Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tiểu luận công tác xã hội tìm hiểu việc thực hiện chính sách giảm nghèo tại xã nghĩa xuân, huyện qùy hợp, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.81 KB, 28 trang )

Lời Cảm Ơn
Trong quá trình học tập chúng ta cần nắm vững được những lý thuyết để
có thể ứng dụng một cách hiệu quả nhất và qua việc ứng dụng vào thực hành đó
chính là giúp chúng ta củng cố lại kiến thức. Chính vì vậy để nâng cao năng lực
và kiến thức cho sinh viên đối với chuyên ngành của mình tổ bộ môn Công tác
xã hội – trường Đại học Vinh đã tạo điều kiện cho sinh viên K51 vận dụng
những gì đã được học vào việc đi thực tế để hoàn thành bài Tiểu luận Công tác
xã hội theo khung chương trình đào tạo của Nhà trường.
Trong thời gian đi thực tế của mình em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới
nhà trường, khoa Lịch Sử đã tạo điều kiện và giúp đỡ em. Đặc biệt em xin gửi
lời cảm ơn tới cô giáo Võ Thị Cẩm Ly là giáo viên hướng dẫn em trong suốt quá
trình đi thực tế để em hoàn thành được bài Tiểu luận chuyên ngành này.
Do kiến thức và thời gian có hạn, nên bài Tiểu luận không thể tránh khỏi
những sai sót nhất định. Vì vậy em rất mong nhận được sự bổ sung, góp ý của
các thầy cô để bài tiểu luận của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
MỤC LỤC
Trang
2
Phần I : Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài
Nghèo đói là một vấn đề mang tính toàn cầu luôn tồn tại trong xã hội.
Nghèo đói làm cho nền kinh tế chậm phát triển. Ngay cả những nước phát triển
cũng có tình trạng nghèo đói, toàn thế giới hiện nay vẫn có hơn 1 tỷ người sống
trong nghèo đói. Đó là một thách thức lớn cho sự phát triển của toàn thế giới
Việt Nam là một trong những nước nghèo trên thế giới, với gần 70% dân
cư sống ở khu vực nông thôn, lực lượng lao động làm nông nghiệp là rất lớn. Do
sự phát triển lớn của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu về kinh tế và trình độ phân
công lao động xã hội kém, dẫn tới năng suất lao động xã hội và mức tăng trưởng
xã hội thấp. Tình hình nghèo đói ở Việt Nam diễn ra rất phổ biến và phức tạp


đặc biệt khu vực miền núi và nông thôn chiếm tỷ lệ rất cao, có sự chênh lệch
giàu nghèo rất lớn thành thị và nông thôn. Nghèo đói làm cho trình độ dân trí
không thể nâng cao, đời sống xã hội không thể phát triển
Chính vì vậy trong quá trình xây dựng và đổi mới Đảng và Nhà Nước ta
luôn đặt mục tiêu xóa đói giảm nghèo lên hàng đầu góp phần đem lại hiệu quả
thiết thực cho người nghèo, ổn định thu nhập, nâng cao đời sống và tạo mọi điều
kiện để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của người nghèo đưa đất nước tiến vào
kỷ nguyên mới nhằm hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Xã Nghĩa Xuân, huyện Qùy Hợp, tỉnh Nghệ An là 1 xã với phần đông
dân số sống bằng nghề nông nghiêp, thu nhập chủ yếu dựa vào nông nghiệp với
việc trồng lúa,mía,cây lâu năm chiếm đa số , đất đai ở đây không cho phép
trồng hoa màu như ngô, khoai, lạc chính vì thế cuộc sống rất khó khăn, thêm
vào đó những chính sách hỗ trợ của nhà nước đến người dân còn hạn chế. Trong
những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong xã đã có nhiều cố
gắng để phát triển kinh tế - xã hội và đã thu được những thành quả lớn . Tuy
3
nhiên tình trạng nghèo đói của một bộ phận dân cư vẫn chưa được khắc phục,
cái nghèo, cái đói vẫn đang còn là cản trở cho sự phát triển chung của xã. Mặt
khác đây chính là làng quê tôi được sinh ra và lớn lên, tôi hiểu được cuộc sống
cực khổ của người dân nơi đây, tôi muốn với đề tài nghiên cứu của mình sẽ đi
sâu nghiên cứu thực trạng , nguyên nhân dẫn tới cái nghèo để từ đó đưa ra một
số giải pháp phù hợp giúp người dân thoát nghèo, nghiên cứu công tác xóa đói
giảm nghèo của xã đã thu được những kết quả gì. Như vậy trên đây là những lý
do để tôi chọn đề tài “ Tìm hiểu việc thực hiện chính sách giảm nghèo tại xã
Nghĩa Xuân, huyện Qùy Hợp, tỉnh Nghệ An” để nghiên cứu.
2. Đối tượng, khách thể, mục đích và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài hướng tới chính là tìm hiểu việc thực
hiện chính sách giảm nghèo tại xã Nghĩa Xuân, huyện Qùy Hợp, tỉnh Nghệ An

2.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu trong đề tài này chính là những hộ nghèo và chính
sách giảm nghèo trên địa bàn xã Nghĩa Xuân, huyện Qùy Hợp, tỉnh Nghệ An
2.3 Mục đích nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài này, góp phần tìm hiểu một vài nét về
tình hình nghèo đói trên xã.
- Tìm hiểu những yếu tố tác động đến nghèo đói trên xã.
- Tìm hiểu hậu quả của nghèo đói
- Tìm hiểu việc thực hiện các chính sách giảm nghèo và kết quả đã đạt
được để giảm số hộ nghèo trên xã.
2.4 Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Địa bàn xã Nghĩa Xuân, huyện Qùy Hợp, tỉnh Nghệ An
4
- Thời gian: Đề tài này được nghiên cứu trong thời gian bắt đầu từ ngày
25/5/2013 đến 25/3/2013
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1 Phương pháp quan sát
Phương pháp này được sử dụng trong nghiên cứu để quan sát về những
đặc điểm của xã và các hộ nghèo.
- Cơ cấu bữa ăn: Bữa ăn của những hộ nghèo trong xã rất đạm bạc chủ
yếu là rau, trứng, bữa ăn thường chỉ dừng lại ở 2 món.
- Nhà ở : Các hộ nghèo nhà còn tạm bợ, nhà tranh, có một số hộ nhà ngói
nhưng cũng đã rất cũ kỹ và hư hỏng không để khả năng để chống chọi với thiên
tai, bão lũ.
- Đất đai canh tác : Đất của xã bạc màu,khô cằn chỉ trồng được
lúa,mía,cây lâu năm. chứ không trồng được hoa màu.
- Nước sạch : Hầu hết các gia đình ở đây đều dùng nước giếng.
3.3 Phương pháp phỏng vấn sâu
Ở đây em đã tiến hành phỏng vấn 2 đối tượng trên xã đó là chọn ra 10 hộ
nghèo đói nhất xa để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nghèo đói , khi phỏng vấn

