Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

tiểu luận kinh tế nông thôn tìm hiểu về thực trạng nguồn lao động trong nông thôn nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.15 KB, 11 trang )

I.Phần 1: Mở đầu.
1.1.Tính cấp thiết của đề tài:
Nông thôn Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tiềm năng, là nơi cung cấp và hậu
thuẫn đắc lực cho các khu đô thị và khu công nghiệp.Như chúng ta đã biết, trong hơn 86
triệu người ở Việt Nam thì nông thôn chiếm trên khoảng 70% dân số cả nước. Điều này
cho thấy nông thôn vẫn là lực lượng lao động xã hội dồi dào và chiếm tỉ lệ cao nhất. Nông
thôn ta bao đời nay vẫn lấy nghề sản xuất nông nghiệp là nghề chính. Họ vẫn đang sản
xuất một cách tự phát, manh mún,Mặc dù trong những năm gần đây đã có sự liên kết nhà
khoa học với nhà nông nhưng cũng chưa tạo đựơc những đột phá đem lại hiệu quả. Hiện
nay, nông thôn đã mở ra nhiều ngành nghề để tạo việc làm và thu nhập nhưng hiệu quả
kinh tế vẫn chưa cao nguyên nhân là còn thiếu áp dụng các khoa học kĩ thuật vào trong
sản xuất vì vẫn nặng với cái kiểu tư duy “nghĩ sao làm vậy”.Nguồn lao động nông thôn đa
số có trình độ chuyên môn, kỹ thuật thấp, việc làm thiếu bền vững, thích ứng chậm với sự
biến đổi của thị trường lao động trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, Rõ ràng nguồn lao
động nông thôn dồi dào nhưng chất lượng vẫn còn yếu kém .Trong các năm đổi mới,
nguồn lao động nước ta có sự cải thiện đáng kể về lượng và chất,với nguồn tài nguyên dồi
dào chưa được khai thác hoặc khai thác chưa có hiểu quả thì đào tạo nguồn lao động nông
thôn có trình độ và chất lượng là rất cần thiết.Lao động là một trong ba nhân tố của bất
cứ một quá trình sản xuất nào và trong thời đại ngày nay khi mà các nguồn lực trở nên
khan hiếm thì nó được xem xét là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, vai trò
của nguồn lao động nói chung và nguồn lao động nông thôn nói riêng là rất quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nước ta
đang thực hiện CNH - HĐH đất nước trong đó CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn được đặc
biệt quan tâm.
Từ những thực tế trên,chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài:"Tìm hiểu về thực trạng
nguồn lao động trong nông thôn nước ta". Từ đó đề xuất một số giai pháp khắc phục.
1.2.Mục tiêu nghiên cứu:
1.2.1.Mục tiêu chung:Tìm hiểu về thực trạng nguồn lao động trong nông thôn nước ta
trong những năm qua,phát hiện ra những thuận lợi và khó khăn.Từ đó đề xuất một số giải
pháp và phương hướng khắc phục.
1.2.2.Mục tiêu riêng: Làm rõ những lý luận và thực trạng của việc sử dụng, phát triển


nguồn lao động ở nông thôn nước ta hiện nay.
- Nêu lên được các đặc điểm và xu hướng phát triển lao động ở nông thôn nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm sử dụng, phát huy có hiệu quả và
phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
1.2.3.Phương pháp nghiên cứu:Thu thập thông tin,số liệu qua sách báo,các phương tiện
thông tin đại chúng,mạng internet, ,sử dụng thông tin tra cứu ,sử dụng exel để tính toán.
II.Phần 2: Nội dung.

