quả như mong đợi. Để có được kết quả trên tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
1. Nghiên cứu lí thuyết: Tìm hiểu mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học
nói chung và dạy học sinh học nói riêng.
2. Tìm hiểu cơ sở lí luận và các biện pháp phát triển tính tích cực của học
sinh.
3. Quan sát sư phạm: Dự giờ, tìm hiểu tình hình sử dụng phương tiện dạy
học ở bộ môn sinh học.
4. Phương pháp điều tra: Tìm hiểu tình hình thực tế về sử dụng phương tiện
dạy học( vẽ, bản trong, mô hình, mẫu vật…) qua dạy sinh học 9 trung học
cơ sở
- 16 -
5. Thực nghiệm sư phạm:
- Thiết kế bài học sử dụng phương tiện dạy học nhằm phát huy tính
tích cực học sinh.
- Dạy học thực nghiệm để đánh giá kết quả của phương án mới đề
xuất.
- Cách bố trí thực nghiệm: Thực nghiệm được bố trí song song.
- Lớp thực nghiệm: Sử dụng thiết kế bài học theo phương án sử dụng
phương tiện dạy học, mô hình nhằm phát huy tính tích cực dạy học
của học sinh.
- Lớp đối chứng: Dạy theo phương pháp sử dụng tranh ảnh có sẵn ở
sách giáo khoa, thuyết trình, thông báo.
6. Xử lí số liệu:
Sau mỗi bài học có kiểm tra, đánh giá kết quả. Các bài kiểm tra, đánh giá
theo thang điểm 10 và phân loại học sinh khá giỏi trung bình, yếu theo tỉ lệ %.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Nhờ sử dụng phương tiện trực quan vào bài dạy nên hiệu quả tiết dạy thay
đổi rõ rệt, học sinh học tích cực , chú ý quan sát, tự khái thác thông tin, giải
quyết vấn đề chủ động, nhanh hơn, tiết học sôi nổi hơn, học sinh hứng trong giờ
học, tập trung vào nội dung kiến thức, tham gia nhiệt tình vào việc xây dựng bài,
đồng thời tinh thần yêu thích bộ môn ngày một nâng lên, có ý thức hơn trong
việc giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ hệ sinh thái, các loài động thực vật, có ý
thức chắm sóc các thực vật động vật tốt hơn theo từng môi trường cụ thể. Bên
cạnh đó học sinh còn dễ hiểu nội dung bài học, nắm được nội dung bài học
ngay tại lớp nên kết quả học tập của các em tăng lên rõ rệt. Kết quả:
Năm 2009-2010: 64,8% học sinh trung bình trở lên, trong đó có 33,3% học
sinh khá giỏi.
Năm 2010- 2011 : 95% học sinh trung bình trở lên, trong đó có 54,3% học
sinh khá giỏi.
Ứng dụng lí luận để thiết kế bài dạy có sử dụng phương tiện trực quan nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh:
- 17 -
Bài mẫu : Bài 42:
ẢNH HƯỞNG CỦA ÁNH SÁNG LÊN ĐỜI SỐNG SINH VẬT
I Mục tiêu:
1. kiến thức
- HS nêu được ảnh hưởng của nhân tố sinh thái đến các đặc điểm của nhân tố
sinh thái, giải phẫu sinh lí và tập tính của sinh vật
- Giải thích được sự thích nghi của sinh vật với môi trường.
2.Kỹ năng: Rèn kỹ năng quan sát, phân tích , tái hiện tư duy logic.
Rèn kĩ năng tìm kiếm, xử lí thông tin
Kĩ năng hợp tác, lắng nghe tích cực
Kĩ năng tự tin, trình bày ý kiến trước tổ, nhóm, lớp.
3. Thái độ: Giáo dục ý thứcbảo vệ sinh vật.
II. Chuẩn bị:
1. GV: a/ PP: Đàm thoại, thảo luận nhóm, học sinh đọc sgk, quan sát .
b/ ĐDDH: Bảng phụ
2. HS: Đọc SGK trước, phiếu học tập
III. Các bước lên lớp:
Hoạt động của thầy Hoạt động của trò Nội dung ghi bảng
1.Ổn định:
2.Kiểm tra bài cũ:
+ Thế nào là môi trường
sống của sinh vật? Kể
tên các loại môi trường?
+ Phân biệt các loại
nhân tố sinh thái?
3.Dạy bài mới:
*
Hoạt động 1:Tìm hiểu
ảnh hưởng của ánh
sáng lên đời sống thực
vật:
- Trả lời nội dung đã
học
I.Ảnh hưởng của ánh
sáng lên đời sống thực
vật:
- 18 -
- Treo tranh ,y/c hs quan
sát, nhận xét:
+ Hình thái của cây lá
lốt ở ngoài sáng và
trong bóng râm?
- Y/c hs đọc thông tin
sgk, quan sát tranh
h42.1, 2 sgk, thảo luận
nhóm hoàn thành bảng
42.1/123 sgk?