em chọn người phỏng vấn đó là lao động chính trong gia đình cụ thể là vợ hoặc
chồng. Phỏng vấn phó chủ tịch xã và 1 cán bộ làm công tác chính sách xã để tìm
hiểu về thực trạng nghèo đói chung của xã và những chính sách, giải pháp đã
được áp dụng, kết quả của nó.
3.4 Phương pháp phân tích tài liệu
- Phân tích tài liệu từ các văn bản, báo cáo về thực trạng, nguyên nhân,
giải pháp về vấn đề nghèo đói của, những kết quả đạt được từ công tác xóa đói
giảm nghèo qua các tháng, quý, năm của xã
5
- Thu thập và phân tích một số tài liệu có liên quan từ các sách, báo, tài
liệu tham khảo, trang web
4. Kết cấu nội dung
Kết cấu nội dung nghiên cứu gồm 4 chương, cụ thể như sau:
Chương I: Mở đầu
Chương II : Thực trạng, nguyên nhân, hậu quả tình trạng nghèo đói trên
xã Nghĩa Xuân.
Chương III : Công tác xóa đói giảm nghèo của xã Nghĩa Xuân, huyện
Qùy Hợp , tỉnh Nghệ An
Chương IV : Khiến nghị
6
Phần II : Nội Dung
Chương I: Cơ sở lý luận
1.1 Các khái niệm liên quan
1.1.1 Khái niệm nghèo đói
Nghèo đói là sự thiếu thốn ở nhiều phương diện như: thu nhập hạn chế,
thiếu cơ hội để tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc
khó khăn, dễ bị tổn thương trước những đột biến, ít được tham gia vào quá trình
ra quyết định [4]
Tại hội nghị chống đói nghèo của ESCAP khu vực Châu Á Thái Bình
Dương tại Thái Lan (9/1993) : Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư

không được hưởng và thõa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà đã được
xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập
quán của địa phương.
Hội nghị Thượng đỉnh, Copenhagen 1995 : Người nghèo là tất cả những
ai mà thu nhập thấp hơn 1USD/ ngày, số tiền được coi như đủ để mua những sản
phẩm thiết yếu để tồn tại.
1.1.2 Khái niệm chuẩn đói nghèo, xóa đói giảm nghèo
Chuẩn đói nghèo : Các quốc gia khác nhau sử dụng các tiêu chuẩn khác
nhau để đánh giá mức độ giàu – nghèo. Việt Nam đưa ra chuẩn nghèo theo từng
giai đoạn thời gian khác nhau. Hiện nay chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn
2011- 2015 theo chỉ thị số 1752/CT- TTg ngày 21/9/2010 của Thủ tướng chính
phủ, mức chuẩn nghèo và cận nghèo được xác định, những hộ có thu nhập bình
quân từ 400.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo (khu vực nông thôn),
đối với khu vực thành thị hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân
500.000 đồng/người/tháng. Hộ cận nghèo là những hộ có mức thu nhập bình
quân từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng (khu vực nông thôn), đối
với khu vực thành thị là 501.000 đến 750.000 đồng/người/tháng.[5]
7
Xóa đói giảm nghèo: Là tổng thể các hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp
nhằm thực hiện mục đích hỗ trợ những điều kiện cơ bản ( như ăn, mặc, ở, đi lại,
học hành ) làm cho người nghèo có thể tồn tại và phát triển dần đạt tới mức
trung bình như các thành viên khác trong cộng đồng.
1.2 Quan điểm về nghèo đói
Hiện nay đói nghèo không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia, mà là
vấn đề mang tính toàn cầu bởi vì tất cả các quốc gia trên thế giới, ngay cả những
nước giàu mạnh thì người nghèo vẫn có và có lẽ khó có thể hết người nghèo khi
trong các xã hội chưa thể chấm dứt những rủi ro về kinh tế, xã hội, môi trường,
và sự bất bình đẳng trong phân phối của cải làm ra. Rủi ro quá nhiều trong sản
xuất và đời sống làm cho một số bộ phận dân cư rơi vào tình trạng nghèo.
Đói nghèo là một hiện tượng tồn tại ở tất cả các quốc gia, dân tộc. Nó là

