Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.7 KB, 5 trang )

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với CM Việt Nam (1911-1945)
Đối với cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh đóng vai trò to lớn. Người đã tìm đường
cứu nước, mở ra lối đi đúng đắn, sáng suốt và phù hợp với thực tiến hoàn cảnh nước
ta. Và cũng chính Người đã dày công chăm lo, vun đắp cho cách mạng. Người chuẩn
bị về nhiều mặt từ tư tưởng đến tổ chức, từ mối đoàn kết toàn dân đến đoàn kết
quốc tế, chuẩn bị từ lực lượng chính trị đến lực lượng võ trang, đến căn cứ địa;
chuẩn bị cho cả tương lai của đất nước từ nhiệm vụ trước mắt cũng như định hướng
lâu dài…
1. Mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Hoàng Trù, nay thuộc
xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Trong quãng thời gian từ khi sinh ra đến
trước khi xuất dương, Bác đã sinh sống ở nhiều nơi. Đó là quê hương Nghệ Tĩnh với
truyền thống yêu nước và đấu tranh chống Pháp kiên cường. Đó là thành Huế với
bao cảnh đau lòng của một dân tộc bị làm nô lệ, Nguyễn Tất Thành là người thanh
niên vượt qua gian khó, đã sớm bộc lộ mầm mống trí lớn của một con người mà sau
này trở thành anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Thời thanh
niên, Nguyễn Tất Thành được học chữ Hán, rồi chữ Pháp của nền giáo dục thực dân.
Vốn là con người thông minh ham học hỏi, Nguyễn Tất Thành đã để ý đến câu khẩu
hiệu của nước Pháp: tự do – bình đẳng – bác ái. Và người tự hỏi, đằng sau ba chữ
đó là sự thật như thế nào. Và vì sao dân tộc ta vẫn phải chịu cảnh nô lệ lầm than.
Những câu hỏi đó cộng với lòng yêu nước, ý chí vượt khó đã thôi thúc Người ra đi
tìm đường cứu nước.
2. Giai đoạn từ 1919 đến 1920: Mười năm ra đi tìm đường cứu nước, trở
thành người chiến sĩ cộng sản Việt Nam đầu tiên và là một trong những
người sáng lập Đảng cộng sản Pháp.
Tháng 6 năm 1911 Nguyễn Tất Thành lấy tên Văn Ba làm nhân viên phụ bếp tầu
buôn Amiran Latutsơ Tơrêvin đi ra nước ngoài tìm đường cứu dân tộc. Sự kiện này là
kết quả của những nung nấu trong con người Nguyễn Tất Thành từ những năm
tháng học về nền văn minh Pháp. Lúc đó, những người Việt Nam thường hỏi nhau
rằng ai sẽ là người cứu giúp nước mình thoát khỏi ách đô hộ, người đoán là Nhật,
Pháp, Mĩ, Anh còn Nguyễn Tất Thành thì phải đến tận nơi xem họ làm ăn như thế


nào rồi về giúp đồng bào mình. Như vậy, tư tưởng yêu nước và định hướng con
đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành đã có sự khác biệt so với lớp tiền bối. Đó là
tư tưởng tự mình giúp mình thay vì tư tưởng cầu viện nước khác.
Nguyễn Tất Thành ra đi không giống trường hợp của Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh. Người ra đi với địa vị của người công nhân, một người làm thuê, từ đó Người
có nhiều trải nghiệm về tình cảnh của giai cấp lao động. Có thể chính lý do đó đã lý
giải vì sao Bác lại tìm ra được con đường cứu nước theo tư tưởng vô sản và đi theo
con đường này đến cùng.
Những năm tháng sống ở nước ngoài, Người đã đi qua nhiều nước: Mỹ, Pháp, Anh,
Châu Phi… có cả những nước văn minh và những nứơc thuộc địa. Với lòng yêu nước,
yêu tự do, với nhãn quan của một người lao động, Nguyễn Tất Thành đã nhận thấy
1
một điều rằng ở bất cứ nơi nào cùng có những cảnh áp bức, bóc lột, bất công. Và
Người tổng kết, trên thế giới này chỉ có hai loại người đó là kẻ áp bức và người bị áp
bức. Đây là nhận thức được coi là nền tảng để Bác lựa chọn chủ nghĩa Mác – Lênin,
vạch ra con đường đấu tranh chống áp bức bất công triệt để nhất.
Tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn
Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vecxai bản yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi chính phủ
Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt
Nam. Tuy không được sự quan tâm của hội nghị Vacxai nhưng kể từ đây, Người đã
tỏ rõ bản lĩnh cách mạng của mình. Cái tên Nguyễn Ái Quốc lần đầu xuất hiện trên
bầu trời cách mạng Việt Nam.
Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia tích cực vào Ủy ban Quốc tế III của Đảng
Xã hội Pháp. Mục đích của Uỷ ban này là vận động Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc
tế III và bảo vệ cách mạng Nga. Đây có thể coi là cái mốc quan trọng đầu tiên phản
ánh sự chuyển biến cả trong tư tưởng lẫn hành động của Nguyễn Ái Quốc từ chủ
nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội khoa học; đánh dấu sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về giải phóng dân tộc; giải phóng xã hội, giải phóng con người; về đoàn
kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; về phương pháp cách mạng….
Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc tác phẩm của Lênin: sơ thảo lần thứ nhất