2.1.một số lý luận về nguồn lao động trong nông thôn.
2.1.1.Lao động.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người.Lao động là một hành động diễn ra
giữa người và giới tự nhiên.Trong quá trình lao động con người vận động sức tiềm tàng
trong cơ thể của mình,sử dụng công cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên,chiếm lấy
những vật chất tự nhiên,biến đổi vật chất đó làm cho nó có ích cho đời sống của mình.Vì
thế lao động là điều kiện không thể thiếu trong đời sống con người.Lao động chính là sử
dụng sức lao động.
2.1.2. Khái niệm về nguồn lao động nông thôn:
Nguồn lao động nông thôn là một bộ phận dân số sinh sống và làm việc ở nông thôn trong
độ tuổi lao động theo qui định của pháp luật (nam từ 16 đến 60 tuổi, nữ từ 16 đến 55 tuổi)
có khả năng lao động.
Lực lượng lao động ở nông thôn là bộ phận của nguồn lao động ở nông thôn bao gồm
những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, đang có việc làm và những
người thất nghiệp nhưng có nhu cầu tìm việc làm.
Tuy nhiên do đặc điểm, tính chất, mùa vụ của công việc ở nông thôn mà lực lượng tham
gia sản xuất nông nghiệp không chỉ có những người trong độ tuổi lao động mà còn có
những người trên hoặc dưới độ tuổi lao động tham gia sản xuất với những công việc phù
hợp với mình.Từ khái niệm nguồn lao động ở nông thôn mà ta thấy lao động ở nông thôn
rất dồi dào, nhưng đây cũng chính là thách thức trong việc giải quyết việc làm ở nông

thôn.
2.1.3.Vai trò của nguồn lao động trong nông thôn.
Lao động là một trong ba nhân tố của bất kỳ một quá trình sản xuất nào và trong thời đại
ngày nay khi các nguồn lực trở nên khan hiếm thì nó được xết là yếu tố quan trọng nhất
của quá trình sản xuất,vai trò của nguồn lao động nòi chung và nguồn lao động trong
nông thôn nòi riêng là rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang thực hiện CNH-HĐH đất nước.Trong
đó CNH_HĐH nông nghiệp,nông thôn được quan tâm đặc biệt.vì vậy nguồn lao động nông
thôn có vai trò rất quan trọng nó được thể hiện qua các mặt sau:
-Nguồn lao động nông thôn tham gia vào quá trình phát triển các nghành trong nền kinh
tế quốc dân.
-Nguồn lao động nông thôn tham gia vào sản xuất lương thực thực phẩm.
-Nguồn lao động trong nông thôn tham gia vào quá trình sản xuất nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến nông-lâm-thuỷ sản.
-Nguồn lao động nông thôn là thị trường tiêu thụ sản phẩm của các ngành khác.
2.1.4.Đặc điểm của nguồn lao động trong nông thôn.
-Lao động nông thôn mang tính thời vụ:Đây là đặc điểm đặc thù không thể xoá bỏ được
của lao động nông thôn .nguyên nhân của nét đặc thù trên là do:Đối tượng của sản xuất
nông nghiệp là cây trồng vật nuôi chúng là những cơ thể sống trong quá trình tái sản xuất
tự nhiên và tái sản xuất kinh tế đan xen nhau.
cùng một loại cây trồng vật nuôi nhưng ở những vùng khác nhau co diều kiện tự nhiên
khác nhau thì chúng cũng có quá trình sinh trưởng và phát triển khác nhau.tinhhs thời vụ
trong nông nghiệp là vĩnh cửu không thể xoá bỏ được trong quá trình sản xuất chúng ta
chỉ có thể làm giảm thời vụ trong sản xuất nông nghiệp.Từ đó đặt ra vấn đề sử dụng các
yếu tố đầu vào trong sản xuất,đặc biệt là sử dụng lao động nông thôn một cách hợp lý có ý
nghía rất quan trọng.
-Nguồn lao động nông thôn tăng về số lượng:Dân số là yếu tố cơ bản quyết định đến số
lượng,quy mô và cơ cấu của dân số có ý nghĩa đến quy mô của nguồn lao động.
-Chất lượng lao động chưa cao:Chất lượng lao động được đánh giá qua quá trình học
vấn,chuyên môn kỹ thuật và sức khoẻ.

+Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật:Nguồn lao động nước ta đông về số lượng
nhưng sự phát triển nguồn nhân lực của nước ta còn hạn chế,nhiều mặ chưa đáp ứng
được nhu cầu khắp khe trong bối cảnh đất nước đang hội nhập kinh tế quốc tế đặc biệt là
từ khi chung ta gia nhập WTO.Riêng lao động nông thôn chiếm 3/4 của cả nước.Tuy vậy
nguồn lao động nông nghiệp nông thôn chưa phát huy hết tiềm năng do trình độ khoa học
kỹ thuật lạc hậu.Do đó để có một nguồn lao động với trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thì
nhà nước phải có những chính sách đào tạo nguồn nhân lực có trình độ để phát triển đất
nước.
-Về sức khoẻ:Sức khoẻ của người lao động nó phụ thuộc vào lượng calo tối thiểu cung
cấp vào cơ thể mỗi ngày,môi trường sống,môi trường làm việc nhìn chung lao động nước
ta có thu nhập thấp nên dẫn đến các nhu cầu thiết yếu hàng ngày chưa đáp ứng một cách
đầy đủ.Vì vậy nói chung sức khoẻ của người lao động cả nước nói chung và lao động nông
thôn nói riêng là chưa tốt.
2.2.Thực trạng nguồn lao động trong nông thôn.
Theo số liệu tổng điều tra dân số năm 2009, 70% dân số nước ta đang sống ở khu vực
nông thôn, lao động nông thôn hiện chiếm 75% tổng lực lượng lao động cả nước và chủ
yếu tập trung sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, năng suất lao động thấp, phương thức
sản xuất lạc hậu, hiệu quả sản xuất không cao. Giai đoạn 2000-2007, tốc độ tăng trưởng
lao động của cả nước đạt 2,79%, trong đó tốc độ tăng trưởng của lao động nông thôn là
2,18%. Năm 2007, lực lượng lao động nông thôn của cả nước là 34,8 triệu người, chiếm
74,5% tổng lực lượng lao động, trong đó số người nằm trong độ tuổi lao động là 32,73
triệu người. Lao động nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng chiếm 22,3%, vùng đồng
bằng sông Cửu Long chiếm 21,5%, Tây Bắc chiếm 3,18% và Tây Nguyên chiếm 5,59%
Lực lượng dồi dào như vậy nhưng trình độ chuyên môn của lao động nông thôn chưa cao.
Hiện lao động có việc làm và kỹ năng chuyên môn chỉ chiếm 16,8%, còn lại 83,2% là lao
động chưa qua đào tạo, chưa có trình độ kỹ thuật chuyên môn. Thêm vào đó, hầu hết các
thị trường lao động vẫn chỉ tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố có nhiều khu công
nghiệp, khu chế xuất và ở ba vùng kinh tế trọng điểm. Ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa,
thị trường lao động lại chưa phát triển nên dẫn đến thực trạng là nơi thừa, nơi thiếu lao
động. Đây cũng chính là hạn chế lớn nhất của lao động nông thôn làm cho việc khai thác