một khái niệm rộng, luôn thay đổi theo không gian và thời gian. Đến nay, nhiều
nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau
trong đó có khái niệm khái quát hơn cả được nêu ra tại hội nghị bàn về xóa đói,
giảm nghèo ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Thái
Lan vào tháng 9/1993, các quốc gia đã thống nhất cho rằng “ Nghèo đói là tình
trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thõa mãn những nhu cầu cơ bản
của con người đã được xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã
hội và phong tục tập quán của từng địa phương”. Đây là khái niệm khá đầy đủ
về đói nghèo, được nhiều nước trên thế giới sử dụng, trong đó có Việt Nam.
1.3 Đặc điểm tâm lý của đối tượng
Những người dân ở địa bàn xã Nghĩa Xuân, huyện Qùy Hợp, tỉnh Nghệ
An sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, vì thế cuộc sống còn gặp nhiều khó
khăn. Quanh năm người dân chỉ biết trông chờ vào kết quả của 2 vụ lúa Hè
Thu_ Đông Xuân, 2 vụ thu hoạch mía, để có tiền trang trải cho mọi sinh hoạt
trong cuộc sống. Dân cư rất chịu khó, siêng năng nhưng cũng chỉ vì điều kiện tự
thiên không thuận lợi, đất đai xấu nên cái nghèo, cái khổ vẫn cứ đeo bám nhân
8
dân. Cũng chính vì sống phụ thuộc vào thiên nhiên rất nhiều, họ sống cố định
một chỗ, ở dưới một mái nhà với mảnh vườn của mình được bao bọc bởi làng
bảo vệ. Trong sản xuất những người dân nơi đây phụ thuộc nhiều vào hiện
tượng tự nhiên như trời, đất, nắng, mưa Bởi vậy mà họ rất tôn trọng, hòa
thuận với tự nhiên và phụ thuộc vào nó, và từ đó làm cho người nghèo trở nên
rụt rè, sống thụ động
Với hoàn cảnh của mình như vậy người nghèo luôn nung nấu trong mình
tâm lý muốn thoát khỏi nghèo, có cuộc sống khá giả hơn. Mặt khác người dân
luôn thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống hàng ngày.
Xã hội tồn tại khoảng cách giữa người giàu – người nghèo nên với khoảng
cách đó làm cho người nghèo luôn mặc cảm, tự ti với những người giàu trong xã
hội, họ không muốn sống với sự xô bồ, chen chúc mà chỉ là thoát nghèo và sống
trong sự thương yêu, gắn bó giữa con người với nhau. Với họ mưa thuận gió

hòa, được mùa bội thu là niềm vui, là điều may mắn trong cuộc sống của mình.
1.4 Lý thuyết nhu cầu của Maslow làm cơ sở lý luận cho vấn đề
nghiên cứu ( cụ thể là đối với Nhu cầu của đối tượng )
Có thể nhận biết được rằng đối với những người giàu, kinh tế thừa ra thì
họ có nhu cầu ăn ngon, mặc đẹp, nhà lầu, xe hơi Những gì được cho là hiện
đại và phù hợp nhất. Nhưng đối với người nghèo thì khác.
Để tìm hiểu rõ nhu cầu của người nghèo như thế nào em đã đi phỏng vấn
trực tiếp về họ và kết quả là những nhu cầu đó đều nằm trong 5 bậc thang nhu
cầu của con người mà Maslow đã đưa ra. Đó là những nhu cầu mà cần thiết cho
một cuộc sống theo nghĩa của con người. [3]
Theo thuyết nhu cầu của Maslow ông cho rằng con người cần được đáp
ứng những nhu cầu cơ bản để tồn tại và phát triển đó là nhu cầu thể chất, nhu
cầu an toàn, nhu cầu tình cảm xã hội, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu được
hoàn thiện.
9
Ông cho rằng các nhu cầu này được sắp xếp theo thứ tự bậc thang. Bậc từ
nhu cầu cơ bản nhất có vị trí và nền tảng quan trọng nhất với con người tới nhu
cầu cao hơn và ở vị trí bậc tiếp theo.

Nhu cầu hoàn thiện
Nhu cầu được tôn trọng
Nhu cầu tình cảm XH
Nhu cầu an toàn
Nhu cầu thể chất sinh lý
Nhu cầu thể chất sinh lý:
Là nhu cầu về đồ ăn, nước uống, đi lại, không khí, nhu cầu tình dục…
Nhu cầu này được xem là nhu cầu cơ bản trong 5 nhóm nhu cầu theo sự phân
định của A.Maslow. Ông cho rằng, muốn tồn tại trước hết con người cần được
ăn, được uống, được hít thở. Nếu nhu cầu này ở con người không được đáp ứng
thì sự sinh tồn của họ sẽ bị đe dọa. Nhu cầu này của con người luôn được xem là

nhu cầu cần được đáp ứng trước tiên.
Nhu cầu an toàn
Khi đã được đảm bảo đáp ứng nhu cầu sinh lý tức là để sống được người
con người phải vươn tới nhu cầu về sự tồn tại an toàn với môi trường ổn định
không có yếu tố đe dọa, nguy hiểm bạo lực y những tình huống có độ bất định
cao. Vì vậy gia đình và xã hội có trách nhiệm tạo ra môi trường an toàn cho
cuộc sống của mỗi thành viên.
10
Nhu cầu tình cảm xã hội
A.Maslow xem đó như là nhu cầu thuộc về nhóm xã hội của con người.
Sự mong muốn được quan tâm của các thành viên trong nhóm xã hội, con người
cần có quan hệ xã hội , họ cần được khẳng định mình trong nhóm và cần được
yêu thương, được quan tâm và chăm sóc từ các thành viên khác trong nhóm.
Mỗi người ai cũng cần có gia đình, người thân và bạn bè. Gia đình là nhóm xã
hội cơ bản nhất của con người. tình yêu thương đùm bọc của cha mẹ, anh chị em
trong gia đình tạo nên cho họ cảm giác được an toàn, được chở che và được bảo
vệ. Con người cần được giao lưu với những người khác và hòa nhập vào các
nhóm khác trong xã hội. Sức mạnh của họ sẽ được nhân lên sự tự tin cũng được
tăng cường khi họ là thành viên của các nhóm bởi điều đó khảng định vai trò,vị
trí của họ trong xã hội. Sự đơn độc không gia đình, không có nhóm xã hội nào
để cá nhân thuộc về đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tâm lý và quan hệ
xã hội của cá nhân.
Nhu cầu được tôn trọng
Mỗi người đều mong muốn được gia đình, cộng đồng, bạn bè tôn trọng
coi họ như là một con người, một công dân bình đẳng về tất cả các quyền lợi
như những người công dân khác.
Con người có trở nên tự tin hay không, thể hiện được sức mạnh của mình
hay không đó là một phần do họ được đối xử bình đẳng hay không ngay từ khi
còn nhỏ. Sự chèn ép hay lấn át với một cá nhân ở bất cứ nơi đâu, dù ở trong gia
đình, cơ quan hay các môi trường xã hội khác đều có thể gây nên nhiều ức chế

