Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

tiểu luận kinh tế vĩ mô chính sách kích cầu cảu việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 61 trang )

2009

GVHD: GS – TS NGUYỄN VĂN LUÂN
Nhóm Wall.E
12/28/2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ - LUẬT


BÀI TIỂU LUẬN BỘ MÔN KINH TẾ VĨ MÔ











Giáo viên hướng dẫn Nhóm sinh viên thực hiện:
P.GS TS. NGUYỄN VĂN LUÂN 1. Lê Ngọc Hạnh
2. Phan Nữ Quỳnh Mơ
3. Đoàn Quốc Huy
4. Lã Văn Thọ
TP. Hồ Chí Minh – 12 /2009
CHÍNH SÁCH KÍCH C


U C

A VI

T NAM

December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU


T


ĐHQG TP.HCM

2



MỤC LỤC

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lý thuyết về Khủng hoảng tài chính 4
1.2. Chính sách kích cầu 8
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH THỰC TIỄN
2.1. Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với nền kinh tế hiện nay 16
2.1.1. Ảnh hưởng đối với kinh tế thế giới 16
2.1.2. Tác động đối với nền kinh tế Việt Nam. 22
2.2. Chính sách kích cầu của các quốc gia 27
2.2.1. Chính sách kích cầu của một số quốc gia có tính tham khảo đối với Việt Nam
27
2.2.2. Chính sách kích cầu của Việt Nam 36
2.3. Tác động của chính sách kích cầu của Việt Nam đối với nền kinh tế 45
2.3.1. Tác động của gói kích cầu trong ngắn hạn. 45
2.3.2. Tác động gói kích cầu trong dài hạn. 46
2.3.3. Mặt trái của quá trình kích cầu 53
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG - BIỆN PHÁP
3.1. Đối với thị trường tài chính 56
3.2. Chi tiêu đầu tư của chính phủ 56

3.3. Đối với thị trường xuất khẩu 57
3.4. Đối với giải pháp an sinh xã hội 58
3.5. Đối với thị trường nội địa 58


December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU


T


ĐHQG TP.HCM

3



LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta biết đến kinh tế học là một môn nghiên cứu những lữa chọn của cá nhân và xã
hội về cách thức sử dụng các nguồn tài nguyên có giới hạn. Kinh tế học nghiên cứu các
hiện tượng kinh tế trên hai góc độ: Một là góc độ bộ phận gia đình, hai là góc độ toàn bộ
nền kinh tế . Cách tiếp cận thứ hai đã dẫn tới việc hình thành môn kinh tế vĩ mô. Như vậy
có thể xác định đối tượng nghiên cứu của kinh tế vĩ mô là nền kinh tế và sự hoạt động của
nền kinh tế. Nhiệm vụ của của nó là phối hợp với các môn khoa học khác của khoa học
kinh tế giúp cho người học hiểu được sự hoạt động của nền kinh tế, xác định được các
vấn đề của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn, hiểu được nguyên nhân và hậu quả của mỗi
vấn đề, đề xuất được giải pháp cho mỗi vấn đề đó.
Vừa qua cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mĩ đã nhanh chóng lan ra toàn cầu, gây
ra những hậu quả hết sức to lớn đối với nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế Việt Nam cũng
không nằm ngoài khu vực bị ảnh hưởng, nhất là khi mà chúng ta đã trở thành thành viên
thứ 150 của WTO. Khủng hoảng đã có những ảnh hưởng tới nhiều mặt của đời sống xã
hôi, và các nhà kinh tế học trên thế giới, chính phủ các nước nói riêng cũng như chính
phủ Việt Nam nói riêng cũng đã làm hết sức để đưa nền kinh tế của quốc gia mình thoát
khỏi khủng hoảng. Đối với sinh viên, họ chính là chủ nhân tương lai của đất nước, là tầng
lớp trẻ củ xã hội thì cuộc khủng hoảng vừa qua là cơ hội để sinh viên có được mối liên hệ
giữa thực tế với kiến thức được học.
Là những sinh viên đang theo học khối ngành kinh tế tại Khoa kinh tế ĐHQG. TP Hồ
Chí Minh, với niềm đam mê môn học kinh tế vĩ mô, và mong muốn được tìm hiểu, mong

muốn được vận dụng những kiến thức đã được học để đi sâu tìm hiểu vấn đề, tất cả
những điều đó đã thối thúc chúng em thực hiện đề tài: “Chính sách kích cầu của Việt
Nam”.
December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T



ĐHQG TP.HCM

4



CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LY LUA ̣N
1.1. Lý thuyết về Khủng hoảng tài chính
1.1.1. Khái niệm về tài chính.
Tài chính (finance) hiểu theo nghĩa rộng là sự luân chuyển các luồng (dòng) vốn
(tiền và giống như tiền). Trên con đường luân chuyển đó hình thành vô số các quỹ (nhà
nước, doanh nghiệp, trung gian tài chính và tổ chức, gia đình, cá nhân) hay nói cách khác
dòng luân chuyển đó là tập hợp của vô số quỹ với các mối quan hệ chằng chịt giữa các
quỹ này tạo nên một hệ thống tài chính.
Vậy ta có thể định nghĩa: Tài chính là tập hợp các quỹ tiền (giống như tiền) cùng
các mối quan hệ giữa chúng. Nếu nằm trong khu vực quốc gia thì hình thành hệ thống
tài chính quốc gia (national finance) và trên phạm vi khu vực hay toàn cầu thì thì hình
thành hệ thống tài chính quốc tế (international finance).
1.1.2. Khái niệm khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính là tình trạng tài chính mất cân đối nghiêm trọng có thể dẫn
đến sụp đổ. Nó chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong việc
đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình.
Khủng hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá nguồn cung, nhu cầu về
tiền mặt của người dân hay các nhà đầu tư nước ngoài đã gây sức ép cho hệ thống ngân
hàng và thị trường tài chính khiến cho hệ thống ngân hàng và tài chính có thể sụp đổ.
Trong nền kinh tế thế giới hiện đại, sự lây lan của khủng hoảng tài chính luôn đi kèm với
tình trạng nền kinh tế bị suy thoái bị kéo dài. Chính vì vậy khủng hoảng tài chính mang
đặc điểm của khủng hoảng “thiếu” chứ không giống khủng hoảng “thừa” diễn ra trong
nền kinh tế từ nhiều năm qua.