nguồn nhân lục ở đây vẫn còn yếu kém. Ngoài ra, lề lối làm ăn trong ngành nông nghiệp
truyền thống và tình trạng ruộng đất manh mún, nhỏ lẻ như hiện nay đã hạn chế tính chủ
động sang tạo của người nông dân trong sản xuất, kinh doanh cũng như khả năng tiếp cận
thị trường của người lao động. Có thể thấy , cung lao động nông thôn dồi dào nhưng chất
lương chưa cao cả về văn hoá , kỹ năng chuyên môn cũng như hiểu biết về pháp luật, kỹ
năng sống.
Phát triển nông thôn bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chủ trương
lớn của nước ta, nhằm nhấn mạnh đến việc sử dụng các nguồn nhân lực một cách hiệu quả
để thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển . Do vậy, các chính sách phát triển nông thôn cần
được xây dựng và thực hiện trên cơ sở kết hợp hài hoà và hợp lý giữa phát triển kinh tế,
phát triển xã hội và bảo vệ môi trường một cách hài hoà.
Giải pháp cấp bách và là ưu tiên số một hiện nay là đào tạo nghề cho lao đông nông thôn,
họ cần có trình độ chuyên môn và cập nhật kiên thức để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế của đất nước. Bên cạnh đó, lao động trẻ nông thôn hiện nay không chỉ thiếu kiến thức
chuyên môn mà kiến thức xã hội, giao tiếp cộng đồng, phát triển bản thân còn nhiều khiếm
khuyết. Ở họ dạy nghề thôi chưa đủ mà cần đưa cả kỹ năng sống vào giảng dạy.
Những năm gần đây công tác dạy nghề đã có nhiều tiến triển, nhiều lao động đã ý thức
được việc học nghề và số người tham gia các khoá đào tạo tăng rõ rệt. Số lao động qua
đào tạo ngày càng tăng đã góp phần giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động ngành nghề phi nông nghiệp và đẩy
mạnh hợp tác quốc tế về lao động. Quy mô đào tạo dạy nghề trong những năm qua tăng
nhanh, chỉ tiêu đào tạo bình quân hàng năm tăng 20%. Quy mô tuyển sinh dạy nghề trong
3 năm - từ năm 2006 đến 2008 là 4,3 triệu người (năm 2008 là 1,54 triệu người), trong đó
lao động nông thôn chiếm 52%. Tuy nhiên, các ngành nghề nông - lâm - ngư nghiệp chỉ
chiếm 5% số học sinh. Số lao động nông thôn được học nghề ngắn hạn và sơ cấp nghề
bằng chính sách hỗ trợ theo Quyết định 81/2005/QĐ-TTg giai đoạn 2006-2008 là 990.000
người. Nhiều địa phương đã khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức đoàn thể
dạy nghề cho lao động nông thôn, nhất là lứa tuổi thanh niên nhằm phát triển các nghề
truyền thống. Bình quân hàng năm, các làng nghề đã đào tạo được thêm việc làm cho
khoảng 250.000 lao động. Riêng các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn trong 3 năm từ năm 2006-2008 đã tuyển sinh được 120.322 người, trong đó
quy mô tuyển sinh năm 2008 là 48.000 học sinh, lao động nông thôn chiếm trên 85%.
2.3.Thuận lợi:
Nguồn lao động trong nông thôn rất dồi dào,số người trong độ tuổi lao động cao.Trong
những năm đổi mới vừa qua nền kinh tế việt nam đã đạt được những thành tựu to
lớn,kiinh tế luôn tăng trưởng với tốc độ cao.Để góp phần vào thành cồg đó thì lao động
nông thôn có phần đóng góp rất quan trọng.
Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tích cực giảm dần lao động việc làm
trong lĩnh vực nông nghiệp tăng dần lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ góp
phần CNH-HĐH.Cơ sở hạ tầng nông thôn cũng phát triển,tạo điều kiện phát triển sản
xuất.Số lao động có việc làm ngày càng tăng.Tỷ lệ thất nghiệp ngày càng giảm xuống.Từ
đó nó đã giải quyết vấn đề thất nghiệp và bán thất nghiệp ở nông thôn.
Một trong những vấn đề mà Báo cáo nêu rất rõ và thu hút sự quan tâm của nhân dân, đó
là: cả năm đã tạo được khoảng 1,6 triệu việc làm mới; đã đào tạo nghề cho hơn 1,7 triệu
người. Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn được tích cực triển khai, riêng
đào tạo nghề cho nông dân là 430 nghìn người. Dự kiến đến cuối năm 2010, tỷ lệ lao động
qua đào tạo đạt khoảng 40%. Năm 2011, Chính phủ cũng đặt ra mục tiêu tạo việc làm cho
khoảng 1,6 triệu lao động, trong đó đưa 87 nghìn lao động đi làm việc tại nước ngoài.
Triển khai có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới, trong năm 2011, phấn đấu
cơ bản hoàn thành quy hoạch và đề án phát triển nông thôn mới ở các xã, triển khai đầu
tư các hạng mục đã có đủ điều kiện; đẩy mạnh chương trình đào tạo nghề cho lao động
nông thôn. Đây là mục tiêu rất thiết thực, nhất là đối với các tỉnh miền núi, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Bởi lẽ, những năm qua, Chính phủ và các bộ, ngành, các tỉnh đã tích cực
triển khai đào tạo nghề cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn và lao động
nghèo; quan tâm phát triển mạng lưới các cơ sở dạy nghề và nâng cao chất lượng đào tạo
nghề cho người lao động
2.4.Những khó khăn, thách thức.
Hiện nay, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo nghề mới đạt 18,7%, còn rất thấp so với
bình quân chung của cả nước là 25%; Thực tế, lao động nông thôn qua đào tạo nghề có sự
chênh lệch lớn giữa các vùng kinh tế (vùng Đồng bằng Sông Hồng 19,4%, đồng bằng Sông