tâm lý, sự thụ động và hạn chế khả năng đề kháng của họ.
Nhu cầu được hoàn thiện
Đó là nhu cầu được đến trường, được nghiên cứu, lao động và sáng tạo…
để phát triển hoàn thiện. Khi được cuộc sống thừa nhận và tôn trọng mỗi người
luôn mong muốn được cộng đồng có thể tạo điều kiện để cho họ tham gia học
11
tập, làm việc, được cốn hiến, được phát huy những khả năng của mình và có thể
tự nuôi sống bản thân.
Nhu cầu này được áp dụng đối với người nghèo như sau:
Các nhu cầu về căn bản nhất thuộc “thể lý” : Thức ăn, nước uống, nơi ở,
tình dục, nghỉ ngơi Với nhu cầu này chắc hẳn đối với nhiều người thì rất dễ
dàng, đơn giản nhưng đối với người nghèo thì đây cũng là vấn đề khó khăn, và
là lo lắng hàng ngày của họ, đối với người nghèo là được ăn no được mặc ấm
chứ không phải là ăn ngon, mặc đẹp như bao người giàu khác. Những hộ nghèo
trong xóm đều phải sống trong những ngôi nhà tạm bợ không thể chống chọi
được với những trận mưa to, bão lớn. Vì vậy họ mơ ước có một ngôi nhà chắc
chắc, cố định để có thể yên tâm chung sống và làm ăn.
Nhu cầu được an toàn : Cuộc sống của người nghèo rất bấp bênh, họ phải
sống trong môi trường không đảm bảo cho sức khỏe của mình như ăn uống
không đầy đủ, không gian chật hẹp, chỉ trông chờ vào 2 vụ lúa Vì thế họ có
nhu cầu được đảm bảo về sức khỏe, công việc, gia đình của mình
Nhu cầu giao lưu tình cảm, hòa đồng với mọi người, được mọi người kính
trọng, yêu mến: Với nhu cầu này chính là giúp cho người nghèo giảm được sự tự
ti, mặc cảm về hoàn cảnh của mình, để họ thấy được tầm quan trọng và giá trị
của mình đối với xã hội
Nhu cầu về tự thể hiện bản thân : Những người nghèo họ cũng mong
muốn có cơ hội để thể hiện mình như có vốn, điều kiện tự nhiên thuận lợi từ đó
họ sẽ thực hiện được gì mình muốn như là một người làm trang trại giỏi, hay 1
người biết ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất
Ngoài ra người dân còn có nhiều nhu cầu khác nữa, tất cả đều hướng đên

việc mong muốn được thoát nghèo, được sống một cuộc sống ấm no, hạnh phúc
với gia đình của mình.
12
1.5 Quan điểm của Đảng và Nhà Nước về chính sách xóa đói giảm
nghèo
Đảng và Nhà Nước ta ngay từ khi mới ra đời đã quan tâm chăm lo đến
mọi mặt đời sống người dân trong đó đặc biệt chú trọng tới mảng công tác xóa
đói giảm nghèo nhằm ổn định đời sống người dân, mạng lại sự an ninh, an toàn
cho xã hội . Điều này được thể hiện trong hệ thống quan điểm và hệ thống chính
sách sau :
+ Xóa đói giảm nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế, phải đảm bảo sự thống
nhất xã hội, giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội
+ Gắn xóa đói giảm nghèo với công bằng xã hội ưu tiên đầu tư phát triển
xã nghèo, vùng nghèo, nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo một cách hợp lý
+ Phát huy nội lực, nguồn lực tại chỗ là chủ yếu đồng thời tranh thủ sự trợ
giúp bên ngoài, quốc tế
+ Xã hội hóa công tác xóa đói giảm nghèo. Xóa đói giảm nghèo được xác
định là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội, đoàn
thể của cộng đồng và chính bản thân người nghèo
- Các giải pháp chủ yếu để xóa đói giảm nghèo:
+ Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách : Đầu tư chính sách hạ tầng, định
canh, định cư
+ Nhóm giải pháp đầu tư hỗ trợ phát triển xóa đói giảm nghèo gồm có các
dự án đầu tư trực tiếp và lồng ghép các chương trình dự án liên quan
+ Nhóm các giải pháp đảm bảo : điều tra, nghiên cứu, lập danh sách,
tuyên truyền nâng cao nhận thức, tổng kết, sơ kết, đánh giá.
13
Chương II : Thực trạng, nguyên nhân và hậu quả tình trạng nghèo đói
xã Nghĩa Xuân.
2.1 Một vài nét về tình hình nghèo đói tại xã Nghĩa Xuân.

Dân cư ở xã Nghĩa Xuân, huyện Qùy Hợp, tỉnh Nghệ An sống chủ yếu
nhờ vào hạt lúa, cây mía, những khi thời tiết thuận lợi bà con có thu hoạch,
nhưng cũng không tránh khỏi nhiều rủi ro làm cho mất mùa. Khi đó không có
lương thực cũng có nghĩa là không thể chăn nuôi để tăng thu nhập, không có
tiền để đầu tư vào vật tư, giống cây trồng để sản xuất nên năng suất thấp, thu
hoạch ít hơn, trong khi số người ăn trong gia đình ngày càng tăng lên.
Tổng dân số của xã bao gồm 150 hộ với 750 nhân khẩu, khi điều tra được
con số này chúng ta cũng đã thấy được nó phản ánh phần nào nguyên nhân cũng
như nghèo đói của họ. Như thế bình quân mỗi hộ 5 đến 6 người, việc lo cho bữa
ăn của gia đình cũng đã gặp rất nghiều khó khăn, cứ như thế tình trạng nghèo
vẫn cứ tiếp diễn. Phải thừa nhận một thực tế là khi đất nước phát triển, khi chuẩn
nghèo của nhà nước có sự điều chỉnh phù hợp thì tỉ lệ nghèo đói giảm nhưng nó
cũng tạo ra khoảng cách giàu nghèo mạnh mẽ. Những người giàu thì cứ giàu lên,
còn người nghèo thì vẫn cứ nghèo.
Bảng 1 : Thực trạng nghèo đói trên địa bàn xã Nghĩa Xuân
Tổng hộ dân của xã qua các năm là:
- 2005, 2006 : 700 hộ
- 2007: 800 hộ
- 2008, 2009 : 900 hộ
- 2010, 2011: 1000 hộ

