Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

phương pháp tu dưỡng để hoàn thiện bản thân và xây dựng hạnh phúc gia đình theo kinh thiện sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (679.02 KB, 27 trang )



PHAÄT LÒCH 2552
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
-2-
Lời Thưa…
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
- Kính thưa Quý anh chò Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Bà Ròa – Vũng Tàu.
- Kính thưa Quý anh chò Hội đồng Giám Khảo Bậc Trì khóa 10.

Với một trình độ học vấn không cao và một sở học Phật pháp nông cạn như bản thân em
mà thực hiện một “Luận văn kết khóa” thật là một việc làm lực bất tòng tâm. Lại không
may cho em, học nhằm vào khóa đầu tiên mà Ban Hướng Dẫn Bà Ròa – Vũng Tàu (em nghi là
phải nói GĐPTVN mới đúng!) áp dụng việc thực hiện Luận văn kết khóa kể từ bậc KIÊN, TRì
trong chương trình tu học Huynh Trưởng GĐPT.
Tuy vậy, trong cái rũi có cái may, nhờ được huân tập từ môi trường Gia Đình Phật Tử,
được tiếp cận với giáo lý Phật Đà, được sự hướng dẫn, dắt dìu của lớp Huynh Trưởng đàn
anh đàn chò, được khuyến khích bởi Ban Huynh Trưởng GĐPT Khánh Hỷ cũng như anh chò em
đồng sự áo lam và nhất là vì thấu triệt tinh thần “Tuân kỷ luật, chòu huấn luyện” của hàng
Huynh Trưởng GĐPT mà em mạnh dạn thực hiện nhiệm vụ nặng nể nầy của Khối Giảng Huấn và
Ban Điều Hành khoá học giao phó mặc dù biết rằng Phật pháp thì thâm thâm vi diệu, không
thể nghó bàn… trong khi sở học bản thân còn quá ư nông cạn, kiến giải còn hạn hẹp, văn
chương thì kém cỏi vụng về.
Nguyện mong qúy anh chò hiểu và thương lớp đàn em đang chập chững bước những bước
mới vào nghề Huynh Trưởng mà hoan hỷ cho những gì khiếm khuyết.
Phật lòch 2552, ngày 15 tháng 10 năm 2008

Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN

Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM KHẢO


………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

-3-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
-4-
Xin vô vàn cảm tạ
Xin vô vàn cảm tạ
Quý anh chò Ban Huynh Trưởng GĐPT Khánh Hỷ đã hết lòng
khuyến tấn, hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình sinh hoạt, tu
học và thực hiện tập Luận văn nầy.
Quý anh Tâm Hoài - Võ Văn Thọ, Nguyên Phước – Vương
Bội Long, Tâm Triển - Hoàng Kim Liên, Phước Hòa - Lê Văn
Sinh cùng tất cả các anh chò Giảng Viên đã tận tình hướng
dẫn cho chúng em trong suốt hai năm dài của khóa học và đặc
biệt đã chỉ bày cho em ý thức được thế nào là hạnh phúc tự

thân và hạnh phúc gia đình.
Người bạn đời Trung Đức – Lê Văn Phước đã kham
nhẫn chia sẻ ngọt bùi trong quảng đường mười lăm năm
chung sống, đã hoan hỷ cảm thông, tạo nhiều thuận duyên
cho em được toàn tâm, toàn ý sinh hoạt và phục vụ lý tưởng
Gia Đình Phật Tử.
Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
ĐỀ TÀI LUẬN VĂN BẬC TRÌ KHÓA X (2006-2008)
PHƯƠNG PHÁP TU DƯỢNG ĐỂ HOÀN THIỆN BẢN THÂN
VÀ XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH THEO KINH THIỆN
SINH
D À N B À I
I/ DẪN NHẬP
II/ NỘI DUNG
.A Giới thiệu Kinh Thiện Sinh.
)1 Xuất xứ Kinh Thiện Sinh.
)2 Đại ý Kinh Thiện Sinh.
.B Hoàn thiện bản thân.
)1 Quan điểm của Nhân thừa Phật Giáo.
)2 Quan điểm của Kinh Thiện Sinh.
.C Xây dựng hạnh phúc gia đình.
)1 Hạnh phúc gia đình theo quan niệm thế gian.
)2 Hạnh phúc gia đình theo quan điểm Phật Giáo.
)a Những yếu tố xây dựng hạnh phúc gia đình.
)b Vai trò của người vợ trong gia đình.
)3 Hạnh phúc gia đình theo quan điểm Kinh Thiện Sinh.
)a Tương quan cha mẹ, con cái.
)b Tương quan vợ chồng.
III/ KẾT LUẬN

-5-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
I/
DẪN NHẬP:
Gia Đình Phật Tử Việt Nam là một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên mà
mục đích và lý tưởng đã được quy đònh rõ ràng trong chương I Nội Quy: “Đào
luyện thanh, thiếu, đồng niên thành Phật Tử chân chánh. Góp phần xây dựng
xã hội theo tinh thần Phật Giáo”. Nếu phân tích mục đích này ta thấy GĐPT
có hai nhiệm vụ rõ ràng:
1) Nhiệm vụ thứ nhất được Nội Quy xác đònh là: “Đào luyện thanh, thiếu,
đồng niên thành Phật Tử chân chánh”. Đây là nhiệm vụ giáo dục các đối tượng
là “Đoàn Sinh” mà thành phần có trách nhiệm hướng dẫn là hàng ngũ “Huynh
Trưởng” các cấp của chúng ta. Muốn giáo dục các em thành Phật Tử chân
chánh thì trước tiên và điều chính yếu là bản thân người Huynh Trưởng phải là
Phật Tử chân chánh. Nghóa là có một lối sống đúng theo chánh pháp, thực hành
Phật pháp trong đời sống tự thân để chuyển hoá gia đình và xã hội. Thực hành
Phật pháp tức là hoàn thiện bản thân mình theo những tiêu chí luân lý, đạo đức
theo lời Phật dạy để đạt được một nhân cách hoàn thiện. Theo quan niệm giản
đơn của tôi thì đó là một con người biết sống, khéo sống, sống thiện lành xứng
đáng với danh xưng con Phật. Vậy, là người Phật Tử (con Phật) và là Huynh
Trưởng (người anh, chò trưởng) chúng ta phải tư duy và hành động như thế nào
để hoàn thiện bản thân mình theo chiều hướng đó?
2) Nhiệm vụ thứ hai: “Góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật Giáo”.
Đây là nhiệm vụ đối với tha nhân, đối với cộng đồng xã hội chung quanh hay
nói rộng ra là đối với đồng bào trong quê hương, đất nước và cộng động nhân
loại toàn cầu. Ta biết rằng cá nhân là nhân tố của gia đình, mà gia đình là nền
tảng của xã hội, do đó xậy dựng một xã hội tốt đẹp theo tinh thần Phật Giáo thì
không thể thiếu những gia đình sống đạo theo tiêu chuẩn Phật Giáo (tức là
những gia đình được Phật hoá). Việc Phật hoá gia đình, làm thế nào cho gia
đình có được hạnh phúc dưới ánh sáng của tinh thần Phật Giáo là việc làm của