Cửu Long 17,9%; trong khi đó vùng Tây Bắc chỉ có 8,3%). Nguyên nhân là công tác đào tạo
nghề cho lao động nông thôn trong một thời gian dài chưa được coi trọng đúng mức.
Nhiều Bộ, ngành, địa phương, cán bộ, đảng viên… nhận thức chưa đầy đủ về đào tạo nghề
cho lao động nông thôn, coi đào tạo nghề chỉ là cứu cánh có tính thời điểm, không phải là
vấn đề quan tâm thường xuyên, liên tục và có hệ thống. Mạng lưới dạy nghề tập trung chủ
yếu ở khu vực đô thị. Tại khu vực miền núi, nông thôn, vùng sâu, vùng xa số lượng cơ sở
dạy nghề rất ít, quy mô dạy nghề nhỏ chưa đáp ứng được nhu cầu học nghề của lao động
nông thôn. Nhiều cơ sở dạy nghề có diện tích đất đai, quy mô nhà xưởng chưa phù hợp với
quy mô đào tạo, thiếu xưởng thực hành, ký túc xá, trang thiết bị dạy nghề lại thiếu về
chủng loại, số lượng và lạc hậu về công nghệ. Theo báo cáo của Tổng cục Dạy nghề, đến
nay chúng ta vẫn còn 253 huyện trên cả nước chưa có trung tâm dạy nghề, khoảng 31%
phòng học và 20,7% số nhà xưởng thực hành của các cơ sở dạy nghề là nhà cấp 4, nhà
tạm. Số lượng nhà này chủ yếu tập trung ở các cơ sở đào tạo do địa phương quản lý, các
tỉnh khó khăn, huyện nghèo.
Bên cạnh đó, cơ cấu trình độ, cơ cấu nghề đào tạo chưa phù hợp, chưa bổ sung kịp thời các
nghề mới theo yêu cầu của thị trường lao động. Số lượng chương trình khung và chương
trình dạy nghề đã lạc hậu. Nhìn chung, các cơ sở dạy nghề chưa chú trọng đầu tư xây dựng
chương trình, giáo trình bằng các nguồn kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia được
Nhà nước cung cấp hàng năm, mà chủ yếu dùng số tiền này mua sắm trang thiết bị và đồ
dùng thực hành, thực tập và giảng dạy lý thuyết. Đội ngũ giáo viên dạy nghề cũng là một
vấn đề lớn, thiếu về số lượng, cơ cấu ngành nghề đào tạo lại chưa phù hợp và hạn chế về
chất lượng. Phương pháp dạy nghề chủ yếu là dạy chay, học chay. Cán bộ quản lý dạy nghề
ở một số cơ sở dạy nghề chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn và thiếu kinh nghiệm
quản lý (nhất là giám độc trung tâm dạy nghề huyện). Nhiều giám đốc trung tâm dạy nghề
huyện là cán bộ kiêm nghiệm, năng lực và trình độ không phù hợp. Ở cấp huyện không có
cán bộ chuyên trách về dạy nghề.
Hơn nữa công tác lao động, giải quyết việc làm ở nhiều tỉnh miền núi còn những hạn chế.
Đó là, cơ sở vật chất của các trung tâm giới thiệu việc làm, các đơn vị dạy nghề còn thiếu;
chưa hình thành được mối liên kết chặt chẽ giữa cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp; tỷ lệ dạy
nghề ngắn hạn còn cao, chưa gắn với giải quyết việc làm. Chất lượng nguồn lao động chưa