December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM


5



1.1.3. Dấu hiệu và một số dạng của khủng hoảng tài chính
a. Một số dấu hiệu của khủng hoảng tài chính
- Các Ngân hàng trung ương (NHTW) không hoàn trả được các khoản tiền gửi
của người gửi tiền.
- Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể
hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
- Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
Theo quy luật của sự phát triển, khi lên đến điểm phát triển cực đại chịu tác động mạnh
mẻ của nền kinh tế chính trị xã hội thì nền kinh tế đó sẽ chuyển sang thời kỳ đi xuống suy
thoái khủng hoảng.
b. Một số dạng khủng hoảng đặc thù
- Khủng hoảng ngân hàng (Banking Crisis)
Rất hay gặp do ngân hàng là trung gian tài chính nhận tiền gửi của các thể nhân và pháp
nhân để cho vay lại nen rủi ro rất lớn cả về mặt số lượng, thời hạn cũng như chủng loại
tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng do cho vay quá mức và không thu hồi lại
được dẫn đến tỷ lệ nợ quá cao làm cho ngân hàng không thể thanh toán các nghĩa vụ khi
đến hạn.
- Khủng hoảng nợ quốc gia (National Debt Crisis)
Trường hợp một quốc gia vay nợ nước ngoài quá nhiều và sử dụng không hiệu quả nên
không trả được nợ đúng hạn, lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xóa nợ,
thậm chí phải tuyên bố vỡ nợ (VD: CHDCND Triều Tiên).
- Khủng hoảng tiền tệ (Monnetary Crisis)
Hiện tượng không đủ ngoại tệ để thanh toán các nghĩa vụ đến hạn đáp ứng nhu cầu (cả
thực tế và giả tạo do đầu cơ) buộc chính phủ phải dùng quỹ dự trữ ngoại tệ đề duy trì tỷ
gia hối đoái hoặc phá giá nội tệ làm cho nội tệ mất uy tín nhanh chóng.
- Khủng hoảng thị trường chứng khoán (Crisis of Security Market)

Với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán rất nhạy cảm và
phức tạp nên cũng rất dễ đổ vỡ. Khủng hoảng thị trường chứng khoán xảy ra khi giá
December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T



ĐHQG TP.HCM

6



chứng khoán biến động mạnh (tuột dốc/ leo thang quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do
hiệu ứng “ bầy đàn” làm cho chứng khoán bị “ bán đổ bán tháo” hoặc thị trường bị đông
cứng vì không có giao dịch tạo ra sự mất cân đối giữa tiền (chứng khoán) vào/ra thị
trường chứng khoán.
- Khủng hoảng cán cân thanh toán/ cán cân vãng lai/cán cân vốn.
Cán cân thanh toán/ cán cân vãng lai/cán cân vốn(còn được gọi là tài khoản) là cấu thành
quan trọng nhất của tài khoản quốc gia. Khủng hoảng xảy ra khi cán cân này thâm hụt
quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù đắp. Khủng hoảng cán cân vãng lai
thường xảy ra khi cán cân thương mại (nhập khẩu-xuất khẩu) bị thâm hụt và khủng hoảng
cán cân thanh toán khi tổng các luồng ngoại tệ ra lớn hơn luồng ngoại tệ vào.
- Khủng hoảng khả năng/tính thanh khoản (Crisis of Liquidity)
Nếu các loại khủng hoảng tài chính ở trên liên quan tới cả 3 mặt số lượng, thời gian và
chủng loại của tiền, thì khủng hoảng tính thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên quan
tới thời hạn và chủng loại của giống tiền và một số loại tài sản đặc thù.
- Khủng hoảng ngân sách (Budget Crisis)
Ngân sách nhà nước thâm hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn bù đắp thâm hụt (in
tiền, vay nợ trong và ngoài nước) bị hạn chế hay/và không thể bị lạm dụng hơn nữa nếu
muốn tránh hậu quả tai hại hơn như vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát.
1.1.4. Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Có thể kể khái quát 1 số nguyên nhân sau:
- Giá hàng hóa leo thang: Khi giá hàng hóa leo thang một cách chóng mặt, đặc
biệt là giá vàng và giá dầu sẽ khiến cho khủng hoảng tài chính dễ dàng xảy ra.
- Các ngân hàng trên thế giới đồng loạt thua lỗ: Các ngân hàng và các định chế
tài chính có thể thua lỗ hàng tỉ đôla Mỹ từ cuộc khủng hoảng tín dụng do khủng

hoảng nợ phế chuẩn cho vay cầm cố. Do đó các ngân hàng sẽ thực hiện các
chính sách thắt chặt việc cho vay.
December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T



ĐHQG TP.HCM

7



- Thị trường tín dụng bị đóng băng: Các khoản vay thế chấp đã giảm hẳn trong
năm 2008, trong đó khoản vay thế chấp thương mại hoàn toàn bị biến mất trên
biểu đồ.
- Thị trường địa ốc sụp đổ: Thị trường nhà ở của Mỹ phát triển thành bong bóng
từ năm 2001, người Mỹ đồng loạt đi vay tiền mua nhà ở cho dù năm 2004 –
2005 lãi suất các khoản vay đã được đẩy lên cao, khi tình hình kinh tế khó khăn
thì giá nhà hạ xuống mạnh, từ cuối năm 2008 bong bóng nhà ở bắt đầu xẹp hơi,
khiến nền kinh tế chao đảo.
Hiện nay, nguyên nhân chủ yếu gây ra khủng hoảng tài chính toàn cầu là các vấn đề liên
quan đến thị trường nhà ở địa ốc, thêm vào đó, tình trạng hoản loạn trên thị trường tài
chính thế giới cũng là nguyên nhân quan trọng khiến giá cổ phiếu giảm mạnh và thị
trường tín dụng bị thu hẹp. Nói cách khác có thể thấy cuộc khủng hoản tài chính toàn cầu
hiện nay là do tỷ lệ cấp vốn vào thị trường so với GDP vượt quá giá trị có thể đảm bảo
một sự phát triển ổn định trong tương lai.
1.1.5. Phương thức chung giải quyết một cuộc khủng hoảng tài chính.
Trước hết, chúng ta phải giải toả được những hoảng sợ về thanh khoản, về tính lỏng bằng
hai chiến lược là cung cấp thanh khoản cho thị trường và thuyết phục các thành viên thị
trường rằng họ không cần phải ngay lập tức bán đi các tài sản của mình. Để thị trường
yên tâm thì cần có một cơ chế bảo hiểm tiền gửi hoạt động tốt.
Người đóng vai trò là cho vay cuối cùng là Ngân hàng trung ương sẽ cung cấp thanh
khoản cho thị trường và để thị trường tự phân bổ, điều tiết lượng thanh khoản đó. Khi đó,
công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp hữu hiệu giúp NHTW cho vay là nghiệp vụ thị trường
mở với các giao dịch mua bán lại tín phiếu Kho bạc do Chính phủ phát hành. Ngoài công
cụ chính sách tiền tệ gián tiếp là cho vay trên nghiệp vụ thị trường mở, cho vay trực tiếp

với lãi suất phạt.
December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM


8



NHTW ở tình thế rất khó khăn do phải bảo vệ tỷ giá trong khi thị trường cho rằng cuối
cùng thì việc bảo vệ tỷ giá không quan trọng bằng các mục tiêu vĩ mô và đến một lúc nào
đó thì đồng tiền sẽ giảm giá.
Giải quyết khủng hoảng thanh toán để hạn chế thiệt hại bằng cách: loại bỏ những điều
không chắc chắn của nhà đầu tư về tính trong sạch của các thể chế cá nhân. Thêm vào đó,
buộc các thể chế này phải xử lý những vấn đề về tài sản của mình như định giá thấp… và
bán cho cơ quan cơ cấu lại nợ của Chính phủ. Điều này làm tăng tính lỏng và giảm bớt
khó khăn cho người cho vay – ngân hàng. Tuy nhiên, để giải quyết khủng hoảng tài chính
triệt để thì cần phải ngăn chặn nó bằng cơ chế giám sát, thanh tra và các công cụ, kỹ thuật
thích hợp.
1.2. Lý thuyết về Chính sách kích cầu
1.2.1. Khái niệm
Chính sách kích cầu là một loạt các biện pháp kinh tế nhằm duy trì và gia tăng
tổng cầu của một nước thông qua sự can thiệp của Nhà nước.
1.2.2. Nguồn gốc và cơ sở của chính sách kích cầu
Chính sách kích cầu xuất phát từ học thuyết kinh tế của nhà kinh tế học nổi tiếng
người Anh John Maynard Keynes (1883-1946). Trong lý thuyết của mình, Keynes rất coi
trọng tổng cầu của nền kinh tế. Theo ông, nền kinh tế chịu tác động của hai nhân tố cơ
bản: Tổng cung, tức toàn bộ số hàng hóa bán trên thị trường và tổng cầu, tức toàn thể số
hàng hóa mà người ta muốn mua. Nhân tố trực tiếp quyết định mức sản lượng và việc làm
trong nền kinh tế không phải là tổng cung mà chính là tổng cầu. Tổng cung giữ vai trò thụ
động, nó chịu sự tác động của tổng cầu. Tổng cẩu phụ thuộc vào cac yếu tố: mức chi tiêu
cá nhân của mỗi gia đình, mức chi tiêu cho đầu tư, mức chi tiêu của chính phủ và chi tiêu
ròng của nước ngoài đối với hàng hóa sản xuất trong nước ( xuất khẩu ròng).
December 28, 2009


CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM

9




Theo Keynes, trong quá trình vận động của nền kinh tế, tổng cầu thường không
theo kịp so với tổng cung. Điều đó ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, thu hẹp đầu tư, gây
ra nạn thất nghiệp cũng như khủng hoảng kinh tế. Để giải quyết tình trạng này phải tăng
tổng cầu. Tổng cầu lớn hơn tổng cung sẽ làm gia tăng đầu tư. Do đó sẽ gia tăng việc làm
và gia tăng thu nhập. Cuối cùng sản lượng quốc gia cũng được gia tăng.
Đồng thời, Keynes cũng đề cao vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh
tế thông qua chính sách kich cầu của Chính phủ. Ông cho rằng để thoát khỏi khủng hoảng
và thất nghiệp cần có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế để tăng tổng cầu, gia tăng
việc làm và thu nhập. Sự can thiệp của Nhà nước thông qua các công cụ như chương trình
đầu tư Nhà nước; Chính sách tài chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ; Mở rộng việc làm
bằng cách mở rộng đầu tư thậm chí cả vào các ngành thuộc lĩnh vực quân sự; Khuyến
khích tiêu dùng cá nhân
Như vậy, có thể nói, chính sách kích cầu bắt nguồn từ tư tưởng kích cầu rút ra từ hai giả
thuyết quan trọng của học thuyết Keynes.
- Giả thuyết thứ nhất:
Cuộc suy thoái bắt nguồn từ nền kinh tế có năng lực sản xuất bị dư thừa. Biểu hiện của
tình trạng này là các yếu tố đầu vào cho sản xuất không được sử dụng hết công suất: thất
nghiệp trên thị trường lao động, máy móc bị bỏ bê trong khu vực doanh nghiệp, và hàng
hóa ế thừa.







AD


Mức
giá
S

n lư

ng

LAS

AS

Y
*

December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E


|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM

10



Hiện tượng dư cung này khiến cho các nhà sản xuất giảm giá để hy vọng bán được hàng
hóa. Điều này làm cho giá cả có khuynh hướng giảm trên tất cả các thị trường. Lúc này
những người tiêu dùng không còn nhu cầu sử dụng thêm vì họ đã thỏa mãn nhu cầu tiêu
dùng của họ nên dù có giảm giá hàng hóa cũng không khuyến khích người mua, và cầu
càng ở dưới xa cung thực tế.











- Giả thuyết thứ hai:
Chính phủ có khả năng chủ động chi tiêu toàn bộ, thậm chí nhiều hơn thu nhập của mình.
Trong khi đó, các khu vực không phải chính phủ (hộ gia đình và khu vực kinh tế tư nhân)
thường chi tiêu ít hơn tổng thu nhập vì họ muốn để dành (khuynh hướng tiết kiệm biên
lớn hơn 0). Trong điều kiện bình thường, khoản tiết kiệm được chuyển sang khu vực
doanh nghiệp để đầu tư (tạo nên thành phần của tổng cầu), nhưng trong thời kỳ suy thoái,
doanh nghiệp không muốn đầu tư thêm nữa vì không có khả năng lợi nhận.
Như vậy, qua giả thuyết thứ nhất, Keynes cho rằng nền kinh tế bị suy thoái vì tạm
thời không có đủ cầu cho cung đang dư thừa, tức là thiếu cầu hiệu lực. Vì thế để thoát
khỏi suy thoái thì cần có một lượng cầu đủ lớn.
Xuất phát từ giả thuyết thứ hai, Keynes cho rằng chỉ có chính phủ mới dám chi tiêu mạnh
tay khi nền kinh tế đang suy thoái.
Mức
giá
S

n lư

ng

AD

December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C


U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM

11




Trên cơ sở hai giả thuyết này, Keynes đề xuất tư tưởng kích cầu theo nguyên lý sau: Dịch
chuyển sức mua từ khu vực dân cư và tư nhân vào tay chính phủ để tăng cầu hiệu lực,
đưa nền kinh tế ra khỏi cái bẫy đình đốn do thiếu sức mua.









Ra đời trong giai đoạn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, học thuyết kinh
tế của Keynes đã chiếm một vị trí quan trọng trong kinh tế học hiện đại và có ảnh hưởng
sâu rộng trong chính sách kinh tề ở nhiều quốc gia trên thế giới cho đến hiện nay.
1.2.3. Mục đích của chính sách kích cầu
Mục tiêu của gói kích cầu là tại thêm cầu để đối ứng với năng lực sản xuất hiện tại
của nền kinh tế khi suy thoái, tránh để dư thừa năng lực sản xuất ở mức quá cao gây lãng
phí nguồn lực cũng như gây ra những vấn đề về xã hội do thất nghiệp tăng cao gây ra.
Nếu không nhanh chóng ngăn chặn, thất nghiệp sẽ tiến đến ngưỡng nguy hiểm đẩy suy
giảm kinh tế vào vòng xoáy luẩn quẩn: thất nghiệp sẽ dẫn đến cắt giảm thu nhập (thực tế
và kỳ vọng) làm giảm tiêu dùng, càng làm khó khăn về đầu ra của doanh nghiệp phải tiếp
tục cắt giảm sản xuất và lao động, đẩy thất nghiệp tăng lên ở vòng tiếp theo và cứ tiếp tục
như vậy. Do vậy mục đích lớn nhất của gói kích cầu là duy trì việc làm.