tất cả các Phật Tử thành viên trong gia đình đó, mà chủ chốt là những người
đang nắm vai trò chính yếu về tinh thần và vật chất của gia đình, tức là người
vợ hoặc người chồng trong gia đình.
-6-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
Là Huynh Trưởng đang theo học bậc Trì (một bậc học trong chương trình tu
học trường kỳ Huynh Trưởng GĐPTVN), chúng ta đang chòu trách nhiệm về sự
thònh suy của cấp Đoàn GĐPT; Chúng ta cũng đang phải chòu trách nhiệm về sự
thònh suy, hưng phế của gia đình riêng trong cộng đồng xã hội; Chúng ta đang ở
vào lứa tuổi chững chạc của những người đang gánh vác trách nhiệm đối với xã
hội (độ tuổi học viên bậc Trì được quy đònh từ 22 tuổi trở lên); Chúng ta đã và
đang làm chủ một gia đình, làm vợ, làm chồng hoặc đang làm cha, làm mẹ các
con ở gia đình. Do đó, việc hoàn thiện gia đình riêng sao cho gia đình mình thực
sự an lạc hạnh phúc, trên thuận dưới hoà phải được xem là một trách nhiệm của
chúng ta, những người Phật Tử – Huynh Trưởng. Điều này đòi hỏi ở công phu tu
trì, khả năng và tài nghệ áp dụng đạo Phật vào đời sống tự thân cũng như sinh
hoạt gia đình. Nghệ thuật hành xử khéo léo trong gia đình để kiến lập một gia
đình hạnh phúc nhằm góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật Giáo phải
được bắt đầu từ mỗi một anh chò em Huynh Trưởng chúng ta.
Để tìm câu giải đáp cho hai vấn đề nêu trên (xuất xứ từ việc thực hiện mục
đích GĐPT), làm thế nào để hoàn thiện bản thân và xây dựng hạnh phúc gia
đình theo giáo lý Đức Phật, tôi nghó rằng kinh điển Phật Giáo đã đề cập đến rất
nhiều trong những bộ kinh thuộc hệ Nhân Thừa như: Kinh NGỌC GIA NỮ,
Kinh ƯU BÀ TẮC, Kinh HIỀN NHÂN, Kinh NHÂN VƯƠNG, Kinh THIỆN
SINH… Ở đây, trong phạm vi bài luận khoá này, bản thân tôi không đủ kiến giải
để khai triển hai vấn đề nầy một cách rộng rãi và chi tiết, chỉ xin được phép trình
bày cái sở học nông cạn của mình trong phạm vi Kinh Thiện Sinh theo yêu cầu
của đề tài: “Hoàn thiện bản thân và xây dựng hạnh phúc gia đình theo Kinh
Thiện Sinh”.
-7-

LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
II/
NỘI DUNG:
A. Giới thiệu Kinh Thiện Sinh:
1) Xuất xứ: Kinh Thiện Sinh thuộc hệ A hàm, được Phật thuyết trong khoảng
12 năm đầu, sau khi thành đạo, nằm trong hệ thống kinh điển Phật Giáo nguyên
thủy, được trích từ Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya) Hoà Thượng Thích Minh
Châu dòch từ Phạn ngữ sang Việt ngữ dưới tiêu đề “Giáo Thọ Thi Ca La Việt”,
kinh được chuyển qua hệ Đại Thừa, Hán dòch dưới hai tên: “Phật Thuyết Thiện
Sanh Tử” (Phật dạy chàng Thiện sinh) và “Lễ Bái Lục Phương Kinh”.
2) Đại ý: Kinh được mở đầu từ một khung cảnh sôi động lạ mắt: Nhân một buổi
sáng, Đức Thế Tôn cùng đại chúng đắp y, mang bát vào thành Vương Xá khất
thực. Đức Phật thấy chàng thanh niên Thiện Sanh (Simgalo Vada) tắm gội, y
phục sạch sẽ, chỉnh tề tay cầm lá câu xá còn tươi, hướng về phía cửa thành, đến
bên bờ sông cung kính chắp tay lễ bái 6 phương: đông, tây, nam, bắc, thượng,
hạ theo như lời cha trăn trối trước lúc lâm chung. Đức Phật thấy chàng thanh
niên hành lễ trên đường lớn với nghi thức kỳ lạ như thế, bèn hỏi và được chàng
trả lời như vậy. Sau đó thể theo lời thưa kính của Thiện Sanh, Đức Phật vì
chàng mà dạy cách lễ lạy 6 phương đúng chánh pháp và khéo sống để có một
đời sống hạnh phúc, an lạc, thanh cao trong đời hiện tại và mai sau. Bài dạy của
Đức Phật gồm các nội dung chính sau:
 Sống một đời sống thiện sanh: Là khéo thực hành đời sống đúng chánh
pháp gồm những yếu tố:
 Xa lìa 4 nghiệp oán kết với chúng sanh: tham, sân, si, khủng bố.
 Không làm 4 điều ác: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ.
 Bỏ 6 tật xấu là nguyên nhân gây hậu quả tài sản khánh kiệt: nghiện rượu,
cờ bạc, sống phóng đãng, say mê kỹ nhạc, giao du bạn xấu, lười biếng.
 Không thân cận với 4 hạng bạn bè xấu ác: hạng uý phục, hạng mỹ ngôn,
hạng không kính thuận, hạng ác hữu.
 Kết giao với 4 loại ngøi tốt: người ngăn mình làm điều quấy, người xót

thương, người ích lợi, người đồng sự.
-8-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
 Ý nghóa và cách lễ lạy 6 phương:
 Lễ lạy 6 phương là thực hành 6 pháp Ba-la-mật trong đời sống để đem lại
an lạc, hạnh phúc cho chính mình và tha nhân:
o Bố thí là phương Đông.
o Trì giới là phương Nam.
o Nhẫn nhục là phương Tây.
o Tinh tấn là phương Bắc.
o Thiền đònh là phương Dưới.
o Trí huệ là phương Trên.
 Lễ lạy 6 phương là hoàn thành trách nhiệm và biết cách cư xử với người
thân trong gia đình và xã hội để có những tương quan tốt, phát triển hạnh phúc
trong đời sống hiện tại và mai sau:
o Thay vì lễ phương Đông là lễ trời Đế Thích thì phải hoàn thành trách
nhiệm đối với cha mẹ, con cái.
o Thay vì lễ phương Nam là lễ vua Diêm La thì phải hoàn thành trách
nhiệm đối với thầy trò.
o Thay vì lễ phương Tây là lễ trời Bà-la-môn Thiên thì phải hoàn thành
trách nhiệm đối với vợ chồng.
o Thay vì lễ phương Bắc là lễ trời Câu-ty-la Thiên thì phải hoàn thành
trách nhiệm đối với bạn hữu.
o Thay vì lễ phương Dưới là lễ trời Vu Hỏa Thiên thì phải hoàn thành
trách nhiệm đối với chủ và người giúp việc.
o Thay vì lễ phương Trên là lễ trời Vu Phong Thiên thì phải hoàn thành
trách nhiệm đối với các bậc trưởng thượng: Sa-môn, Bà-la-môn, chư
Tăng Ni xuất gia ly tục.
B. Phương pháp hoàn thiện bản thân:
Đạo Phật đặt nền tảng ở con người, vì con người mà tồn tại. Phật dạy: “tất

cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Con người và tác nhân của nó là nguyên nhân
gây đau khổ hay hạnh phúc, là con đường dẫn đến luân hồi sanh tử qua 6 trạng
thái: tái sanh, đòa ngục hay thiên đường, Thánh nhân hay kẻ bần cùng, ngạ quỹ
-9-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
súc sanh hay an lạc niết bàn. Tất cả đều bắt nguồn từ những hành vi của con
người trong hiện tại, dẫn đến quả báo vò lai. Bởi vậy công phu hàm dưỡng tự
thân để hoàn thiện một nhân cách tương đối khả dó xứng đáng làm người và mở
đường bước lên thành đạo mai sau là vấn đề trọng yếu trong giáo lý đạo Phật.
Bước đầu của người Phật tử tại gia, Phật dạy căn bản là phải hành trì pháp Tam
Quy - Ngũ Giới, tức là thực hành các pháp Nhân Thừa trước khi đặt chân lên
những bước cao hơn là Thiên Thừa và Thanh Văn, Duyên Giác Thừa.
1) Quan điểm của Nhân Thừa Phật Giáo:
Điều kiện bắt buộc của một người Phật Tử tại gia mở đầu cho một đời sống
chân chánh là phải thọ trì Tam Quy - Ngũ Giới. Vậy, Tam Quy - Ngũ Giới là
nền tảng đầu tiên để người Phật Tử hoàn thiện bản thân mình.
Tam Quy: là 3 nơi nương tựa vững chắc cho nếp sống tâm linh của người
Phật Tử. Tam Quy là Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng.
Quy y Phật: là nương tựa, y cứ vào người đã giác ngộ hoàn toàn bản thể vũ
trụ vạn hữu, các phép hữu tình cũng như vô tình, các phép thế gian cũng như
xuất thế gian, các phép hữu vi cũng như vô vi.
Quy y Pháp: là nương tựa, y cứ vào những lời dạy của Đức Phật về phương
pháp giác ngộ, các pháp trong vũ trụ đưa đến giải thoát khổ đau và đạt an vui
tòch diệt Niết Bàn.
Quy y Tăng: là nương tựa, y cứ vào một đoàn thể Tăng Già, hoà hợp thanh
tònh, là những người kế thừa hạt giống trí tuệ của chư Phật, đại diện cho chư
Phật truyền giảng chánh pháp lại cho mọi người, khiến cho mọi người cùng giác
ngộ như chư Phật.
Ngũ giới: là 5 nguyên tắc sống, 5 phạm trù đạo đức luân lý mà người Phật
Tử phải luôn thực hiện trong nếp sống hàng ngày, vừa để phòng hộ 3 nghiệp

thân, miệng, ý không gây tội ác, vừa thiết lập nền tảng cho một đời sống đạo
đức thanh cao trong tương quan với tha nhân và môi trường xã hội xung quanh.
Năm giới gồm có: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng
ngữ, không uống rượu.
Không sát sanh: Không làm tổn thương người xung quanh, không giết hại
những sinh vật có mạng sống.
Không trộm cắp: Không lấy của người về làm của mình, mà phải sống chân
thật, thanh bạch.
-10-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
Không tà dâm: Không làm những điều có lỗi với chồng, vợ, con cái. Phải
sống một nếp sống trong sạch, không phá vỡ hạnh phúc gia đình người khác.
Không vọng ngữ: Không nói những lời không thật, nói láo, nói lời thêu dệt,
nói hai lưỡi.
Không uống rượu: Không say sưa rượu chè trác táng làm trí tuệ không còn
minh mẫn, làm buồn lòng người thân thích, gây phiền nhiễu đến xóm giềng,
khiến mọi người chê cười.
2) Quan điểm của Kinh Thiện Sinh:
Trong bài dạy Thiện Sinh về phương pháp tu dưỡng để hoàn thiện bản thân,
Đức Phật đã mở rộng thêm pháp Tam Quy - Ngũ Giới của người Cư Só tại gia
và bổ sung thêm phần thân cận giao du. Ta có thể nêu lên những nét căn bản
về sự thanh lọc tự thân mà Phật dạy trong Kinh Thiện Sinh:
a) Cần tránh 4 nghiệp oán kết: là 4 hành động gây oán với chúng sanh:
 Sát sanh.
 Trộm cắp.
 Tà dâm.
 Vọng ngữ.
b) Không làm 4 điều gây tội ác: Đạo Phật là đạo nhân quả rõ ràng. Nếu
càng tạo nghiệp thì nghiệp báo sẽ theo ta từ đời nầy đến đời sau. Vì vậy, là
người con Phật nên tránh làm và tránh xa những việc khiến mọi người phải chòu

đau khổ như:
 Tham dục: Lòng tham vô tận bất chấp tất cả mọi thủ đoạn.
 Sân hận: Giận dữ, tức tối gây ra tội lỗi.
 Ngu si: Bò u minh che lấp không nhận ra đâu là chân lý, nhân quả.
 Khủng bố: Làm người khác phải lo sợ, kinh hãi.
c) Không gần 4 hạng xấu: là 4 hạng người nguy hiểm mà chúng ta cần phải
kinh sợ và tránh xa:
 Hạng úy phục: là những người vì sợ ta mà làm bạn với ta (chứ không
thực tâm thương yêu ta). Phật bảo Thiện Sinh: Hạng úy phục thì thường hay làm
-11-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
4 việc: 1/Cho trước đoạt sau; 2/Cho ít mong trả nhiều; 3/Vì sợ gượng làm thân;
4/Vì lợi gượng làm thân.
 Hạng mỹ ngôn: là hạng người thường làm 4 việc: 1/Lành dữ đều chiều
theo; 2/Gặp hoạn nạn thì xa lánh; 3/Ngăn cản những điều hay; 4/Thấy gặp nguy
tìm cách đùn đẩy.
 Hạng không thuận: là hạng người thường làm 4 việc: 1/Việc trước dối
trá; 2/Việc sau dối trá; 3/Việc hiện tại dối trá; 4/Thấy có một chút lỗi nhỏ đã
vội trách phạt.
 Hạng bạn ác: là hạng bạn bè giao du kết thân trong 4 trường hợp:
1/Bạn lúc uống rượu; 2/Bạn lúc đánh bạc; 3/Bạn lúc dâm dật; 4/Bạn lúc ca vũ.
d) Không làm 6 nghề xấu: Đây là 6 thói hư tật xấu trong lối sống của người
thế gian, là nguyên nhân làm cho gia tài khánh kiệt; gia đình tan nát; sự nghiệp
tiêu vong. 6 thói hư đó là: nghiện rượu, cờ bạc, phóng đãng, say mê kỹ nhạc,
lười biếng và giao du bạn xấu.
 Nghiện rượu: Có 6 điều tội lỗi, tai hại: 1/Hao tài; 2/Sanh bệnh;
3/Tranh tụng; 4/Tiếng xấu đồn khắp; 5/Bộc phát nóng giận; 6/Trí tuệ giãm dần.
Phật dạy Thiện Sinh: “Này Thiện Sinh! Nếu Trưởng Giả hay con trai Trưởng Giả
ấy uống rượu mãi không thôi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.
 Cờ bạc: Có 6 điều tội lỗi, tai hại: 1/Tài sản ngày càng hao hụt;