cao, chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Chính quyền cơ sở chưa chú trọng xây
dựng kế hoạch giải quyết việc làm tại chỗ và định hướng dạy nghề, tạo việc làm cho người
lao động ở địa phương.
Đào tạo thiếu hệ thống và thường xuyên: Công tác đào tạo nghề cho lao động nông
thôn trong một thời gian dài chưa được coi trọng đúng mức. Nhiều Bộ, ngành, địa phương,
cán bộ, Đảng viên và xã hội nhận thức chưa đầy đủ về đào tạo nghề cho lao động nông
thôn, coi đào tạo nghề chỉ là cứu cánh có tính thời điểm, không phải là vấn đề quan tâm
thường xuyên, liên tục và có hệ thống.
Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo nghề đến nay mới đạt 18,7%, còn rất thấp so với
bình quân chung của cả nước là 25%; lao động nông thôn qua đào tạo nghề có sự chênh
lệch lớn giữa các vùng kinh tế (vùng Đồng bằng Sông Hồng 19,4%, đồng bằng Sông Cửu
long 17,9%; trong khi đó vùng Tây Bắc chỉ có 8,3%).
Cơ chế, chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn được ban hành còn thiếu, bất cập và
chậm được bổ sung, sửa đổi: Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển chủ yếu tập trung ở khu
vực đô thị, còn ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, số lượng cơ sở dạy nghề
rất ít, quy mô dạy nghề nhỏ và các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo chưa đáp ứng
được yêu cầu.
Ngân sách Nhà nước bố trí cho dạy nghề nói chung và dạy nghề cho lao động nông thôn
nói riêng chưa tương xứng với yêu cầu tăng quy mô và nâng cao chất lượng dạy nghề.
Kinh phí Dự án "Tăng cường năng lực dạy nghề" thuộc chương trình mục tiêu quốc gia
giáo dục - đào tạo đến năm 2010 trong những năm qua tăng nhanh, nhưng số lượng
trường và trung tâm dạy nghề được hỗ trợ đầu tư của Dự án còn ít (mới chỉ hỗ trợ cho 3
trường tiếp cận trình độ khu vực; 60 trường trọng điểm; 50 trường trung cấp nghề khó
khăn; 219 trung tâm dạy nghề cấp huyện).
Mức kinh phí hỗ trợ cho các trung tâm dạy nghề huyện cũng hạn chế, mỗi trung tâm
dạy nghề mới được hỗ trợ với mức 500-800 triệu đồng/năm, nhiều trung tâm dạy nghề
mới được đầu tư trong 1-2 năm gần đây. Dự án mới chỉ bố trí kinh phí để xây dựng các
chương trình khung dạy nghề trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề, chưa bố trí kinh phí
để xây dựng chương trình, giáo trình, học liệu dạy nghề trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề
thường xuyên; kinh phí dạy nghề cho lao động nông thôn trong Dự án mới chỉ hỗ trợ cho

khoảng 300.000 người/năm. Mức hỗ trợ như vậy là thấp so với yêu cầu thực tế.
3. Phương hướng và giải pháp thời gian tới
Do những bất cập không nhỏ về tình hình cung cầu trên thị trường lao động nông thôn
nước ta, NNL ở nông thôn vẫn chỉ là dạng tiềm năng chưa được khai thác và sử dụng tốt.
Để giải quyết vấn đề đó và sử dụng có hiệu nguồn nhân lực ở nông thôn trong thời gian
tới, quan điểm chung: Một là, tận dụng tối đa số lượng lao động, đồng thời không ngừng
nâng cao năng suất lao động, nghĩa là sử dụng gắn với phát triển NNL. Hai là, quá trình sử
dụng lao động gắn liền với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Ba là, quá trình
sử dụng lao động gắn với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Từ đó cần tiến
hành các giải pháp sau:
Giảm lượng cung lao động:Cần tiếp tục duy trì chương trình dân số kế hoạch hóa gia
đình. Việc đưa chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình về nông thôn nhằm thực hiện
chỉ tiêu tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,1% vào 2010, từ đó giảm số lượng nguồn nhân lực.
Muốn thực hiện được thì trước hết phải hỗ trợ cho họ có thể tiếp cận được các phương
tiện truyền thông để họ hiểu được pháp lệnh dân số và biện pháp kế hoạch hóa gia đình.
Cần hỗ trợ cho họ các loại thuốc và dụng cụ tránh thai không phải trả tiền. Cần phải có các
chính sách về lợi ích vật chất, để khuyến khích họ sinh đẻ đúng kế hoạch.
Phải sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn lực đất đai: Cần hoàn thiện chính sách và
pháp luật về quản lý đất đai, để biến đất đai thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển
kinh tế và tạo thêm việc làm. Mỗi địa phương phải xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy
hoạch dài hạn sử dụng đất. Trong nông nghiệp phải thay đổi cơ cấu về diện tích cây trồng
trên cơ sở lựa chọn đúng cơ cấu cây trồng vật nuôi thích hợp, phải đẩy nhanh thâm canh
tăng vụ, nâng cao hệ số sử dụng ruộng đất, tăng nhanh giá trị sản lượng trên một đơn vị
diện tích. Phải tiếp tục thực hiện giao đất giao rừng cho nhân dân để gắn đất đai với lao
động, đất rừng phải có chủ. Hoàn thành giao đất cho những hộ dân không có đất sản xuất
và kèm theo những điều kiện hỗ trợ về khuyến nông để giúp họ sản xuất và khắc phục tình
trạng sử dụng kém hiệu quả đất đai của các doanh nghiệp nông lâm nghiệp. Trong xây
dựng đô thị và kết cấu hạ tầng quan trọng phải trên cơ sở quy hoạch tránh lãng phí. Tạo
ra thị trường đất đai ở khu vực nông thôn sẽ làm cho sự minh bạch về giá, giúp cho quá
trình sử dụng nguồn vốn này tốt hơn, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung đất đai, từ đó