S
ản lượng
Giá c


AD

Y*

December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T



ĐHQG TP.HCM

12



1.2.4. Những nguyên tắc cơ bản để thực hiện chính sách kích cầu
Theo lý luận của nhà kinh tế học Lawrence Summers (giáo sư kinh tế, từng là hiệu
trưởng trường đại học Harvard, và cố vấn kinh tế cho tổng thống Mỹ Obama), một gói
kích cầu có hiệu quả phải đảm bảo ít nhất 3 tiêu chí.
- Nguyên tắc số 1 – Kích cầu phải kịp thời:
Kích cầu phải kịp thời có nghĩa là khi chính phủ thực hiện gói kích cầu thì những biện
pháp kích cầu này phải có hiệu ứng kích thích ngay, làm tăng chi tiêu ngay trong nền kinh
tế.
- Nguyên tắc số 2 – Kích cầu phải đúng đối tượng:
Mức độ “đúng đối tượng” của gói kích cầu của Chính phủ phụ thuộc vào:
 Mức độ chi tiêu của các đối tượng nhận được thu nhập nhờ có gói kích cầu thông
qua tác động lan tỏa diễn ra trong nhiều vòng.
 Mức độ “rò rỉ” ra hàng ngoại nhập của các chi tiêu đó ở trong mỗi vòng của tác
động lan tỏa.
Ở thế giới cũng như ở Việt Nam, những người có thu nhập thấp thường có mức tiêu dùng
cao trên 1 đồng thu nhập có thêm được và thường tiêu dùng hàng nội địa. Do vậy, nếu
kích cầu đúng nhóm đối tượng này thì đạt đồng thời cả hai mục tiêu là hiệu quả và công
bằng, khác với sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng mà trong kinh tế thường gặp.
- Nguyên tắc số 3 – Kích cầu chỉ được thực hiện trong ngắn hạn:
Nguyên tắc ngắn hạn có nghĩa là sẽ chấm dứt kích cầu khi nền kinh tế được cải thiện.
Nguyên tắc ngắn hạn có hai ý nghĩa:
 Gói kích cầu thực hiện trong ngắn hạn sẽ làm tăng hiệu quả gói kích cầu

 Chỉ kích cầu trong ngắn hạn để không làm ảnh hưởng tới tình hình ngân sách trong
dài hạn.
December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T



ĐHQG TP.HCM

13



1.2.5. Các biện pháp của Chính phủ để thực hiện chính sách kích cầu
Ngày nay, chính sách kích cầu ở các quốc gia thường được thực hiện thông qua
các biện pháp chủ yếu sau:
a. Chính sách tài khóa
Để duy trì tổng cầu, Nhà nước phải sử dụng ngân sách để kích thích đầu tư của tư
nhân và Nhà nước thông qua tăng chi tiêu của Chính phủ, các đơn đặt hàng của Nhà
nước Đầu tư tăng sẽ làm tăng tổng cầu, từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế.Tuy nhiên,
điều cần phải lưu ý là hiệu quả trong việc chi tiêu của Chính phủ.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần cải thiện hệ thống thuế khóa theo hướng khuyến khích
tiêu dùng của cá nhân. Để tăng thu nhập được quyền sử dụng của các tầng lớp dân cư thì
phải giảm các khoản thuế thu nhập và các khoản đóng góp khác. Đồng thời phải giảm các
khoản thuế gián thu nhằm giảm giá bán của hàng hóa, phù hợp với sức mua của người
dân. Các biện pháp này nếu được áp dụng đúng cách sẽ góp phần làm tăng khoản tiêu
dùng của cá nhân, từ đó làm tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, việc tăng chi tiêu của Chính phủ đồng thời giảm các khoản thuế tất yếu sẽ dẫn
đến thâm hụt ngân sách. Nhưng đây là thâm hụt chủ động của Chính phủ nhằm kích thích
tăng trưởng kinh tế để tạo nguồn thu nhập vững chắc trong tương lai.
b. Chính sách lưu thông tiền tệ, tín dụng ngân hàng
Để kích thích tổng cầu, Chính phủ nên dùng chính sách tiền tệ mở rộng nhằm giảm
lãi suất để kích thích đầu tư và tiêu dùng. Lãi suất hạ, nhà đầu tư sẽ có lợi và họ sẽ mở
rộng đầu tư, tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập gia tăng. Lãi suất thấp, người tiêu
dùng cũng sẽ mở rộng tiêu dùng vì việc tiêu dùng lúc này có lợi hơn là giữ tiền ở các tài
khoản tiết kiệm. Như vậy, cần phải thực hiện các giải pháp làm tăng khối lượng tiền
trong lưu thông như: hạ lãi suất chiết khấu, giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành thêm

tiền cho lưu thông để tăng thu nhập bằng tiền cho xã hội, tung thêm đồng nội tệ để mua
ngoại tệ Tất cả việc này sẽ làm lạm phát gia tăng, nhưng nó lại kích thích sản xuất tăng
trưởng, công ăn việc làm gia tăng, tiêu dùng gia tăng và nền kinh tế tăng trưởng theo.
December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T



ĐHQG TP.HCM

14



Vấn đề đật ra ở đây là xác định tỷ lệ lạm phát vừa phải, đừng để lạm phát tăng cao gây
tác động xấu đến đời sống kinh tế- xã hội.
c. Chính sách thương mại
Cải thiện cán cân thương mại theo hướng tăng xuất khẩu và giảm dần nhập khẩu.
Tăng xuất khẩu có tác động tăng công ăn việc làm, tăng thu nhập, tăng tiêu dùng và kinh
tế nội địa sẽ tăng trưởng. Đồng thời phải điều chỉnh tỉ giá hối đoái theo hướng khuyến
khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, bên cạnh đó cũng phải khuyến khích tiêu dùng hàng
nội địa.
1.2.6. Một số hạn chế của chính sách kích cầu
Có thể nói chính sách kích cầu của Chính phủ là một biện pháp khá hữu hiệu để
đưa nền kinh tế thoát khỏi giai đoạn trì trệ, khủng hoảng. Mặc dù vậy, chính sách kích
cầu cũng có một số hạn chế nhất định như sau:
Thứ nhất, chính sách kích cầu chỉ phát huy tác dụng khi sản lượng còn nằm dưới
mức sản lượng tiềm năng. Nếu sản lượng của nền kinh tế đã ở mức sản lượng tiềm năng
thì sự gia tăng chi tiêu của các bộ phận trong nền kinh tế không hề làm tăng thêm sản
lượng mà chỉ làm tăng giá, dẫn đến lạm phát cao gây ảnh hưởng xấu cho nền kinh tế.
Thứ hai, việc sử dụng chính sách tài khóa mở rộng để kích thích kinh tế cũng có
những hạn chế như: trong thực tế rất khó để tính toán việc gia tăng chi tiêu và giảm thuế
với liều lượng bao nhiêu là thích hợp; đồng thời, độ trễ của chính sách tài khóa là khá lớn
và phụ thuộc nhiều vào các yếu tố chính trị cũng như cơ cấu tổ chức của bộ máy.
Thứ ba, chính sách giảm lãi suất để khuyến khích đầu tư tỏ ra không hiệu quả
trong một số trường hợp, đặc biệt là trong điều kiện tự do di chuyển tư bản trên phạm vi
toàn cầu như hiện nay. Một khi có nước nào đó giảm lãi suất thì tức thời sẽ xảy ra hiện

tượng rút vốn đầu tư ở nước đó để di chuyển vào những nước có lãi suất cao hơn, nên làm
cho đầu tư trong nước không tăng mà lại sụt giảm và ngược lại.
December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T