2/Thắng thì gây oán; 3/Bò kẻ trí chê; 4/Mọi người không kính mến, tin cậy; 5/Bò
xa lánh; 6/Sanh tâm trộm cắp. Phật dạy Thiện Sinh: “Này Thiện Sinh! Nếu
Trưởng Giả hay con trai Trưởng Giả ấy đam mê cờ bạc mãi không thôi thì gia
sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.
 Phóng đãng: Có 6 điều tội lỗi, tai hại: 1/Không tự phòng hộ được thân
mình; 2/Không tự phòng hộ được tài sản và hàng hóa; 3/Không phòng hộ được
con cháu; 4/Thường hay bò sợ hãi; 5/Bò những điều khốn khổ ràng buộc xác
thân; 6/Ưa sinh điều dối trá. Phật dạy Thiện Sinh: “Này Thiện Sinh! Nếu Trưởng
Giả hay con trai Trưởng Giả ấy phóng đãng mãi không thôi thì gia sản mỗi ngày
mỗi tiêu tán”.
 Say mê kỹ nhạc: Có 6 điều tội lỗi, tai hại: 1/Tìm đến chổ ca hát; 2/Tìm
đến chổ múa nhảy; 3/Tìm đến chổ đàn đòch; 4/Tìm đến chổ tấu linh; 5/Tìm đến
chổ có âm thanh vi diệu; 6/Tìm đến chổ đánh trống. Phật dạy Thiện Sinh: “Này
-12-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
Thiện Sinh! Nếu Trưởng Giả hay con trai Trưởng Giả ấy say mê kỹ nhạc mãi
không thôi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.
 Lười biếng: Có 6 điều tội lỗi, tai hại: 1/Khi giàu sang không chòu làm
việc; 2/Khi nghèo khó thì giải đải, không chòu siêng năng; 3/Khi lạnh không
chòu siêng năng; 4/Khi nóng không chòu siêng năng; 5/Lúc sáng trời không chòu
siêng năng; 6/Lúc tối trời không chòu siêng năng. Phật dạy Thiện Sinh: “Này
Thiện Sinh! Nếu Trưởng Giả hay con trai Trưởng Giả ấy lười biếng mãi không
thôi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.
 Giao du bạn xấu: Có 6 điều tội lỗi, tai hại: 1/Tìm cách lừa dối; 2/Ưa
chổ thầm kín; 3/Dụ dỗ người khác; 4/Mưu đồ chiếm đoạt tài sản người khác; 5/
Xoay tài lợi về mình; 6/Ưa phanh phui lỗi người. Phật dạy Thiện Sinh: “Này
Thiện Sinh! Nếu Trưởng Giả hay con trai Trưởng Giả ấy làm bạn với kẻ ác mãi
không thôi thì gia sản mỗi ngày mỗi tiêu tán”.
e) Kết giao thân cận: Theo đức Phật, có 4 hạng người tốt nên thân cận:
người ngăn ta làm điều quấy, thường khuyên ta làm điều lợi ích; người giàu

lòng từ bi, thương yêu người và vật; người biết giúp đở kẻ khác; người đồng sự
với mình. Đó là 4 hạng người thường có các hành động :
 Hạng ngăn quấy: thường làm 4 việc: 1/Đem lại nhiều lợi ích và hay
che chở bạn mình; 2/Thấy bạn làm ác thì hay ngăn cản; 3/Chỉ bày điều chánh
trực cho bạn; 4/Có lòng thương tưởng bạn, chỉ đường sinh Thiên.
 Hạng thương yêu: thường làm 4 việc: 1/Mừng khi bạn mình được lợi;
2/Lo khi bạn mình gặp hại; 3/Ngợi khen đức tốt của bạn; 4/Khi bạn nói và làm
điều ác thì tìm cách ngăn cản.
 Hạng giúp đở: thường làm 4 việc: 1/Che chở cho bạn mình khỏi buông
lung; 2/Che chở bạn khỏi hao tài vì buông lung; 3/Che chở bạn khỏi sợ hãi;
4/Khuyên bảo bạn một cách kín đáo ở chổ vắng người.
 Hạng đồng sự: thường làm 4 việc: 1/Không tiếc thân mạng với bạn;
2/Không tiếc của cải với bạn; 3/Cứu giúp bạn khỏi sợ hãi; 4/Khuyên bảo bạn
một cách kín đáo ở chổ vắng người.
5 yếu tố trên là những điều Phật dạy Thiện Sinh, nếu muốn hoàn thiện bản
thân mình để trở thành một người Phật Tử chơn chánh, có một đời sống đạo đức
thanh cao, có sự phát triển tâm linh thì phải thực hành hằng ngày trong chính
cuộc sống tự thân, có nghóa là mọi người trước hết phải hoàn thiện chính mình
-13-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
rồi sau mới hướng dẫn cho người khác cùng thực hành để đạt được kết quả an
lạc như chính mình.
Đây cũng chính là điều mà tổ chức GĐPT đòi hỏi ở chúng ta, những người
Huynh Trưởng đang thực hiện sứ mệnh giáo dục đàn em.
C. Xây dựng hạnh phúc gia đình:
1) Hạnh phúc gia đình theo quan niệm thế gian:
Trong khi Phật Giáo đánh giá hạnh phúc là sự an lạc tự tâm thì người thế
gian lại quan niệm hạnh phúc gia đình theo những tiêu chuẩn sai lạc, đó là tiền
tài và đòa vò. Phong dao, tục ngữ Việt Nam có những câu “có tiền mua Tiên
cũng được” hay “vai mang túi bạc kè kè, nói hươu nói vượn người nghe rầm

rầm” hoặc “chồng sang vợ đặng đi giày…” v…v… Như vậy, mọi biểu lộ của hạnh
phúc đều bắt nguồn từ 2 yếu tố: GIÀU (phú) và SANG (quý). Người giàu có thì
nắm trong tay chìa khóa của hạnh phúc, người có đòa vò là người có hạnh phúc.
Trong khi đó trên thực tế thì dù tiền bạc hay đòa vò cũng chỉ là những vật ngoại
thân, như bẹ chuối; như bóng nước; như hạt sương trên cỏ, có đó rồi mất đó, hợp
đó rồi tan đó, không có giá trò trường cửu với thời gian và không gian vì không
được xây dựng trên những nền tảng tinh thần căn bản: đạo đức, tình yêu và sự
cảm thông. Chúng ta hãy thử phân tích:
 Giàu (PHÚ): Mọi người thường cho rằng tiền của, danh vọng sẽ mang lại
cho ta hạnh phúc. Vì vậy ai cũng lao vào làm giàu như con thiêu thân, quyết
làm cho được nhiều tiền, có nhà lầu, xe hơi; thậm chí làm giàu bằng xương
máu, trên xương máu người khác; bán rẻ đạo đức, lương tâm của chính mình; vợ
chồng không còn biết quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho nhau; con cái thì bỏ bê,
tha hồ ăn chơi trác táng… để rồi hạnh phúc gia đình tan nát, đổ vỡ lúc nào không
biết. Vì vậy chúng ta phải hiểu rõ rằng, giàu sang phú quý không hẳn đã mang
lại cho ta một gia đình hạnh phúc mà hạnh phúc là chúng ta có một tập thể nhỏ
một gia đình mà trong đó cha, mẹ, vợ, chồng, con cái biết thương yêu, chăm
sóc, lo lắng lẫn nhau.
 Sang (QUÝ): Một người khi đã có quyền cao chức trọng thì lòng ham
muốn (tham vọng) càng trổi dậy. Đảm nhiệm chức vò nầy lại mơ tưởng đến một
chức vò cao hơn, ngồi ở ghế nào cũng thấy còn thấp hơn người khác, chỉ cứ lăm
le, ngấp nghé để leo lên những chiếc ghế cao hơn, cao hơn nữa… Vì vậy mục
tiêu sống của họ là thăng quan tiến chức, để rồi sau đó tha hồ hà lạm công quỹ,
tha hồ nhũng nhiễu, hạch sách người dưới quyền và các tầng lớp dân chúng để
-14-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
tham nhũng, hối lộ, sống sung sướng phè phởn trên sự đau khổ, trên mồ hôi,
nước mắt của mọi người. Quan niệm hạnh phúc như vậy thật đáng sợ và vô
cùng nguy hiểm cho cộng đồng.
2) Hạnh phúc gia đình theo quan điểm Phật Giáo:

a) Những yếu tố xây dựng hạnh phúc gia đình theo quan điểm Phật Giáo:

Thiểu dục – Tri túc: Theo
đạo Phật, một gia đình hạnh phúc không hẵn là một gia đình phải phú quý vinh
hoa, vì giàu sang chưa chắc đã mang lại cho ta sự sung sướng hoàn toàn. Một
gia đình hạnh phúc phải là một gia đình mà mọi thành viên biết thương yêu,
thông cảm, vui vẽ, chia sẽ cho nhau mọi niềm vui, nỗi buồn, lúc khó khăn cũng
như khi hoan lạc… Về vật chất, tiền tài thì không thể tính đếm biết bao nhiêu
cho đủ, cho vừa với lòng ham muốn, cho nên hãy xem tất cả chỉ là phương tiện,
phải tự bằng lòng với những gì mình đang có trong hiện tại. Đừng quan niệm
sống là để hưởng thụ, cũng đừng “đứng núi nầy trông núi nọ” vì ham muốn
càng nhiều thì khi thất bại sự đau khổ vì thất vọng càng lớn. Kết cuộc là chúng
ta mãi trôi lăn trong vòng đau khổ và thất vọng không bao giờ dứt được.

Diệt trừ Tham – Sân – Si:
Sống làm người đừng quá tham lam mà phải biết hạn chế sự ham muốn vật
chất; phải biết tự kềm chế, đè nén cơn giận dữ của mình để tránh gây đau lòng
cho người khác. Con người thường vì quá si mê nên không nhận ra được đâu là
chân lý, không tìm thấy con đường giác ngộ. Cũng vì quá si mê mà tạo ra khổ
đau cho mình và cho người để rồi khổ đau cứ chồng chất lên nhau. Vì vậy theo
đạo Phật, chúng ta phải từ bỏ mọi tham lam, sân hận, si mê thì tâm ta sẽ an lạc.
Hạnh phúc sẽ mãi trong vòng tay của mình, Hạnh phúc sẽ đến với ai biết sống
an phận, sống vì mọi người. Phải biết thông cảm chia sẽ mọi ngọt bùi, khó
khăn, gian khổ với đồng loại, với mọi chúng sanh. Hạnh phúc sẽ không bao giờ
đến với những ai hẹp hòi, ích kỷ và có lòng ham muốn vô tận.

Tinh thần hòa hợp: Trong
cùng một gia đình, mọi thành viên phải có những ý kiến hay suy nghó như nhau,
phải nói ra những suy nghó của mình để mọi người cùng hiểu. Trước khi đưa ra
một quyết đònh gì thì mọi thành viên trong gia đình cùng tham khảo, bàn bạc

thỏa thuận để tránh những việc đáng tiếc xãy ra về sau. Muốn có một tinh thần
-15-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
hòa hợp trong gia đình, cần nhất là mọi người phải sống chân thật, không che
giấu, không ngụy trang và không biện minh cho những sai lầm của bản thân
mình. Phải lấy lợi ích chung của gia đình làm tiêu chí cho mọi ý nghó, lời nói,
việc làm.

Sức khoẻ và Kinh tế: Muốn
có một nền kinh tế dồi dào, phát triển, trước hết phải quan tâm giữ gìn sức khỏe
cho mọi thành viên trong gia đình. Ngạn ngữ Tây phương có câu “Một tinh thần
minh mẫn trong một thân thể tráng kiện”. Khi có một sức khỏe tốt thì cho dù
gặp hoàn cảnh kinh tế gia đình có khó khăn đến đâu chúng ta cũng có thể bình
tỉnh và sáng suốt để xoay chuyển, cải thiện tình thế. Trong một gia đình, kinh tế
có một vai trò quan trọng và có sự liên quan rất mật thiết giữa kinh tế và sức
khỏe. Thiếu sức khỏe hay thường xuyên bệnh tật sẽ không thể làm kinh tế gia
đình tăng trưởng, nhưng ngược lại nếu chỉ chú trọng đến làm kinh tế, quần quật
làm tôi mọi cho mục tiêu kinh tế đến đổi mệt mỏi rã rời, ốm đau bệnh tật tiều
tụy, sức cùng lực kiệt thì tiền của làm ra cũng chỉ phục vụ cho việc điều trò
bệnh tật, và quan trọng hơn nữa là đã bệnh tật thì không còn có sức lực, trí tuệ
để làm kinh tế nữa. Rốt cuộc, chúng ta cứ rơi vào vòng lẩn quẩn: nghèo khó –
ốm đau – trì trệ… Vậy hãy nhớ, sức khỏe và kinh tế gia đình luôn đi đôi với
nhau, luôn liên kết nhau, luôn hổ tương nhau.

Cần kiệm – Tháo vát: Bản
thân người chủ một gia đình (chồng hay vợ) phải biết quản lý tiền bạc, chi tiêu
vừa phải hợp lý. Mọi thành viên trong gia đình phải biết trau dồi nghề nghiệp
và cần cù trong công việc làm ăn, cùng chung sức, hết lòng làm việc và tiết
kiệm đúng mực. Phải chọn cho mình một công việc phù hợp với khả năng, sức
khỏe và quan trọng nhất là nghề nghiệp phải chính đáng, lương thiện.


Chi tiêu hợp lý: là phải biết
sử dụng nguồn thu nhập một cách hiệu quả, chính đáng và phù hợp với khả
năng, hoàn cảnh gia đình; không nên keo kiệt, bủn xỉn nhưng cũng đừng phí
phạm. Chi tiêu trong gia đình nên chia thành 6 phần xử dụng:
o Cúng dường Tam Bảo.
o Phụng dưỡng cha mẹ khi mạnh khỏe và lúc ốm đau.
o Chi tiêu hằng tháng có chừng mực.
-16-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
o Tích lũy nguồn vốn tái sản xuất hoặc tái kinh doanh.
o Tiết kiệm để phòng khi sự biến bất ngờ cần đến.
o Phòng bò tiền bạc dành khi bệnh hoạn, ốm đau hay khi tiếp đón bà con,
khách khứa.