góp phần thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn:Xác định chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nền nông
nghiệp hàng hoá lớn. Vì thế cần một là: phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở khu vực
nông thôn. Tiếp theo là phát triển mạnh lâm nghiệp và thuỷ sản nhằm thay đổi cơ cấu
giữa nông- lâm- thuỷ sản. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cần tiếp tục đẩy mạnh phát
triển chăn nuôi, và tất nhiên là thay đổi cơ cấu cây trồng giảm tỷ trọng cây lương thực,
tăng tỷ trọng cây màu cây công nghiệp. Hai là: củng cố thị trường đã có, mở rộng thị
trường mới để tiêu thụ nông sản phẩm và dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn. Ba là:
hoàn chỉnh quy hoạch sản xuất nông lâm thuỷ sản và ngành nghề dịch vụ ở nông thôn theo
hướng hàng hoá gắn với thị trường. Bốn là: phát triển kinh tế nhiều thành phần.
Cải tiến và đổi mới cơ chế huy động vốn, sử dụng và quản lý vốn đầu tư: Một mặt tăng tỷ
lệ đầu tư từ ngân sách nhưng chủ yếu cho kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp nông thôn. Có
cơ chế và chính sách phù hợp như chính sách miễn giảm thuế, chính sách tín dụng , để kêu
gọi khuyến khích đầu tư từ nhiều nguồn vốn khác nhau vào nông nghiệp nông thôn, đặc
biệt là nguồn vốn FDI vẫn là nguồn vốn quan trọng để thúc đẩy sự phát triển và chuyển
giao công nghệ trong ngành nông -lâm- thuỷ sản.
Cần thúc đẩy sự hoạt động của hệ thống tài chính ngân hàng vào khu vực thị trường nông
thôn, nơi tỷ lệ rủi ro cao. Tạo ra những thuận lợi nhất để nông dân có thể tiếp cận với các
nguồn tài chính. Đẩy nhanh việc cổ phần hoá, hình thành thị trường vốn và vận hành tốt
loại thị trường này nhằm nhanh chóng huy động vốn và di chuyển vốn dễ dàng giữa các
khu vực, các ngành kinh tế từ đó tạo vốn cho khu vực nông thôn.Tăng nguồn vốn trung
hạn và dài hạn hỗ trợ cho nhân dân, đặc biệt với nông dân trong quá trình tạo việc làm và
chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
Thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn cùng với việc xây dựng các khu công nghiệp nhỏ
ở nông thôn:Quá trình này được thực hiện bằng việc hình thành các thị trấn thị tứ, các khu
công nghiệp nhỏ và vừa, gia tăng các hoạt động dịch vụ ở nông thôn. Đây là cơ sở cho việc
đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động ở nông thôn. Nhà
nước kích thích quá trình này bằng cách hỗ trợ xây dựng các công trình cấu trúc hạ tầng
như cấp điện, giao thông, thông tin liên lạc, các trung tâm thương mại dịch vụ. Khuyến