ĐHQG TP.HCM

15



Thứ tư, chính sách tăng giá tạo ra lạm phát để giải quyết nạn thất nghiệp cũng
không thành công. Trong một số trường hợp, giá cả tăng song song với nạn thất nghiệp
cũng gia tăng (khủng hoảng kinh tế 1969- 1975 ở một loạt các nước tư bản chủ nghĩa).
























December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T



ĐHQG TP.HCM

16



CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH THỰC TIỄN
2.1. Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với nền kinh tế hiện nay
2.1.1. Ảnh hưởng đối với kinh tế thế giới
a. Nguyên nhân và bản chất cuộc khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng gần đây bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính ở Mỹ cuối năm
2007 và đó cũng là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu trầm trọng
nhất kể từ tám mươi năm qua. Được “châm ngòi” bằng hoạt động cho vay thế chấp dưới
chuẩn dễ dãi và thiếu kiểm soát ở Mĩ. Số lượng các khoản vay loại này phát triển bùng
nổ trong thời kỳ hình thành bong bóng trên thị trường địa ốc ở Mỹ, do người đi vay đặt
nhiều hy vọng vào việc mua nhà để bán kiếm lời, còn các ngân hàng thì nhận thấy những
khoản lợi nhuận quá béo bở. Tuy nhiên, điều đáng nói là rủi ro của hoạt động vay nợ này
không chỉ được giới hạn giữa người đi vay và các ngân hàng. Danh mục nợ này được các
ngân hàng thương mại bán lại cho các ngân hàng đầu tư, để rồi các ngân hàng đầu tư sử
dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitization) các khoản nợ địa ốc thành các loại
chứng khoán, bán cho các nhà đầu tư khăp thế giới. Khi giá nhà đất ở Mỹ đạt đỉnh và bắt
đầu sụt giảm, tỷ lệ nợ xấu và vỡ nợ tăng theo, kéo theo sự sụt giảm mạnh mẽ giá trị của
các loại chứng khoán MBS nói trên. Tới lúc này, tai nạn xuất hiện theo kiểu hiệu ứng
domino, từ người mua nhà, các ngân hàng thương mại, các ngân hàng đầu vỡ dây chuyền
trong ngành tài chính Mỹ ở thời kỳ đỉnh điểm giữa tháng 9/2008 đã lan qua Đại Tây
Dương, tới châu Âu, và gây ra những cơn “dư chấn” ở châu Á. Như vậy đây không chỉ là
cuộc khủng hoảng tài chính mà là một cuộc tổng khủng hoảng, trên tất cả các phương
diện tài chính, sản xuất, thương mại, dịch vụ tương đương với các cuộc Ðại suy thoái
1873 và 1929.
December 28, 2009


CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM

17




Về bản chất, đây là cuộc khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng của mô hình phát triển
theo chủ nghĩa tự do mới và cuối cùng, đó là khủng hoảng chu kỳ của chủ nghĩa tư bản
trên quy mô toàn cầu. Ðặc điểm của cuộc khủng hoảng lần này có những nét chung với
các cuộc đại suy thoái trước đây và cũng có những nét mới.
- Về đặc điểm chung, nó cũng bùng nổ từ chính trung tâm của chủ nghĩa tư bản,
cũng là sản xuất thừa và là kết quả của quá trình tập trung hóa tư bản, tài chính hóa
và đầu cơ…
- Các đặc điểm riêng là cuộc khủng hoảng lần này diễn ra trong bối cảnh phát triển
nền kinh tế tri thức, toàn cầu hóa với thương mại và đầu tư tài chính là trụ cột, sự
xuất hiện của các nền kinh tế mới nổi và đồng thời với khủng hoảng về năng
lượng, lương thực, sinh thái và biến đổi khí hậu. So với Ðại suy thoái 1929 - 1933,
cuộc khủng hoảng lần này diễn ra trong bối cảnh không còn Liên Xô và phong trào
cánh tả tại hầu hết các nước phương Tây đang bị suy yếu; mức độ ảnh hưởng chi
phối của Mỹ về tài chính, quân sự, thương mại đối với thế giới là rất lớn bởi trật tự
chính trị, kinh tế được hình thành sau Chiến tranh lạnh và thông qua quá trình toàn
cầu hóa.
b. Ảnh hưởng của khủng hoảng tới nền kinh tế các nước.
Thứ nhất: là tâm điểm của khủng hoảng, nước Mỹ là nơi diễn ra nhiều vụ đổ vỡ
nhất trong ngành tài chính - ngân hàng. Phải kể đến là sự “biến mất” của mô hình ngân
hàng đầu tư độc lập (investment bank) của Phố Wall. Cả 5 ngân hàng đầu tư độc lập của
con phố tài chính này đều trải qua những bước ngoặt số phận trong năm 2008: Lehman
Brothers phá sản, Bear Stearns và Merill Lynch bị thâu tóm, Morgan Stanley và Goldman
Sachs phải chuyển đổi sang mô hình ngân hàng tổng hợp (bank holding company). Tiếp
theo là hàng loạt vụ giải thể trong lĩnh vực ngân hàng thương mại của Mỹ. Tính tới ngày
15/12 vừa qua, số ngân hàng thương mại của Mỹ phải đóng cửa đã lên tới con số 25, so
với con số 3 ngân hàng bị ngưng hoạt động trong cả năm 2007. Trong số này, phải kể tới
những tên tuổi lớn như Washington Mutual, Wachovia,IndyMac…