- Gọi đại diện nhóm
trình bày?
- Hoàn thiện kiến thức
- Cho hs quan sát tranh ,
y/c hs giải thích cách
sắp xếp lá trên thân cây
lúa và la 1lốt?
- Ý nghĩa của sự sắp
xếp la 1trên thân của 2
cây trên?
- Người ta phân biệt cây
ưa bóng và cây ưa sáng
dựa vào tính chất nào?
- Quan sát, trả lời:
+ Có hình thái khác
nhau: mọc trong bóng
râm có lá to và màu
xanh rõ hơn.
- Đọc thông tin, hoàn
thành bảng
- Đại diện nhóm trình
bày.
- Lắng nghe
- Quan sát, trả lời:
+ Cây lá lốt: Lá xếp
nằm ngang để nhận
nhiều ánh sáng
+ Cây lá lúa: lá xếp
nằm nghiêng tránh tia
nắng chiếu thẳng góc.
- Giúp thực vật thích
nghi với môi trường.
- Dựa vào khả năng
thích nghi của chúng
với điều kiện chiếu
sáng của môi trường.
Ánh sáng ảnh hưởng tới
hoạt động sinh lí của thực
vật như: quang hợp, hô
hấp, hút nước của cây
+ Nhóm cây ưa sáng: gồm
những cây sống nơi quang
đãng.
+ Nhóm cây ưa bóng: gồm
những cây sống nơi ánh
sáng yếu, dưới tán cây
khác
- 19 -
- Cho học sinh quan sát
các nhóm cây ưa sáng
và ưa bóng, y/c hs phân
loại, nêu đặc điểm của
từng nhóm?
- Y/c hs kể tên một số
cây ưa bóng và ưa sáng?
- Gọi hs khác nhận xét,
bổ sung
- Hoàn thiện kiến thức
*Hoạt động 2:Tìm
hiểu những ảnh hưởng
của ánh sáng lên đời
sống động vật:
- Cho học sinh quan sát
tranh về hướng di
chuyển của kiến trong
không gian, y/c hs đọc
thí nghiệm sgk, trả lời
câu hỏi mục ∆/123 sgk?
- Cho học sinh quan sát
tranh về các loài động
vật hoạt động vào nhiều
thời gian khác nhau.
- Y/c hs lấy ví dụ chứng
minh ánh sáng có ảnh
hưởng lên đời sống
- Quan sát và phân
loại, từ đó nêu đặc
điểm.
+ Ưa bóng: Lá lốt, vạn
niên thanh, gừng, trầu
bà…
+ Ưa sáng: Bạch đàn,
lá lúa, ngô, xà cừ…
- Hs khác nhận xét, bổ
sung
- Ghi nhận thông tin
- Đọc thí nghiệm, trả
lời câu hỏi:
Chứng tỏ, ánh sáng
giúp nhận biết, định
hướng di chuyển trong
không gian.
- Quan sát
- Lấy ví dụ: Gà
thường đẻ trứng ban
ngày, vịt đẻ trứng ban
II. Ảnh hưởng của ánh
sáng lên đời sống động
vật:
Ánh sáng ảnh hưởng tới
các hạot động của động
vật: nhận biết, định hướng
di chuyển trong không
gian, sinh trưởng, sinh
sản….
+ Nhóm động vật ưa
sáng: gồm những động vật
họa động ban ngày.
+ Nhóm động vật ưa tối:
gồm những động vật hoạt
động về ban đêm, sống
trong hang, hốc đất.
- 20 -
động vật.
- Đặt câu hỏi, gọi hs trả
lời:
+ Ánh sáng còn ảnh
hưởng ntn đến động
vật?
+ Trong chăn nuôi
người ta có biện pháp kĩ
thuật gì để tăng năng
suất?
- Gọi hs khác nhận xét,
bổ sung
- Nhận xét, hoàn thiện
kiến thức
4.Củng cố:
- Gọi học sinh đọc ghi
nhớ cuối bài.
- Nêu ảnh hưởng của
ánh sáng lên đời sống
động, thực vật?
5.Hướng dẫn bài học ở
nhà:
Học bài, trả lời các
câu hỏi sgk, xem trước
bài 43, chuẩn bị phiếu
học tập.
đêm, mùa xuân nếu có
nhiều ánh sáng, cá
chép đẻ trứng sớm
hơn.
- Lắng nghe, trả lời:
+ Ảnh hưởng đến sự
sinh trưởng và sinh
sản
+ Chiếu sáng để cá đẻ,
tạo ngày, đêm nhân
tạo để gà, vịt đẻ nhiều
trứng.