Năm Hộ nghèo Tỉ lệ
14
2005
200
2007
2008
2009
2010
2011

130
120
125
140
150
200
200
17,3 %
16 %
15,6 %
16,1 %
16,7 %
20 %
20 %
( Theo số liệu của ban chính sách xã Nghĩa Xuân )
Qua bảng số liệu trên ta thấy được diễn biến trình trạng đói nghèo của xã
qua các giai đoạn. Từ năm 2005- 2006 giảm 1,3 %, 2006 - 2007 giảm nhẹ 0,4%.
Nhưng năm 2007 – 2008 tăng 0,5 %, năm 2009 tăng 0,6 %, riêng 2 năm 2010,
2011 tỉ lệ hộ nghèo đã tăng vọt 3,3 %.
Số hộ nghèo của xã là thuần nông chiếm số lượng rất lớn khoảng 90%,
người dân chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa có các thiết chế
phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như thiên tai, dịch bệnh, sâu hại, tai
nạn giao thông, tai nạn lao động, thất nghiệp
Trải qua từng giai đoạn thời gian khác nhau thì mức chuẩn nghèo được
Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã Hội ban hành các mức khác nhau. Trước
đây năm 2006 – 2010, khu vực nông thôn, những hộ có bình quân thu nhập đầu
người dưới 200.000 đồng/người/tháng thì được coi là hộ nghèo. Nhưng theo
chuẩn mới hiện nay giai đoạn 2011 – 2015, khu vực nông thôn, những hộ có thu
nhập dưới 400.000 đồng/người/tháng thì được coi là hộ nghèo. Như vậy với
chuẩn nghèo như hiện nay làm cho số hộ nghèo của xã tăng vọt lên, vì thu nhập

của người dân không thể đáp ứng đủ mức đó.
Với điều tra của xã thì hiện nay những hộ nghèo họ đang còn phải sống
trong những ngôi nhà tranh tạm bợ, không thể chống chọi với thiên tai, cái
15
nghèo đang ngày càng đe dọa cuộc sống của họ, dân cư rất lo lắng cho sự tồn tại
của gia đình mình.
Bảng 2 : Tỉ lệ lao động thiếu việc làm năm 2011 của xã
Tổng số hộ
Tổng lao động trong
độ tuổi (người)
Lao động thiếu
việc làm (người)
Tỉ lệ
1000 4000 500 12,5%
Tỉ lệ lao động thiếu việc làm cũng là một trong những chỉ tiêu thể hiện
tình trạng nghèo đói. Hiện nay số lao động thiếu việc làm của xã là 500 người
trong tổng số 4000 người chiếm 12,5 %. Đây cũng là một tỉ lệ khá cao thể hiện
tỉ lệ người không có việc làm thường xuyên. Số người này không có thu nhập
thường xuyên, không tạo ra sản phẩm cho xã hội. Vì thế cũng làm gia tăng tỉ lệ
đói nghèo và cũng là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh tệ nạn xã hội.
Trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế đã phát triển, mọi mặt đời sống
người đã được cải thiện mà mức mức thu nhập bình quân đầu người của người
dân/tháng nhưng xã vẫn có tới 200 hộ nghèo đói, thu nhập người/tháng dưới
400.000đồng theo mức chuẩn nghèo giai đoạn 2011 – 2015.
Theo báo cáo kết quả khảo sát hộ nghèo theo tiêu chuẩn mới năm 2011-
2015 các hộ nghèo trên xã Nghĩa Xuân có các đặc điểm sau:
- Tổng số hộ nghèo : 200 hộ trong đó bao gồm:
- Nghèo thuộc diện chính sách người có công.
- Nghèo thuộc diện chính sách xã hội.
- Nghèo do ốm đau bệnh tật

- Nghèo do neo đơn
16
Ta có thể thấy rằng với một xã nông thôn mà chỉ báo nghèo đói như
vậy cho thấy đời sống của người dân chưa được đảm bảo và nhu cầu bức thiết
của họ là cải thiện điều kiện sống.
2.2 Những yếu tố tác động đến tình hình nghèo đói tại xã Nghĩa Xuân.
Với tình trạng đói nghèo của xã như trên , vậy nguyên nhân của vấn đề là
do đâu ? Nghèo đói là hậu quả nhiều nguyên nhân tạo nên. Nhìn chung sự
nghèo đói của người dân trên địa bàn xã Nghĩa Xuân cũng nằm trong những
nguyên nhân chung của tình trạng đói nghèo trong cả nước bao gồm nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
- Yếu tố khách quan :
+, Do điều kiện tự nhiên – xã hội của xã nằm ở khu vực đất đai khô cằn,
kém màu mỡ, chỉ có thể trồng được độc canh cây lúa, còn hoa màu thì không
trồng được, năng suất cây trồng và vật nuôi đều thấp. Mặt khác hàng năm còn
phải hứng chịu thiên tai vào tháng 8 tháng 9, mưa to, bão lớn gây thất bát mùa
màng. Điển hình là trận bão lụt năm 2010 đã cướp đi tài sản và tính mạng của
con người, làm cho họ đã nghèo lại càng nghèo hơn. Về mặt thời tiết khí hậu
cũng khắc nghiệt, gió lào, hạn hán. Kết hợp với các yếu tố xã hội như phong tục
tập quán lạc hậu,chủ yếu là dân tộc sinh sống, trong xã số người thất nghiệp cao
bên cạnh không tạo ra được nguồn thu nhập mà lại làm phát sinh nhiều tệ nạn xã
hội kìm hãm sự phát triển của xã. Do không có điều kiện tiếp cận được các
nguồn lực như tín dụng, khoa học kỹ thuật và công nghệ, thị trường làm cho
cuộc sống của họ lạc hậu, khó phát triển, kinh tế chủ yếu là tự cấp,tự túc.
+, Những tác động của chính sách vĩ mô, chính sách cải cách và các cơ
chế cũng là những nguyên nhân dẫn tới đói nghèo. Hệ thống cơ chế chính sách
chậm đổi mới và thiếu đồng bộ.
+, Bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ và trẻ
em, sự bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng đói nghèo trên tất cả các
17