Bảo hộ tài sản: Bảo hộ tài
sản không có nghóa là tham đắm, cố thủ vào tiền của vật chất mà là thực hiện
một sinh hoạt gia đình được nuôi sống bằng những thu nhập trong sạch; không
làm các việc phi pháp (giáo pháp và luật pháp) tổn hại đến sinh mạng và tài lợi
người khác; tự mình bằng lòng với những thành quả do lao lực bằng trí óc hay
chân tay mà có; gìn giữ thành quả đó để nuôi sống thân mạng và kiến lập hạnh
phúc gia đình một cách chơn chánh.

Làm bạn với người hiền
thiện: Người hiền thiện là người sống thật với lòng mình, người ngay thẳng,
không lừa dối, không lợi dụng kẻ khác; sẳn lòng giúp đở tha nhân khi gặp cơn
cơ nhở, hoạn nạn… Gần người hiền thiện giúp ta học hỏi được điều hay lẽ phải,
tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quý trong sinh hoạt thường nhật, trong ứng
xử, trong tu tập.
Tâm hồn thư thái, an lạc:

Hạnh phúc gia đình quan trọng nhất là tinh thần. Cho dù ta có sống trên nhung
gấm lụa là mà tinh thần không thư thái thì cũng không thể hạnh phúc. Muốn có
được sự lạc quan, yêu đời, có tâm hồn thư thái cần phải thực hành 4 pháp: Tín,
Thí, Giới, Tuệ.
TÍN: làm người sống trên đời thì phải có “đức tin” mà trước hết là phải
tin vào chính bản thân: tin vào năng lực mình sẽ làm được tất cả; tin rằng hạnh
phúc là do mình tạo dựng. Nếu sống mà không có niềm tin thì đời nầy, kiếp nầy
không làm được điều gì lợi ích cho mình, cho người để rồi mãi mãi sống trong
đau khổ, dằn vặt và tuyệt vọng. Thứ nữa, là đệ tử Phật nên ta phải tin vào Tam
Bảo, tin vào Đạo. Vì ý thức được đạo Phật là đạo luân hồi, nhân quả nên ta
sống làm sao phải tạo được nhân thiện kiếp nầy để có quả thiện kiếp sau. Cũng
phải tin rằng làm điều lành trong kiếp nầy tức là ta sẽ chuyển hóa được nghiệp
ác trong kiếp trước. Có như vậy ta sẽ không bi quan vì cuộc sống hiện tại nầy
chỉ toàn khổ đau và lo sợ kiếp sống tương lai gặp toàn quả báo xấu ác. Tuy
nhiên, đạo Phật cũng là đạo của trí huệ nên khi tạo dựng niềm tin chúng ta phải
-17-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
vận dụng lý trí suy xét chứ không tin một cách mù quáng. Hãy nhớ lời đức Bổn
Sư đã dạy: “Tin ta mà không hiểu ta tức là phỉ báng ta vậy”.
GIỚI: Đã là một Phật Tử tại gia, là con của Phật, trước hết phải giữ cho
được 5 giới. Thực hành 5 giới thì hạnh phúc sẽ đến với mình. Nếu chúng ta
đừng giết hại chúng sanh thì sẽ không ai sát hại ta. Nếu ta không trộm cắp của
người thì nhân quả là sẽ không ai trộm cắp của ta. Nếu ai cũng nói lời chân
thật, không dối trá, không thêu dệt, không xúc xiểm thì có ai còn phiền hà, hờn
trách, khinh bỉ, giận hờn… Nếu mọi người ai cũng giữ giới tà dâm thì sẽ không
có cảnh gia đình tan tác vì những mối quan hệ không lành mạnh, vợ bỏ chồng;
chồng bỏ vợ; con mất cha, mẹ; cha mẹ xa lìa con cái… Nếu không ai say sưa,
nghiện ngập thì xã hội bớt đi biết bao khổ đau do hậu quả của bia rượu, ma túy,
cần sa… và gia đình không có cảnh phiền muộn, âu lo; cha mẹ u buồn; vợ chồng
giận dỗi; hàng xóm chê cười…

THÍ: Đã là người Phật Tử thì phải có lòng từ bi. Mà thực hiện lòng từ bi
thì không gì bằng hạnh bố thí. Chính nhờ sự bố thí mà chúng ta sẽ cảm hóa
được bản thân, gia đình và xã hội. Hãy biết chia xẽ vật chất và sự an vui cho
người khác. Bố thí không những gieo rắc an vui cho tha nhân mà chính nó là
niềm hạnh phúc, là cơ hội cải hóa ác nghiệp của chính bản thân mình. Mỗi một
lần giúp đở được một người, một cộng đồng qua cơn khó khăn, hoạn nạn, ta sẽ
thấy lòng mình ngập tràn hạnh phúc, tâm tư thanh thản, nhẹ nhàng… Không chỉ
bố thí vật chất, là Phật Tử chúng ta còn phải biết tùy theo tri kiến của mình mà
dùng giáo pháp Phật Đà bố thí cho chúng sanh, khiến người nghe được lời chơn
chánh sanh tâm hoan hỷ, thực hành theo Phật Pháp mà thoát khổ được vui hay
chí ít cũng bớt đi nỗi âu lo, sợ sệt mà lạc quan vui sống.
TUỆ: Chỉ một khi dục vọng vơi đi, sân hận lắng chìm và bức màn vô
minh được vén đi thì tâm chúng ta mới thật sự an lạc, hạnh phúc. Chỉ có trí tuệ
mới làm tiêu trừ được vô minh, sân hận và dục vọng. Chỉ có ánh sáng trí tuệ
phát chiếu mới đẩy lùi bóng đen tam độc Tham – Sân – Si. Theo Phật Giáo,
người có trí tuệ không hẳn là một “con mọt sách” ngày đêm gối đầu trên chử
nghóa; một “thư sinh” mãi mê liên tục mài đũng quần trên ghế nhà trường hết
năm nầy sang năm khác; một “bác học” muôn đời giam mình trong 4 bức tường
của các phòng thí nghiệm. Người có trí tuệ trong đạo Phật là người hiểu được
chánh lý, hiểu được vạn pháp là duyên sanh, vô ngã, biến dòch vô thường. Vì
vậy, muốn có trí tuệ chúng ta phải luôn luôn tìm hiểu, học hỏi giáo lý chân thật,
đưa giáo lý vào cuộc sống đời thường.
-18-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
b) Vai trò của người vợ trong gia đình.
Là luận văn kết khóa của một nữ Huynh Trưởng và với các câu hỏi của đề
tài nầy, nên tôi xin được phép chỉ đề cập đến phạm trù người vợ trong gia đình
mà không phân tích thêm những trách nhiệm khác của người chồng.
Vai trò của người vợ trong gia đình có một tầm quan trọng rất lớn.
Chúng ta phải biết rằng ngoài trách nhiệm của một người vợ biết chăm lo