December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM


18



Sự đổ vỡ của các ngân hàng ở Mỹ ảnh hưởng mạnh tới tâm lý của người dân không chỉ ở
nước này mà còn ở các quốc gia khác trên thế giới. Tốc độ khủng hoảng tài chính phố
Wall đã nhanh chóng lan rộng toàn cầu, và nó đã thực sự tác động đến nền kinh tế các
nước trên thế giới. Ba nền kinh tế lớn nhât thế giới đồng loạt suy thoái lần đầu tiên kể từ
Đại chiến Thế giới thứ hai, kinh tế toàn cầu giảm tốc mạnh. Cuộc khủng hoảng tài chính
tồi tệ nhất từ Đại khủng hoảng 1929 tới nay đã đẩy đồng loạt cả ba nền kinh tế lớn nhất
thế giới là Mỹ, Nhật Bản và khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) vào
suy thoái. Đây là lần đầu tiên, Mỹ, Nhật và châu Âu cùng suy thoái từ năm 1945 tới nay.
Khi khủng hoảng xảy ra, tính ổn định của nền hệ thống tài chính Mỹ bị phá vỡ, địa vị
chiếm lĩnh hệ thống tài chính phố Wall bị hạ thấp. Đối mặt với khủng hoảng mang tính
toàn cầu, khả năng Mỹ dẫn đầu thế giới bị giảm xuống, cần phải bắt tay “cứu trợ thế giới”
với các nước Châu Âu, Nhật Bản và thị trường mới nổi như Trung Quốc. Khủng hoảng
làm cho Mỹ thiếu hụt tài chính hàng tỷ đôla, và chịu hạn chế của ảnh hưởng kinh tế chính
trị. Người ta bắt đầu hoài nghi về kinh tế Mỹ dựa trên nền tảng là mô hình tự do thương
mại. Cuộc khủng hoảng này đã bộc lộ đầy đủ những tác hại do thị trường không chịu tiếp
nhận sự quản lý và những thiếu sót của hệ thống kinh tế. Để ngăn chặn sự lây lan của
cuộc khủng hoảng, chính sách kinh tế của chính phủ Mỹ là quay trở lại từ tự do thương
mại sang nền kinh tế có sự can thiệp của nhà nước. Hiện nay, tần suất và mức độ can
thiệp vào thị trường của chính phủ Mỹ so với cuộc đại suy thoái của những năm 30 là như
nhau. Điều này cho thấy sự nghi ngờ về những tác động của chủ nghĩa tư bản kiểu Mỹ, sự
hấp dẫn của mô hình tự do thương mại đã bị giảm sút.
Thứ hai: sự đổi hướng trong chính sách tiền tệ của các nước, xuất hiện những mức
lãi suất thấp chưa từng có trong lịch sử. Những biến động lớn chưa từng có trong nền
kinh tế buộc ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đi tới những thay đổi hiếm gặp
trong chính sách tiền tệ. Tựu chung, từ chủ trương thắt chặt tiền tệ để chống khủng
hoảng, thế giới đã chuyển sang nới lỏng mạnh mẽ chính sách này để chống khủng hoảng

và hỗ trợ tăng trưởng.
December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM


19



Với chuỗi cắt giảm lãi suất 10 lần kể từ tháng 9/2007 tới 12/2008, FED đã đưa lãi suất
đồng USD từ mức 5,25% về khoảng thấp chưa từng có trong lịch sử 0 – 0,25%. ECB,
ngân hàng trung ương với mục tiêu số một là chống lạm phát, cũng đã phải giảm mạnh lãi
suất đồng Euro về mức 2,5% sau khi khủng hoảng tấn công mạnh vào châu Âu. Nhật Bản
lần đầu tiên hạ lãi suất trong 7 năm trở lại đây, đưa lãi suất đồng Yên về mức 0,3%.
Trung Quốc cũng liên tục cắt giảm lãi suất đồng Nhân dân tệ. Thụy Sỹ trở thành quốc gia
đầu tiên tại châu Âu hiện nay có mức lãi suất dưới 1% khi mới đây đưa lãi suất đồng
Franc của mình về 0,5% Đáng chú ý, các quốc gia không chỉ tiến hành cắt giảm lãi suất
riêng lẻ, mà còn thực hiện những đợt phối hợp cắt giảm lãi suất toàn cầu, mà mở đầu là
đợt cắt giảm lãi suất hôm 8/10 do FED, ECB và Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) dẫn
đầu trong bối cảnh diễn biến khủng hoảng căng thẳng. Cùng với việc hạ lãi suất, các nước
cũng liên tục bơm tiền với khối lượng lớn vào hệ thống tài chính và nền kinh tế để tăng
cường tính thanh khoản cho thị trường.
Thứ ba, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế đang thúc đẩy việc điều chỉnh
tiêu dùng Mỹ nhiều năm qua. Trung Quốc và các thị trường mới nổi cũng đang điều
chỉnh phương thức tăng trưởng. Nhưng cục diện thay đổi kinh tế toàn cầu cũng cần các
nước như Ấn Độ, Nhật Bản, Đức mở rộng tiêu dùng cá nhân.
Thứ tư là việc cải cách lại hệ thống kinh tế thế giới. Khủng hoảng đã khiến cho
hệ thống tài chính phải cải tổ lại, tạo bước ngoặt cho việc cải cách trật tự tài chính quốc
tế. Hiển nhiên, trong tương lai, nếu việc cải cách trật tự tài chính thế giới hiện hành bị hạn
chế trong việc dàn xếp, và việc Âu Mỹ phải bảo vệ quyền lợi của mình, thì không thể tiến
hành việc cải cách hệ thống tài chính thế giới.
Thứ năm, khủng hoảng đã chứng minh rõ được mâu thuẫn giữa toàn cầu hóa và
sự thiếu tin cậy trong việc giám sát quốc tế. Điều này đã khiến cho các nước nhận thức và
đánh giá lại sự toàn cầu hóa và những ảnh hưởng bên ngoài của nó, có thái độ thận trọng

hơn với nền kinh tế và tự do thương mại Mỹ. Đồng thời, khủng hoảng toàn cầu khiến cho
December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM


20



tỷ lệ thất nghiệp tăng, nên chính phủ rất băn khoăn và bảo thủ trong việc tạo cơ hội việc
làm. Các vòng đàm phán Doha tiếp tục rơi vào bế tắc.
Thứ sáu: khủng hoảng tài chính cũng đã tác động tới dự trữ ngoại hối của một số
quốc gia. Theo số liệu công bố trên trang web chính thức của IMF, Dự trữ ngoại hối tại
thời điểm cuối tháng 10/2008 của hầu hết các nước đã công bố số liệu đều sụt giảm mạnh
so với tháng 9/2008. Cụ thể trong số 28 nước đã công bố số liệu thì có 27 nước Dự trữ
ngoại hối sụt giảm trừ Estonia có mức Dự trữ ngoại hối tăng khoảng 600 triệu USD từ 3,6
tỷ USD vào cuối tháng 9 tới 4,2 tỷ USD vào cuối tháng 10/2008 . Đặc biệt, 3 nước trong
số 5 nước có quy mô Dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới theo thứ tự là: Trung Quốc, Nhật
Bản, Nga, Ấn Độ và Hàn Quốc đều có mức sụt giảm mạnh mẽ không kể Trung Quốc là
nước không công bố chính thức số liệu Dự trữ ngoại hối trên website của IMF và Ấn Độ
do chưa công bố số liệu Dự trữ ngoại hối tháng 10/2008. Đứng đầu mức sụt giảm Dự trữ
ngoại hối là Nga với mức sụt giảm là 71,5 tỷ USD từ 556 tỷ USD xuống chỉ còn 484,5 tỷ
USD, sau đó tới Hàn Quốc giảm 27,4 tỷ USD từ 239, 7 tỷ USD xuống 212,3 tỷ USD;
Đức giảm 18,6 tỷ USD từ 142,9 tỷ USD xuống 124,3 tỷ USD và Nhật giảm 18,2 tỷ USD
từ 995,9 tỷ USD xuống 977,7 tỷ USD.
Có hai nguyên nhân chính khiến Dự trữ ngoại hối của các nước giảm mạnh.
 Nguyên nhân thứ nhất là việc Ngân hàng trung ương các nước bán ròng ngoại tệ
trong đó chủ yếu là đồng đô la Mỹ để can thiệp thị trường nhằm giữ giá đồng nội
tệ.
 Nguyên nhân thứ hai là do tỷ giá của một số ngoại tệ mạnh trong rổ ngoại tệ thuộc
dự trữ ngoại hối biến động khiến mức dự trữ ngoại hối quy ra đô la Mỹ sụt giảm.
Đồng rup của Nga liên tục mất giá kể từ giữa tháng 6/2008 đến 12/2008 . Tại thời điểm
giữa tháng 6 tỷ giá USD/RUB vào khoảng 22,9 thì ngày 31/10 tỷ giá này lên tới 27,1
khiến đồng rup mất giá hơn 18% so với USD. Tương tự đà mất giá của đồng rup, đồng

won của Hàn Quốc cũng đang trong giai đoạn mất giá nghiêm trọng kể từ sau cuộc khủng
December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM


21



hoảng tài chính châu Á năm 1997. Tại thời điểm 27/10 /2008tỷ giá USD/KRW lên tới
1.457, so với cuối năm 2007 đồng won mất giá trên 31% và trở thành đồng tiền lớn mất
giá mạnh nhất thế giới. Chỉ riêng trong tháng 10 đồng won mất giá tới 17% so với USD.
Sự mất giá của các đồng tiền này theo xu thế mất giá chung của hầu hết các đồng tiền
mạnh so với USD do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nền kinh tế thế giới
rơi vào suy thoái với hàng loạt tin tức ảm đảm về tình hình tăng trưởng kinh tế của hầu
hết các nước từ Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc….đã dẫn tới sự sụt giảm nghiêm
trọng của thị trường hàng hoá như vàng, dầu mỏ và chứng khoán trong tháng 10/2008.
Trong bối cảnh thị trường hàng hoá sụt giảm nghiêm trọng thì nắm giữ tiền là lựa chọn an
toàn đối với đa số nhà đầu tư. Đặc biệt, các đồng tiền mạnh với lãi suất thấp như USD,
JPY trở thành “vịnh tránh bão” trong cơn khủng hoảng theo nguyên lý cơ bản “lợi nhuận
thấp, rủi ro thấp”. Tâm lý lo ngại về diễn biến xấu của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu cộng với đà sụt giảm liên tiếp của đồng nội tệ đã đẩy đồng rup cũng như đồng won
ngày càng mất giá.
Trong điều kiện nhu cầu về hàng hoá sụt giảm, thị trường xuất khẩu của các quốc gia bị
co hẹp thì việc đồng nội tệ mất giá sẽ làm tăng tính cạnh tranh của các doanh nghiệp Nga
và Hàn Quốc. Tuy nhiên, việc đồng rup và đồng won mất giá quá mức so với USD sẽ làm
suy giảm lòng tin của nhà đầu tư và dân chúng, dẫn tới hành động bán tháo những đồng
tiền này và sự tăng giá của hàng hoá nhập khẩu, gây sức ép tới lạm phát. Do đó, chính
phủ Nga và Hàn Quốc đã bơm một lượng lớn USD vào thị trường để ngăn chặn đà sụt
giảm của đồng nội tệ. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới Dự trữ ngoại hối
tháng 10 của các nước này sụt giảm mạnh.
Tuy nhiên còn một lý do quan trọng khác dẫn tới sự sụt giảm Dự trữ ngoại hối trong
tháng 10/2008 đó là sự mất giá của đồng euro, đồng tiền đang chiếm khoảng 25% trong
cơ cấu ngoại tệ Dự trữ ngoại hối của các quốc gia. Tỷ giá EUR/USD ngày 1/10/2008 là

1,4019 và giảm sâu tới mốc 1,2466 vào ngày 27/10/2008 và dừng ở mức 1,273 vào ngày
December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM


22



31/10. Như vậy, chỉ trong tháng 10/2008 đồng euro đã mất giá khoảng 10% so với USD
do tâm lý nắm giữ đồng USD như tài sản an toàn trong thời kỳ khủng hoảng và lo ngại
các nền kinh tế thuộc khu vực châu Âu sẽ phục hồi chậm chạp hơn so với Mỹ. Đồng euro
mất giá khiến Dự trữ ngoại hối quy đổi ra USD của hầu hết các nước sụt giảm.
Như vậy, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động tới mọi khía cạnh của
nền kinh tế trong đó có cả mức Dự trữ ngoại hối của các quốc gia do ảnh hưởng trực tiếp
từ biến động tỷ giá của các đồng tiền so với USD, đồng tiền đang tỏ ra rất nhạy cảm trước
những tín hiệu của thị trường trong giai đoạn hiện nay.
2.1.2. Ảnh hưởng đối với nền kinh tế Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ từ cuối năm 2007 đã nhanh chóng lan rộng ra các nền
kinh tế lớn, trở thành cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái toàn cầu và hiện đang diễn
biến rất phức tạp. Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới, đồng thời kinh tế
nước ta đã hội nhập khá sâu với nền kinh tế thế giới, chúng ta không thể không chịu tác
động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng toàn cầu. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã
và đang tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế trên thế giới và ảnh hưởng đến các hoạt
động kinh tế của nước ta, nhưng mức độ không lớn so với các nước phát triển.
a. Về thương mại
Cuộc khủng hoảng đã và đang gây ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu Việt Nam
sang thị trường Mỹ, Nhật Bản và châu Âu. Đây là những thị trường xuất khẩu quan trọng
của Việt Nam. Ngay từ những tháng đầu năm 2008, đã xuất hiện xu hướng giảm tốc độ
xuất khẩu sang Mỹ, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Do cầu tiêu dùng tại Mỹ
đang trên đà suy giảm mạnh bởi tác động của khủng hoảng tài chính, trong 9 tháng đầu
năm, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt 16,7%, thấp hơn khá nhiều so với
mức 26,7% của năm 2007. Tỷ trọng của thị trường Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam đã giảm, từ 20,7% của năm 2007 xuống còn 17,7% trong 9 tháng đầu năm