mặt. Phụ nữ ít có cơ hội để học hỏi cũng như tham gia các phong trào của xã
hội, tiếp cận với khoa học
+, Trong sản xuất trồng trọt, khó khăn lớn nhất là hệ thống kênh mương
chưa phát triển nên không đủ nước tưới cho cây lúa. Kết hợp với sự thiếu nước
vào mùa khô của sông ngòi.Cả xã chỉ có 2 trạm bơm còn tạm bợ, hư hỏng nhiều
nên tác động trực tiếp đến việc giảm sản lượng năng suất cây trồng.
+, Vấn đề cơ sở hạ tầng ( giao thông, điện, trường học, y tế, chợ ) vẫn
còn kém phát triển. Tuy có những chính sách của Nhà nước để phát triển cơ sở
hạ tầng ở xã nhưng nhìn chung chỉ cải thiện được con số nhỏ. Điều này cản trở
sự phát triển của xã, hạn chế sự giao lưu từ ngoài vào cũng như từ trong xã ra
bên ngoài, người dân lại cứ luẩn quẩn trong lũy tre làng.
+Nghĩa Xuân là mảnh đất chủ yếu là đồi núi bao quanh,cụng chịu ảnh
hưởng từ những cuộc chiến tranh vì vậy hậu quả mà nó để lại đến tận ngày nay
vẫn đang còn rất lớn. Trong xã số người bị nhiễm chất độc màu da cam, thương
binh, bệnh binh chiếm số lượng rất nhiều (205 người). Đây là nhóm dân cư bị
thiệt thòi, không thế làm kinh tế để nuôi sống bản thân, chỉ có những đồng tiền
trợ cấp ít ỏi của nhà nước. Vì thế họ dễ rơi vào tình cảnh nghèo đói.
- Yếu tố chủ quan:
+ Hầu hết những người nghèo trên xã Nghĩa Xuân đều có trình độ học vấn
thấp nên hạn chế khả năng tìm việc làm tốt,chủ yếu tìm việc trong các khu vực
khác. Ngoài ra học vấn thấp còn cản trở việc tiếp cận cũng như ứng dụng khoa
học, kỹ thuật vào trong sản xuất. Trên địa bàn xã, tỉ lệ các thành viên trong
những hộ nghèo chủ yêu chỉ học hết cấp 1 là nghỉ.
+Các hộ nghèo trên địa bàn xã chủ yếu có từ 3 – 5 người con trong gia
đình, do con đông nên việc mưu sinh cho cả nhà lại càng khó khăn, trong khi đó
tỉ lệ thất nghiệp trong xã còn cao, việc các con kiếm tiền cho gia đình còn rất
hạn chế.
18
+ Dịch bệnh hàng năm, sức khỏe yếu : Hàng năm do điều kiện thiên nhiên
mang đến như khí hậu khắc nghiệt, bão lũ đã kéo theo nhiều dịch bệnh gây

hại cho sức khỏe con người nơi đây như đậu mùa, sốt rét, phát bang làm cho
sức khỏe của con người yếu đi và nghiêm trọng cả tới tính mạng.
+ Do họ không có vốn để đầu tư vào một lĩnh vực nào đó như buôn
bán Họ chỉ có tiền bằng việc bán lúa của hai vụ lúa trong năm. Khoản tiền đó
chỉ đủ chi tiêu cho sinh hoạt hàng ngày, nhưng khi mất mùa thì người dân sẽ
không có khoản tiền đó để trang trải.
2.3. Những hậu quả của nghèo đói để lại tại xã Nghĩa Xuân.
Có thể thấy được rằng nghèo đói để lại hậu quả rất nghiêm trọng không
những cho riêng mỗi gia đình nghèo mà nó còn tác động mạnh tới mỗi huyện,
tỉnh, thành và cả quốc gia. Nó ảnh hưởng tới sức khỏe, kinh tế, giáo dục của
người dân, từ đó kìm hãm sự phát triển của toàn xã hội. Một đất nước muốn phát
triển để sánh vai với các quốc gia khác thì đất nước đó phải mạnh cả về kinh tế,
xã hội, an sinh của người dân được đảm bảo. Với Việt Nam ta thì dân cư chủ
yếu sống bằng nghề nông, tình trạng nghèo đói vẫn chiếm tỉ trọng lớn, vì thế
nước ta đang dừng lại ở một nước đang phát triển. Như thế chúng ta thấy được
rằng nghèo đói để lại hậu quả rất nghiêm trọng cho sự phát triển của mỗi cá
nhân, gia đình và toàn xã hội.
2.3.1 Đối với cá nhân, gia đình
- Sức khỏe và y tế :
Những người nghèo họ thường thờ ơ với sức khỏe của mình, đối với họ
tiền kiếm được để trang trải cho bữa ăn hàng ngày, chi tiêu trong gia đình. Họ
không bao giờ đi kiểm tra sức khỏe định kỳ, khi bệnh nặng mới chịu chữa trị thì
lúc đó lại nguy hiểm đến tính mạng, điều kiện dinh dưỡng thấp, sức khỏe kém.
Đặc biệt sức khỏe phụ nữ và trẻ em gắn liền với sự thiếu thông tin và hiểu
biết, thiếu nguồn lực và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế hữu hiệu. Đối với những
19
người nghèo sự tiếp cận được với các thông tin rất hạn chế bởi vì họ thiếu các
phương tiện thông tin đại chúng như tivi, đài
Với thời đại ngày nay việc khám chữa bệnh chi phí cao hơn nhiều nên để
những người nghèo đi khám chữa bệnh thường xuyên là rất ít, đối với họ giảm