cho chồng thì chúng ta còn mang nặng vai trò một người mẹ chăm lo cho các
con mình. Thế nhưng muốn hoàn thành 2 thiên chức cao quý trên, bạn còn phải
nên có lúc, có khi đặt mình vào những vò trí của một người chò biết hy sinh,
nhường nhòn; một người em gái biết tuân phục,vâng lời; một người bạn để chia
xẻ tâm sự vui buồn; thậm chí có khi là một người giúp việc đãm đang chu toàn
mọi việc…
Một vấn đề tuy đơn giản nhưng người vợ cần phải quan tâm vì người Phật Tử
chúng ta thường không xem trọng việc nầy, đó là việc tự chăm sóc bản thân,
làm đẹp cho bản thân để người chồng không cảm thấy xấu hổ với mọi người,
mà theo tôi cái đẹp của người phụ nữ, người vợ không phải từ phấn son loè
loẹt, châu ngọc vòng vàng, quần nhung áo gấm… mà cái đẹp của người phụ nữ,
người vợ là phải có một tình thương bao dung; có đầy đủ đức hạnh; có đức hy
sinh kham nhẫn; biết tôn trọng các bậc trưởng thượng; biết thương yêu chồng
con như thương yêu chính bản thân mình… Vì vậy, đối với chồng, với con, người
vợ như ly nước mát, như chiếc khăn lạnh thấm giọt mồ hôi khi nóng nảy, là
chiếc chăn sưởi ấm lúc lạnh lùng, là bát cơm nóng, tô canh ngọt ngon lành trong
lúc đói lòng… Vì vậy, trong cung cách cư xử của người Cư Só, đức Phật rất chú
trọng và đề cao vai trò của người vợ trong gia đình. Tất cả những yếu tố thành
công hay thất bại của người chồng nói riêng và của gia đình nói chung phần lớn
đều bắt nguồn từ cách sống của người vợ.
Không phải đến thời đại bây giờ chúng ta mới chứng minh được sự nghiệp
của người chồng dựng nên do sự góp phần rất quan trọng của người vợ, mà thời
Phật tại thế Ngài đã xác nhận điều đó. Một lần có người khen đức hạnh nàng
Da-du-đà-la khi Phật tu khổ hạnh, Ngài đã nói: “Không phải từ bây giờ mà đã
từ vô lượng kiếp, nàng Da-du-đà-la luôn là người bạn đạo, là người đã giúp đỡ
ta, khuyến tấn ta rất nhiều trong suốt quá trình ta tu Bồ Tát đạo”. Đọc những
truyện tiền thân như truyện “Thái tử Tu-đại-noa”, truyện “Cặp mắt Thái tử
Câu-na-la” chúng ta dễ dàng nhận ra lời khen ngợi này của Đức Phật dành cho
Da-du-đà-la. Một lần dạy Visakha Ngài nhắc nhở như lời mẹ dạy con gái trước
-19-

LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
khi về nhà chồng: “Hãy tôn thờ cha mẹ chồng như những vò Trời trong nhà; hãy
thận trọng cư xử với cha mẹ chồng như khi gần lửa; không được đem lửa nhà
mình sang nhà khác”. Đoạn kinh này khuyên người vợ phải có bổn phận thờ
kính cha mẹ chồng và không được đem chuyện nhà chồng ngồi lê đôi mách kể
cho người khác nghe… Một lần khác, trong lần giảng cho nàng Sujalla (nàng
Thiện Sinh) người dâu trưởng của ông Cấp-cô-độc, Ngài đã nói người vợ đối
với chồng đôi lúc như là người mẹ, người chò, người bạn, người em gái và cũng
là một người hầu. Có như vậy người vợ mới hoàn thành bổn phận giúp đỡ chồng
trong việc hoàn thành sự nghiệp. Ngài phân tích 7 hạng vợ qua đoạn kệ sau:
Người thiếu nhân từ, tâm xấu xa.
Chồng mình ghét bỏ, yêu người ta.
Phá nát gia tài chồng kiếm được.
Nhận lấy danh xưng vợ phá nhà.
Những gì chồng có nhờ kinh doanh.
Hoặc bằng nghề nông hoặc nghề lanh.
Cô ta cố trộm cắp một ít.
Người vợ trộm cắp thật xứng danh.
Lơ là bổn phận, đầy dục vọng.
Phẫn nộ, ác ngôn, thích sống nhàn.
Bạo ngược đối với hàng tôi tớ.
Danh xưng kiêu ngạo người này mang.
Người nhiều thương cảm, lắm lòng nhân.
Chăm chồng bằng tình của mẫu thân.
Giữ gìn gia sản chồng kiếm được.
Người vợ từ mẫu được xưng danh.
Người kính trọng chồng bằng tình nhân.
Như cô em gái kiùnh người anh.
Nhún nhường vâng theo ý chồng muốn.
Người vợ em gái được xưng danh.

Người luôn mừng vui khi gặp chồng.
Như gặp bạn cũ bấy lâu trông.
Đức hạnh, nghiêm từ và dâng hiến.
Người vợ bạn hữu được tặng phong.
Lẳng lặng, cãi tranh sợ bạo hành.
Kiên trì nhẫn nhòn không dục sân.
-20-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
Chiều chồng giữ tâm luôn trong sạch.
Người vợ nàng hầu được xưng danh.
3) Hạnh phúc gia đình theo quan điểm Kinh Thiện Sinh:
a) Tương quan cha mẹ, con cái: Với
cha mẹ chồng cũng phải thương yêu, phụng dưỡng như cha mẹ ruột của mình;
với con cái phải làm tròn bổn phận của người cha, người mẹ, thương yêu đùm
bọc, che chở, dạy dỗ con nên ngừơi.
-21-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
Đối với cha mẹ, người con có 5 điều phải gìn giữ, thực hiện:
o Con cái phải hết lòng hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Khi tuổi già sức
yếu đừng để cha mẹ phải sống trong cảnh thiếu ăn, thiếu mặc.
o Gánh vác những công việc nhọc nhằn giúp cha mẹ; đảm đương mọi
công việc cho cha mẹ khi về già.
o Giữ gìn gia phong, danh dự gia đình; nhớ ơn công sanh dưỡng, mong lo
đền đáp cho kòp trong lúc sinh thời.
o Chăm lo cho cha mẹ khi ốm đau; lo liệu tang lễ chu đáo khi cha mẹ qua
đời, không được phân biệt là cha mẹ chồng hay cha mẹ vợ.
o Hướng dẫn cha mẹ tu tập, noi theo đường chánh kiến.
Với con cái, cha mẹ cũng có 5 điều dạy bảo con:
o Khuyên răn, ngăn chặn con làm điều ác; tránh xa bạn xấu; tránh làm
những điều phi pháp.