December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM


23



nay. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng nhất là may mặc, giày
da, gạo, cá basa, cà phê
Cuộc khủng hoảng cũng tác động đến tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU và
Nhật Bản, là hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Phân tích của các chuyên
gia kinh tế cho thấy, do bị tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng, người tiêu dùng của các
thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, nên nhu cầu nhập khẩu đối với hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam cũng sẽ có xu hướng giảm. Tỷ trọng của thị trường EU trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng đã giảm, chỉ còn 16,5%, trong khi năm 2007 là
18%. Xuất khẩu cả năm 2008 dự kiến chỉ đạt khoảng 64 tỷ USD, tăng 31,8% so với thực
hiện năm 2007, thấp hơn so với dự báo của Chính phủ vào đầu tháng 10-2008 cả về kim
ngạch và tốc độ tăng (tương ứng là 65 tỷ USD và 33,9%) do xuất khẩu giảm không chỉ về
số lượng các đơn hàng, mà cả về giá bán của hàng hóa xuất khẩu. Năm 2009, dự kiến kim
ngạch xuất khẩu là 64 tỷ USD, giảm cả về kim ngạch và tốc độ tăng kim ngạch so với con
số đã được trình Quốc hội đầu tháng 10-2008 (số trình Quốc hội tháng 10-2008 tương
ứng là 67,7 tỷ USD và 18%).
b. Về hoạt động ngân hàng và thị trường tiền tệ
Tuy cuộc khủng hoảng chưa có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng,
nhưng một số tác động gián tiếp là đáng kể. Trước hết, đó là diễn biến của tỷ giá và lãi
suất USD. Tỷ giá USD với đồng Việt Nam trên thị trường có nhiều biến động do tâm lý
của người dân. Trước tình hình đó, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có
các biện pháp, chính sách để điều hành, ổn định tỷ giá, hạ lãi suất cơ bản, giúp doanh
nghiệp tiếp cận nguồn vốn để sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất -
nhập khẩu, rà soát và kiểm soát nợ xấu của các ngân hàng thương mại.
Về thị trường chứng khoán, luồng tiền đầu tư gián tiếp vào Việt Nam suy giảm và đã có
hiện tượng các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường. Mặc dù tình hình kinh tế vĩ
mô của Việt Nam trong những tháng gần đây có những chuyển biến tích cực, nhưng thị

December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM


24



trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục sụt giảm. VN-index giảm liên tục và lập đáy mới
xuống dưới 350 điểm. Việc nhà đầu tư nước ngoài có biểu hiện rút khỏi thị trường chứng
khoán Việt Nam đã gây tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư trong nước.
c. Về đầu tư nước ngoài
Cuộc khủng hoảng đã bước đầu có ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và
viện trợ phát triển chính thức (ODA). Số dự án FDI đăng ký mới có xu hướng chững lại,
trong tháng 10-2008, tổng số dự án đăng ký mới là 68 dự án với tổng vốn đăng ký là 2,02
tỷ USD, thấp hơn nhiều so với các tháng đầu năm (9 tháng đầu năm có 885 dự án đăng ký
với tổng số vốn đăng ký là 56,27 tỷ USD).
Tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này là làm thay đổi hoàn toàn và sâu sắc ngành
công nghiệp tài chính Mỹ và hệ thống tài chính toàn cầu. Trong những năm tới, dòng vốn
đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam sẽ suy giảm, vì do bất ổn kinh tế và
sự suy thoái kinh tế toàn cầu. sẽ suy giảm, vì do bất ổn kinh tế và sự suy thoái kinh tế
toàn cầu.
Về ngắn hạn, khủng hoảng ở Mỹ chưa có tác động lớn đến Việt Nam do dòng vốn đầu tư
vào Việt Nam hầu hết bắt nguồn từ các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực như
Singarpo, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ chỉ đứng thứ 11 trong hơn 80 quốc gia
và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với 419 dự án còn hiệu lực,
tổng số vốn đăng ký 4,1 tỷ USD. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính đã không chỉ
dừng lại ở Mỹ mà đã lan sang các nước phát triển khác, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc
và các quốc gia có đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Các nước châu Á, nơi chiếm
tới 80% dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, cũng đang chịu tác động lớn của cuộc khủng
hoảng. Việc huy động vốn trên thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn do chi phí vốn trở nên đắt
đỏ hơn. Hậu quả là các nhà đầu tư sẽ hạn chế tăng thêm đầu tư mới và thực hiện các dự
án đã cam kết. Đã có xu hướng một số công ty mẹ ở chính quốc yêu cầu các chi nhánh tại
Việt Nam phải giảm đầu tư để rút vốn về để tháo gỡ khó khăn cho các công ty mẹ. Do

December 28, 2009

CHÍNH SÁCH KÍCH C

U C

A VI

T NAM



Nhóm Wall.E

|
L

p K8T


KHOA KINH T

-
LU

T


ĐHQG TP.HCM


25



vậy, trong dài hạn, nếu khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới không bị chặn
lại thì chắc chắn nó sẽ tác động tới đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Giải ngân vốn FDI cũng sẽ giảm, khi mà trong tình hình khó khăn hiện nay, các công ty
đầu tưvào Việt Nam sẽ thận trọng hơn trong kế hoạch tài chính và đầu tư. Thêm vào đó,
hầu hết các dự án đầu tư nói chung, dự án FDI nói riêng, phần nợ vay thường chiếm một
tỷ phần rất lớn trong tổng vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính đang gặp khó khăn sẽ
làm cho nhiều hợp đồng vay vốn sẽ không được ký kết hoặc không thể giải ngân. Những
dự báo ban đầu cho thấy, số vốn ODA cam kết và giải ngân tại Việt Nam trong những
năm tới sẽ có xu hướng giảm do nguồn vốn đầu tư của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc
tế và dự trữ cho vay của các nước phát triển được cân đối lại để bình ổn thị trường tài
chính. Năm 2010 và các năm tiếp theo, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế châu Á nói
riêng được dự báo khả quan hơn, điều này sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam.
Huy động vốn gián tiếp vào thị trường cổ phiếu Việt Nam trong thời gian nền kinh tế thế
giới khủng hoảng sẽ rất khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an toàn.
Việc bán tháo chứng khoán khỏi thị trường Việt Nam là có thể, mặc dù xác suất không
cao, do tính thanh khoản và quy mô của thị trường. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
thị trường chứng khoán và quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn trong
các năm tới. Việc huy động vốn thông qua thị trường vốn khó khăn trong khi thị trường
tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao.
Một khía cạnh khác của đầu tư gián tiếp là các giao dịch chênh lệch lãi suất nhằm hưởng
chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền trong khi tỷ giá ổn định. Các giao dịch này thường
mang tính đầu cơ ngắn hạn cao. Với lãi suất toàn cầu sụt giảm và chính sách tỷ giá neo
VND vào USD của Việt Nam trong khi lãi suất VND vẫn ở mức cao, có thể dòng vốn này
sẽ chảy vào trong một số giai đoạn nhất định nhằm khai thác cơ hội chênh lệch. Trong
những trường hợp thoái vốn, dòng vốn này có thể tạo áp lực tỷ giá cho VND. Việc phát

×