được phần nào thì càng tốt, khi nào bệnh nặng đi khám luôn , và thế là mạng
sống lại bị đe dọa.
Đã nghèo thì việc ăn uống sẽ không được đảm bảo đủ dinh dưỡng mà chỉ
dừng lại là có ăn cho no. Chính vì vậy không đủ dinh dưỡng để chống chọi lại
bệnh tật, sinh ra ốm, mà lúc đó lại phải lo chi phí cho đi khám . Như thế cái
nghèo lại càng đeo bám họ. Trên xã hàng năm có hàng chục người chết cả người
lớn lẫn trẻ em do không được kiểm tra sức khỏe định kỳ nên không phát hiện
được bệnh sớm thường ở giai đoạn cuối của bệnh mới đi khám.
- Giáo dục :
Khi nền kinh tế của gia đình không được đảm bảo thì việc học tập của các
thành viên trong gia đình cũng như vậy. Họ là những người trình độ thấp do
không được học tập hay học không đến nới đến chốn. Hiện nay chúng ta đều
biết được rằng việc học được đưa lên hàng đầu, và nó được đầu tư rất lớn.
Nhưng với những hộ nghèo thì cái nghèo đã hạn chế đi điều này. Họ không đủ
tiền, điều kiện để đi học cao hơn như những người khác vì bữa cơm hàng ngày
cũng rất quan trọng đối với họ. Và khi nhu cầu ăn uống được đảm bảo thì họ
mới nghĩ đến nhu cầu học tập.
- Hạn chế sự tiếp cận khoa học kỹ thuật tiên tiến của những người nghèo.
Người nghèo họ không có cơ hội để học hỏi và tiếp thu những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật vì trình độ, hoàn cảnh của họ đã kìm hãm sự giao lưu tiếp xúc
của họ ra bên ngoài, nên việc tiếp cận các tiến bộ của xã hội rất hạn chế .
20
2.3.2 Đối với xã hội
Hậu quả của nghèo đói không chỉ dừng lại ở những gia đình nghèo mà
còn tác động mạnh mẽ tới toàn xã hội. Gia đình là tế bào của xã hội , chính vì
vậy khi một gia đình rơi vào tình trạng nghèo đói thì nó xã hội cũng sẽ ảnh
hưởng theo chiều hướng xấu. Khi đất nước đang còn nhiều những người nghèo
thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của đất nước. Nhà nước phải huy động vốn để tài
trợ cho người nghèo, rồi các chính sách giảm nghèo Khi thực hiện những hoạt
động này ngân sách của nhà nước sẽ giảm đi, sự phát triển của đất nước sẽ hạn

chế.
Ngoài ra tình trạng nghèo còn gây ra sự mất trật tự xã hội hội khi mà số
lượng người dân không có việc làm tăng cao, đẫn đến các tệ nạn xã hội, nảy sinh
nhiều vấn đề tiêu cực tác động xấu tới sự phát triển xã hội.
Như vậy với tình trạng nghèo đói vẫn đang tồn tại khá nhiều ở riêng xã
Nghĩa Xuân nói riêng và trên cả nước nói chung đã kìm hãm sự phát triển của xã
hội. Đó là nhiều nguồn ngân sách của nhà nước phải trợ cấp cho người nghèo,
rồi các tệ nạn xã hội gây nhức nhối cho cả xã hội. Tình trạng nghèo đói nó gây
ra hậu quả rất nghiêm trọng cho chính những người nghèo và kéo theo cả sự
phát triển của toàn xã hội
Chương III: Công tác xóa đói giảm nghèo của xã Nghĩa Xuân
3.1. Sự cần thiết phải thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo tại xã
Nghĩa Xuân.
- Từ thực trạng nghèo đói của cả xã thì ta thấy được rằng nền kinh tế
của xã vẫn đang còn thấp, hộ nghèo trong xã còn khá cao.
- Nghèo đói và bệnh tật luôn rình rập những người nghèo khổ khi mà
bản thân họ không đáp ứng được các nhu cầu tối thiểu thì khả năng chống đỡ
với rủi ro là rất khó
Do vậy xóa đói giảm nghèo là một yêu cầu bức thiết .
21
- Thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo cũng chính là thực hiện mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhằm nâng cao đời sống tinh thần
cho người dân đồng thời ổn định mọi mặt nền kinh tế - xã hội của xã nhà
- Nghèo đói tăng nhanh sẽ cản trở đến sự phát triển của xã hội , sự an
ninh an toàn về cuộc sống người dân. Con người mất dần vị trí, vai trò trong xã
hội, trật tư an ninh xã hội cũng bị đe dọa .
- Từ những phân tích trên ta thấy thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo là một yêu cầu của xã nhà đồng thời là nguyện vọng là mong muốn của
người dân
3.2Thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo của xã

* Công tác chỉ đạo
Thành lập ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo gồm 1 chủ tịch là trưởng ban,
1 phó chủ tịch và bí thư là phó ban và bao gồm các đại diện của các hội phụ nữ,
thanh niên, mặt trận tổ quốc, hội nông dân
- Ban chỉ đạo hoạt động dưới sự điều hành của chủ tịch ( trưởng ban)
- Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo của xã phối hợp với 12 trưởng xóm
triển khai đầy đủ các văn bản, chính sách chương trình xóa đói giảm nghèo của
nhà nước tới người dân
- Tại 12 xóm ban cán sự phối hợp với các trưởng đầu ngành như hội
nông dân, đoàn, phụ nữ cùng xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình xóa đói
giảm nghèo cho xóm mình trên cơ sở chỉ đạo chung của xã.
- Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo xã đã chủ động xây dựng đề án giải
quyết việc làm, xuất khẩu lao động, đào tạo nghề, tạo việc làm mới, đề ra các
chính sách, có kế hoạc thu hút dự án nhằm hỗ trợ chính sách, có kế hoạch thu
hút các dự án nhằm hỗ trợ người nghèo
22
* Các chính sách hỗ trợ người nghèo:
- Chính sách hỗ trợ người nghèo trong giáo dục đào tạo: thực hiện chính
sách này con em của các hộ nghèo đi học được miễn, giảm học phí và các khoản
đóng góp khác.
- Chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế: Trong những năm qua trạm xá
của xã đã thực hiện tốt chính sách khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe miễn
phí cho người nghèo, tạo mọi điều kiện để người nghèo được khám bệnh và điều
trị khi ốm đau. Ngoài ra người nghèo còn được cấp bảo hiểm miễn giảm trong
khám chữa bệnh.
- Chính sách cho người nghèo vay vốn để làm ăn, phát triển kinh tế : Các
hộ nghèo được vay vốn với lãi suất thấp (0,5 %) và các nguồn vay khác của nhà
nước
* Các dự án :
- Dự án giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động : Xã đã phối hợp với các