o Dạy con làm những việc thiện; cho con ăn học đến nơi đến chốn; tạo
dựng cho con có một nghề nghiệp thích hợp.
o Thương yêu che chở cho con trong bất cứ hoàn cảnh nào. Chăm sóc,
nuôi dạy và lo lắng cho con nên người hửu dụng.
o Khi con cái khôn lớn trưởng thành, phải lo dựng vợ, gả chồng cho con,
chọn cho con nơi thích hợp để lập thành gia thất.
o Đem tiền của thừa tự cung cấp cho con cái đúng thời, đúng lúc.
Với con cái, lúc nào cũng thương yêu, lo cho con từng miếng cơm, manh áo
từ lúc cất tiếng khóc chào đời cho đến khi khôn lớn trưởng thành. “Con dù lớn
vẫn là con của mẹ”. Nói đến nói đến tình yêu thương con vô bờ bến của mẹ thì
bút viết nào tả xiết?
Cũng vậy, chúng ta là những ngừơi con thì phải biết thương yêu, phụng
dưỡng cha mẹ, nhất là lúc tuổi già bóng xế, khi đau ốm bệnh tật. Là một Phật
tử, chúng ta phải noi theo hạnh nguyện của mười phương các Đức Phật vì đây là
tiêu chí căn bản của luân thường đạo lý, là nền tảng cốt lõi và cũng là tinh hoa
của mọi nền văn hoá nhân loại.
-22-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
b) Tương quan vợ chồng:
Người chồng đối với vợ có 5 điều cần gìn giữ:
o Phải kính trọng, biết chiều thuận vợ, theo lời khuyên hợp lý, không nên
có thái độ xem thường vợ.
o Để ý chăm sóc vợ trong việc ăn mặc.
o Tuỳ thuận sắm sửa đồ tư trang cho vợ.
o Tín cẩn giao phó quyền hành, nhà cửa, đồ đạc cho vợ.
o Chung tình với vợ, không được ngoại tình làm tổn thng vợ.
Ngược lại, người vợ đối với chồng cũng có 5 điều cần giữ:
o Chồng đi làm về phải niềm nở đón chào.
o Làm tròn bổn phận người vợ, phải dọn dẹp nhà cửa ngăn nắp gọn gàng,
lo sẵn cơm nước đợi chồng về cùng ăn.

o Khéo léo giữ gìn tài sản của chồng làm ra, không được cất giấu riêng tư
hay ăn xài hoang phí.
o Sáng phải dậy trước chồng, đêm đợi chồng đi ngủ, kiểm soát đồ đạc,
nhà cửa rồi mới đi ngủ.
o Trung thành với chồng, không được ngoại tình, ăn nói phải nhỏ nhẹ, lúc
chồng gặp khó khăn, trở ngại phải cùng nhau chia sẻ tháo gỡ, lúc chồng
giận phải nhẹ nhàng giải thích, không nên to tiếng.
Đã là vợ chồng phải đồng cam cộng khổ với nhau, cùng nhau chia sẻ cay
đắng, ngọt bùi, cùng nhau chung sức xây dựng mái ấm gia đình. Tục ngữ Việt
Nam có câu: “Thuận vợ, thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”. Một khi vợ
chồng hoà thuận thì dù khó khăn, chúng ta cũng sẽ dễ dàng vượt qua tất cả, sẽ
nghe vang vang tiếng nói, tiếng cøi trong căn nhà nhỏ bé mà tràn đầy hạnh
phúc, và nhất đònh thành công sẽ tìm đến trong cuộc sống gia đình.
-23-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
III/ KẾT LUẬN:
Qua nội dung tư tưởng nêu trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng trong Kinh
Thiện Sinh, Đức Phật đòi hỏi một người tại gia phải hành trì như thế nào để
xứng đáng là một Phật Tử chơn chánh, một Thiện Sinh (biết khéo sống), sống
đúng chánh pháp đối với tự thân và đối với cộng đồng xã hội.
Chúng ta là những Huynh Trưởng GĐPT đã phát nguyện trước Tam Bảo và
tổ chức nhận lãnh trách nhiệm giáo dục Đoàn Sinh. Chúng ta phải nổ lực sống
đúng chánh pháp, thúc liễm thân tâm từng giờ, từng ngày để hoàn thiện tự thân,
để có một cuốc sống đạo đức thanh cao hòng làm gương cho các em, tạo uy tín
cho tổ chức và hoàn thành sứ mạng của một Huynh Trưởng đối với Đạo Pháp
và Dân Tộc.
Việc hoàn thiện bản thân được quy về các điểm cốt lõi:
Thực hành Tam Quy - Ngũ Giới trong đời sống, tránh xa các nghiệp oán kết,
lìa xa 4 điều ác, trừ bỏ 6 thói hư tật xấu, đoạn giao 4 hạng bạn xấu ác và thân
cận 4 hạng bạn hiền thiện.

Thực hành được như vậy là bảo đảm được đời sống tinh thần an lạc, hạnh
phúc, làm nấc thang nền tảng vững chắc cho những bước đầu tiên để bước lên
đỉnh cao là thành đạo sau này.
Vấn đề xây dựng hạnh phúc gia đình, trong lời dạy Thiện Sinh về cách lễ
bái phương Tây – tượng trưng ý nghóa tương giao phu phụ – vợ chồng phải đối
xử với nhau như thế nào để gia đình yên ấm, trên thuận dưới hòa, Phật đưa ra 5
điều chính yếu mà vợ chồng phải đối xử với nhau; 5 nhiệm vụ chính yếu mà vợ
chồng phải hoàn thành để quan hệ vợ chồng trở thành quan hệ thiêng liêng
trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau nhằm tạo một đời sống lứa đôi an lạc, hạnh
phúc tại thế gian.
Con người sống là “sống với nhau”, sống với những tương quan mật thiết
trong xã hội. “Sống bên”, “sống cạnh”, “sống với” là quy luật tất yếu của cuộc
sống, là sự tương quan, tương duyên không thể thiếu trong cộng đồng. Trong
phạm vi gia đình thì người vợ hay người chồng luôn luôn là trụ cột gia đình, cho
nên mối quan hệ này cần được mọi thành viên trong gia đình quan tâm để cải
thiện hoàn chỉnh nhằm xây dựng một gia đình hạnh phúc theo tiêu chuẩn Phật
giáo: kính trọng, hoà hợp, thng yêu, bao dung và trí tuệ. Đây là hạnh phúc
-24-
LUẬN VĂN KẾT KHÓA BẬC TRÌ Trung Hiếu PHẠM THỊ HỒNG VÂN
chân thật xuất phát từ trách nhiệm, từ sự tương kính lẫn nhau chứ không phải là
hạnh phúc ảo tưởng của thế gian được xây dựng trên tiền tài và danh vọng.
Thiết nghó, là một Huynh Trưởng, chúng ta cần phải ý thức rõ điều nầy để
áp dụng, thực hành trong hạnh phúc lứa đôi, để cải thiện quan hệ vợ chồng, để
Phật hóa gia đình nhằm tạo chỗ dựa vững chắc cho chính mình trong cuộc sống
bất toàn, đa đoan, chật vật áo cơm. Hơn ai hết, người Huynh Trưởng chúng ta
muốn hoàn thành sứ mệnh của mình đối với tổ chức, đối với Đoàn, trước tiên
cần phải kiến lập cho mình một gia đình hạnh phúc được xây dựng nên bằng
những yếu tố Phật giáo để làm nền móng an toàn cho cuộc đời phục vụ lý
tûng, là hậu phương vững chắc, là chỗ dựa tinh thần trong quá trình hành Bồ
Tát hạnh.

Thăng tiến chính mình cũng chính là góp phần thăng tiến cho tổ chức vậy.
HẾT
-25-

×