khích dân cư nông thôn tự tạo việc làm ngay tại quê hương mình theo phương châm "Li
nông bất li hương”. Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống. Chẳng hạn trước
đây số lao động trẻ của tỉnh Quảng Nam di chuyển đến các đô thị tìm việc làm rất lớn thì
hiện tại với chương trình khôi phục làng nghề truyền thống của tỉnh đã thu hút rất nhiều
lao động trẻ.
Nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực ở nông thôn: Cần thực hiện cơ chế nhà nước và
nhân dân cùng làm để tăng cường đầu tư cho giáo dục nâng cao trình độ văn hoá cho các
vùng nông thôn, đặc biệt là vùng Tây Nguyên, Tây Bắc và đồng bằng sông Cửu Long sớm
phổ cập giáo dục cơ sở.Điều chỉnh mạng lưới cơ sở đào tạo cho phù hợp với yêu cầu quy
hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng vùng nông thôn. Xây dựng một số cơ sở sản xuất
nông nghiệp có trình độ kỹ thuật công nghệ cao trong các vùng nông nghiệp trọng điểm
nhằm kết hợp khuyến nông, đẩy mạnh hoạt động phổ biến chuyển giao tiến bộ kỹ thuật
cho nông dân. Trong việc đào tạo nghề nông nghiệp cho nông dân cần chú ý cả phương
tiện kỹ thuật và kỹ năng quản lý, không chỉ chú trọng các loại hình chính quy trên cơ sở
phát triển hệ cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, mà đặc biệt quan tâm tới mô hình đào
tạo cộng đồng. Tăng cường đào tạo ngành nghề phi nông nghiệp cho nông dân. Có chính
sách khuyến khích và sử dụng tốt sinh viên học sinh tốt nghiệp các trường đại học, cao
đẳng, trung cấp về phục vụ ở nông thôn.
Để nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động,
đóng góp tích cực vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mà mục tiêu chính là tạo việc làm,
xóa đói, giảm nghèo cho nhân dân, nhất là ở các tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, theo tôi cần phải tập trung triển khai có hiệu quả chương trình lao động, việc
làm, đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn để tạo việc làm ổn định. Quan tâm tạo việc
làm cho lao động nữ và thanh niên nông thôn, từ đó xóa đói nghèo bền vững. Xây dựng và
phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề, nhất là các trung tâm dạy nghề cấp huyện. Tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ sở đào tạo nghề, khuyến khích mọi
thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề. Gắn dạy nghề với nhu cầu sử dụng lao động
của doanh nghiệp và thị trường lao động, thúc đẩy việc liên kết, hợp đồng giữa cơ sở dạy
nghề với doanh nghiệp, đào tạo nghề theo đơn đặt hàng. Thường xuyên điều tra nắm chắc
tình hình lao động và việc làm, khảo sát nhu cầu sử dụng lao động và thị trường lao động

trong nước và ngoài nước để xây dựng kế hoạch đào tạo, sử dụng lao động hằng năm một
cách hiệu quả.
III.Kết luận
Nhìn chung, dân cư ở nông thôn nhiều, tăng dân số tự nhiên nhanh hơn thành thị, nhưng
trình độ chuyên môn kỹ thuật kém hơn thành thị chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Đất
nông thôn ngày càng thu hẹp hạn chế việc làm của người lao động ở nông thôn.Tốc độ
tăng việc làm ở nông thôn chậm hơn tốc độ tăng lao động đã dẫn đến tăng sức ép về giải
quyết việc làm ở khu vực nông thôn. Do đó lao động nông thôn có xu hướng di cư ra thành
thị ngoài tỉnh và xuất khẩu lao động - đây là một xu hướng không bền vững. Lao
độngnông thôn thì đa số thì không đủ tiêu chí về trình độ học vấn, nhưng nếu họ cung ứng
về lao động chân tay thì họ đủ điều kiện. Trong nông thôn, cũng đang thiếu lao động ở một
số khâu như: bón phân, phun thuốc, bơm nước, nhổ cỏ Chính điều này đòi hỏi chính
quyền địa phương các cấp phải có sự quan tâm hơn nữa bằng cách mở thêm những cơ hội
việc làm, để người dân ổn định việc làm, tăng thêm thu nhập. Bên cạnh việc giải quyết việc
làm cần chú trọng về vấn đề văn hóa, giáo dục ở tại cấp độ địa phương.
Công nghiệp hoá nông thôn là chủ trương xây dựng nông thôn Việt Nam phát triển bền
vững và thu hẹp khoảng cách khác biệt giữa nông thôn và thành thị. Vì vậy, phát triển và
sử dụng hiệu quả nguồn lao động nông thôn, tạo cơ hội để lao động tiếp cận được thị
trường và có việc làm ổn định, tăng thu nhập cũng là một trong các cách góp phần làm
cho nông thôn ngày càng đổi mới và phát triển.

/> 35992.html
/> />
Con-duong-ngan-nhat-dua-KHCN-ve-nong-thon.html

×