công ty xuất khẩu lao động để tạo điều kiện việc làm cho người nghèo với chi
phí thấp hơn.Mỗi người được hỗ trợ vay vốn từ 20 – 30 triệu/ người. Trong
nhiều năm qua trên cả xã đã có rất nhiều người dân đi xuất khẩu lao động ở các
nước khác mà điển hình là Malaixia, Hàn quốc, Tiệp khắc. Với việc đi xuất khẩu
lao động cuộc sống của những người nghèo đã được cải thiện đáng kể .
- Dự án nước sạch : Nhà máy nước sạch của xã đã được khởi công xây
dựng đầu năm 2012, cung cấp nước sạch cho 9 xóm phục vụ cho việc ăn uống
và sinh hoạt hàng ngày. Khi nhà máy nước sạch đi vào hoạt động nhu cầu nước
cho sinh hoạt của người dân được đảm bảo, góp phần cải thiện cuộc sống cho
người dân trong xã.
- Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng : hiện nay cơ sở hạ tầng của xã đang được
nâng cấp và cải thiện bao gồm điện đường, trường trạm, các tuyến đường liên
thôn, liên xóm, xây dựng và phát triển các trung tâm y tế. Tất cả các tuyến
23
đường của các xóm có hộ dân sinh sống đều có điện đường, hệ thống trường học
từ mầm non tới trung học cơ sở được nâng cấp và đầy đủ các phương tiện dạy
học. Trạm y tế của xã được đầu tư xây dựng và các thiết bị y tế hiện đại hơn.
Mặt khác dự án xây dựng kênh mương thoát nước cho cả xã được triển khai thực
hiện góp phần cải thiện những khó khăn trong sản xuất cho người dân.
3.3 Những kết quả cụ thể đạt được
- Với việc cho người nghèo vay vốn làm ăn các hộ gia đình nghèo đã có
thêm điều kiện làm ăn đầu tư các loại giống cây, giống con, mua sắm máy móc,
phương tiện phục vụ sản xuất chăn nuôi góp phần quán triệt tỉ lệ nghèo đói trên
địa bàn.
+ Trên cả xã có 30 hộ nghèo đầu tư vào phát triển VAC ( trồng lúa – nuôi
cá – nuôi vịt, lợn)
+ 25 hộ được hỗ trợ về giống nuôi ( trâu, bò ) và các giống hoa màu khác
như các giống lúa mới cho năng suất cao hơn.
- Những người nghèo được vay vốn đi xuất khẩu kiếm được thu nhập khá
cao, mỗi tháng từ 8 triệu đồng trở lên, có những người vừa kiếm tiền cho gia

đình trang trải cuộc sống và từ đó đưa gia đình mình đi từ hộ nghèo lên thành hộ
khá của xã.
- Con em của hộ nghèo đa số là được tới trường, được học tập vui chơi
với sự trợ giúp về học phí, sách vở
- Sức khỏe của người dân được quan tâm và đảm bảo hơn thông qua dịch
vụ khám chữa bệnh miễn phí của xã giành cho những hộ nghèo.
24
3.4 Một số giải pháp giúp giảm tình trạng nghèo đói tại xã Nghĩa
Xuân
3.4.1 Nâng cao nhận thức và năng lực cho người dân qua việc thiết
lập mô hình cung cấp thông tin 2 chiều
- Chúng ta biết rằng nguyên nhân nghèo đói của người dân là do nguồn
lực, thiếu cơ hội tiếp cận với các thị trường và các dịch vụ. Do vậy cần nâng cao
nhận thức cho người dân về công tác xóa đói giảm nghèo qua việc thiết lập mô
hình cung cấp thông tin 2 chiều cho người nông dân. Vì vậy xã và 12 xóm phải
thường xuyên trao đổi, cung cấp thông tin cho người dân trên phát thanh của xã
và xóm. Và ngược lại người dân phải thường xuyên có những ý kiến, những đề
nghị đóng góp cho xã để công tác xóa đói giảm nghèo đạt hiệu quả hơn.
- Phổ biến các chính sách của Đảng và nhà nước về công tác xóa đói giảm
nghèo, cán bộ khuyến nông của xã kết hợp với xóm tổ chức các buổi tập huấn,
trao đổi kinh nghiệm, nâng cấp kiến thức cho người dân về công tác chăn nuôi
trồng trọt
3.4.2 Giải pháp về cho vay vốn
Cần tập trung giải quyết vốn vay cho người nghèo một cách thỏa đáng
nhằm giúp các hộ đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, cải thiện đời
sống.
Nhà nước cần có chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, hình thức vay
trả góp đối với người nghèo. Những người nghèo cần có vốn để đầu tư vào các
trang tại chăn nuôi, mua giống vật nuôi cây trồng và hỗ trợ vào sinh hoạt hàng
ngày cho các thành viên trong gia đình. Cần trực tiếp giám sát xem họ sử dụng

nguồn vốn thế nào có đúng mục đích không, giám sát cách mà họ đầu tư nguồn
vốn vào các phương thức làm ăn ra sao ? Đồng thời trực tiếp hướng dẫn họ kinh
nghiệm làm ăn, nuôi trồng, sản xuất
25

×