- Đọc ghi nhớ
- Trả lời nội dung vừa
học
IV. Rút kinh nghiệm:
- 21 -
Khi chọn lớp thực nghiệm dạy bài 42, 43, 44, 50 so với lớp đối chứng thì các
em học có hiệu quả hơn thông qua kết quả khảo sát như sau:
Bảng kết quả đánh giá xếp loại bài kiểm tra qua tiết thực nghiệm:
Kết quả 9/1
Thực nghiệm
9/3
Đối chứng
Số hs % Số hs %
Giỏi (9-10) 4 12,5 1 3,1
Khá(7-8) 10 31,2 5 15,6
Trung bình (5-6) 15 46,9 20 62,5
Yếu(<4) 3 9,4 6 18,8
Tổng 32 100 32 100
Để việc sử dụng phương tiện trực quan trong giảng dạy các bài 42, 43, 44, 50
đạt kết quả cao cần chú ý các yêu cầu sau:
* Đối với giáo viên:
- Ngoài việc xem kĩ bài trước khi lên lớp còn phải chuẩn bị đầy đủ các
phương tiện trực quan liên quan đến bài dạy như: tranh ảnh, mô hình ngoài sgk,
có thể sử dụng những tranh ảnh có liên quan của các bộ môn khác.
- Hướng dẫn cho học sinh các lớp vẽ tranh theo nhóm, hoặc sưu tầm mẫu vật
có liên quan đến bài học.
- Cần nhận xét, đánh giá về các mặt: Kiến thức, kĩ năng, thái độ, đặc biệt chú
trọng đến hành vi bảo vệ môi trường.
- Các phương tiện trực quan phải dễ nhìn, đẹp mắt, chính xác, đồng thời sử
dụng đúng lúc, đúng nội dung.
- Sử dụng phương tiện trực quan lưu ý đến việc sử dụng sao cho khoa học,
nếu là tranh phải treo ngay ngắn, giáo viên không đứng che lấp tranh.
- Giáo viên phải có lòng nhiệt tình và ý thức trách nhiệm cao.
* Đối với học sinh:
- Phải có sách giáo khoa và soạn bài trước ở nhà, có thể tham khảo thêm
những tài liệu có liên quan qua sách, báo, tivi v.v…
- Biết sưu tầm và bảo quản các tranh ảnh, mẫu vật có liên quan đến bài học,
môn học
- 22 -
- Phải chăm chỉ và có niềm vui trong học tập
- Biết vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống từ đó có thói quen
bảo vệ môi trường
Như vậy, việc sử dụng phương tiện trực quan trong giảng dạy để đạt hiệu quả
cần có sự nỗ lực rất lớn của thầy và trò.
III. Kết luận:
Hiện nay, đất nước ta ngày một phát triển và đang chuyển mạnh sang nền
kinh tế thị trường, việc đô thị hóa, nông nghiệp hóa, công nghiệp hóa v.v…đã
không khỏi làm nảy sinh những vấn đề khí quyển, nước uống, thức ăn, lương
thực…Từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người, sự phong phú
của giới động thực vật, sự suy thoái về tài nguyên thiên nhiên, sự mất cân bằng
sinh thái đang diễn ra hàng giờ …làm cho cảnh quan thiên nhiên không còn đa
dạng và tươi đẹp. Vì thế, trong dạy học hiện nay nói chung và đối với bộ môn
sinh học nói riêng việc giáo dục bảo vệ môi trường là một vấn đề hết sức cần
thiết đối với giáo viên. Người giáo viên phải biết sử dụng phương tiện trực quan
và kết hợp các phương pháp dạy học linh hoạt để học sinh tiếp thu kiến thức tốt,
nhằm vận dụng kiến thức và kĩ năng vào việc chăm sóc, giữ gìn, bảo tồn, sử
dụng môi trường theo cách thức bền vững cho cả thế hệ hiện tại và tương lai.
Học sinh dựa vào các phương tiện trực quan sẽ chủ động tìm tòi kiến thức, biết
cách tự học để có thể học tập suốt đời. Có một kiến thức vững chắc như vậy sẽ
là hành trang cho các em có một tương lai tốt đẹp góp phần rất lớn trong việc
xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh.
Việc nghiên cứu tìm ra các phương tiện và sử dụng các phương tiện trong
dạy học bài 42, 43, 44, 50 là điều có ý nghĩa rất lớn, góp phần nâng cao chất
lượng bài dạy, từ đó mở rộng cho việc nghiên cứu sử dụng trực quan phát huy
tính tích cực học sinh trong toàn chương trình sinh học lớp 9 đặc biệt những bài
trừu tượng, nhiều kênh chữ…mở rộng hơn là áp dụng hướng sáng kiến kinh
nghiệm này cho các bài dạy ở bộ môn sinh học của chương trình trung học cơ sở
nói chung.
- 23 -
Trên đây là kinh nghiệm của cá nhân tôi. Mong được sự góp ý của đồng
nghiệp và các cấp lãnh đạo.
Hòa Điền, ngày 5 tháng 5 năm 2011
Người viết
NGUYỄN THỊ NỮ HOÀNG
- 24 -