những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo L’Humanité.
Tác phẩm của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập dân
tộc và tự do cho đồng bào. Ngay sau đó Người viết thư bằng tiếng Pháp gửi Quốc tế
cộng sản cho biết luận cương này đã ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đến sự hình thành
thế giới quan của Người. Từ đây Người dứt khoát đi theo Quốc tế Cộng sản.
Ngày 25 tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội đại biểu Đảng Xã hội
Pháp (Đại hộ Tour) với tư cách là đại biểu Đông Dương. Đây là lần đầu tiên có một
người Việt Nam tham gia mọt Đại hội đại biểu của một chính đảng Pháp. Nguyễn Ái
Quốc cũng là người bản sứ duy nhất trong số các đại biểu thuộc địa có mặt trong
Đại hội. Trong phiên học buổi chiều ngày 26 tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc
với tư cách là đại biểu Đông Dương đã phát biểu lên án chủ nghĩa thực dân Pháp.
Bằng những sự thật, Người đã tố cáo sự tàn bạo của thực dân Pháp đã gây ra cho
nhân dân Đông Dương và cho rằng: “Đảng Xã hội cần phải hoạt động một cách thiết
thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức”… Nguyễn Ái Quốc đã kết thúc bài
phát biểu bằng câu nói: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân dân tất cả các đảng
viên xã hội, cả phái tả lẫn phái hữu, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí hãy cứu chúng
tôi!”
Trong khuân khổ Đại hội Tour, ngày 29 tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã bổ
phiếu tán thành tham gia Quốc tế III, sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ giời phút
ấy, naq trở thành người Cộng sản. Là một trong những nhà sáng lập ra đảng Cộng
sản Pháp và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Như vậy, sau gần 10 năm bôn ba nhiều nơi, Nguyễn Ái Quốc nhận ra thế giới còn
nhiều người bị áp bức bất công và chỉ có chủ nghĩa Mác – Lênin mới chỉ ra con
đường tranh đấu đi đến thắng lợi cuối cùng. Cả quá trình đó là sự chuyển biến từ
chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa vô sản. Từ người thanh niên yêu nước trở thành
2
chiến sĩ cộng sản Việt Nam đầu tiên. Mười năm đầu, chủ nghĩa cộng sản mới chỉ
xuất hiện trên một con người Việt Nam. Như đây cũng là hạt giống đỏ để nhân rộng
ra những người Việt Nam yêu nước sau này.
3. Giai đoạn từ 1921 đến 1930: mười năm hoạt động sôi nổi, gian khó, dũng

cảm và sáng tạo với tư cách một chiến sĩ cộng sản Quốc tế và người sáng
lập ra đảng Cộng sản Việt Nam.
Giữa năm 1921 Người hoạt động tích cực xúc tiến thành lập “Hội liên hiệp thuộc địa”
Sáng lập tờ báo Người cùng khổ
Viết báo và tích cực hoạt động tại Pháp
Tháng 6 năm 1923 Người sang Liên Xô
Cuối năm 1923 Người tham dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế nông dân, tham gia
các Hội nghị khác
Tháng 11 năm 1924 Người đến Trung Quốc
Năm 1925 thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Tháng 1 năm 1930 Người chủ trì hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản để thành
lập ra Đảng cộng sản Việt Nam. Đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng, An Nam
cộng sản đảng, chi bộ của những người cộng sản Việt Nam ở nước ngoài, đã tham
dự hội nghị
Tại hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị xoá bỏ mọi thành kiến, xung đột giữa các
tổ chức cộng sản, thành thật hợp tác để thống nhất thành lập một đảng mới, định
kế hoạch thực hiện việc thống nhất, cửa Ban Trung ương lâm thời.
Hội nghị đã nhất trí về việc hợp nhất Đảng, tán thành lấy tên Đảng là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Hội nghị đã chấp nhận và thông qua những văn kiện chính thức của
Đảng: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, do Nguyễn Ái Quốc
khởi thảo. Sau hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản
và Đảng Cộng sản Việt Nam viết lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, binh lính,
thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức bóc lột.
Như vây, trong suốt 10 năm từ 1920 đến 1930 với những hoạt sôi nổi và hiệu quả
của Nguyễn Ái Quốc đã đưa chủ nghĩa cộng sản từ một con người phát triển lên một
tổ chức. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam lúc này là
một sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ và kĩ lưỡng từ tư tưởng đến tổ chức, từ con người
đến tài liệu… và đây cũng là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử.
4. Giai đoạn từ 1930 đến 1945 Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh lãnh đạo
Đảng chuẩn bị về mọi mặt cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền

3
Trong một khoảng thời gian dài từ 1931 đến 1938 là những năm tháng đau thương
của Nguyễn Ái Quốc. Người đã nhiều lần bị chính quyền thực dân Hồng Kông bắt
giam, sau đó là tình trạng đình chỉ hoạt động của quốc tế cộng sản đối với Người.
Sau khi rời khỏi Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc trở về Trung Quốc. Tại đây Người đã liên
lạc với các đồng chí của Đảng Cộng sản: Hoàng Tùng, Vũ Anh, Phùng Chí Kiên,
Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Ngày 20/06/1940 sau khi nghe tin Pari bị phát
xít Đức xâm chiếm, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập cuộc họp và phân tích: “Việc Pháp
mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách
về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”
Ngày 22/09/1940 Người đưa nhận định: “Đồng minh sẽ thắng. Nhật Pháp ở Đông
Dương chóng chày sẽ bắn nhau. Việt Nam sẽ giành được độc lập.
Chiến tranh du kích do Việt Minh lãnh đạo dần dần phát triển với những vũ khí thô
sơ, gươm, giáo, mác và một số ít khẩu súng cướp được của giặc”.
Ngày 29 tháng 1 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc lên đường về nước tại cột mốc số 108
trên biên giới Việt – Trung (địa phận huyện Hà Quảng – Cao Bằng). Ngay sau khi về
nước, Người chủ trì Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng cộng sản Đông
Dương họp từ ngay 10 đến 19 tháng 5 năm 1941. Hội nghị khẳng định: Nhiệm vụ
trước mắt chủ yếu của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc
Theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận dân
tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh.
Mặt trận Việt Minh “nhằm liên kết hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân
biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị
đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”
Chương trình Việt Minh do Người chủ trì soạn thảo gồm 6 phần: chính trị, kinh tế,
văn hoá, giáo dục đối với tầng lớp nhân dân, ngoại giao. Chương trình này có thể
được coi là cơ sở đề soạn thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (1946).
Từ 1942 trở đi, tình hình chiến tranh Thế giới thứ 2 đã có những biến chuyển tích
cực cho phe Đồng Minh. Nguyễn Ái Quốc lúc này nhận thức được vấn đề cần phải
tranh thủ sự ủng hộ của phe Đồng Minh cho cách mạng. Ngày 13 tháng 8 năm

1942, với tên mới là Hồ Chí Minh, Người đã sang Trung Quốc để liên lạc với lực
lượng cách mạng của người Việt Nam và lực lượng Đồng Minh. Trong chuyến đi này,
Người đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Cuối thánh 8 và đầu tháng 9
năm 1943 sau khi đã vượt qua nhiều khó khăn, rắc rối do phía Quốc dân Đảng
Trung Quốc gây ra, Người đã trở về nước. Cuối tháng 9 Người đã kịp thời chỉ thì trì
hoãn cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở địa phương của Liên tỉnh Cao – Bắc –
Lạng tránh những tổn thất khi chúng ta chưa chuẩn bị đầy đủ. Đây là quyết định
sáng suốt của Hồ Chí Minh, chứ tỏ một điều cách mạng muốn thành công không chỉ
có thời cơ mà quan trọng hơn là sự chuẩn bị đầy đủ và kĩ lưỡng về mọi mặt.
Đầu tháng 12 năm 1944 Người chỉ thị cho đồng chí Võ Nguyên Giáp đảm nhiệm việc
thành lập lực lượng vũ trang tập trung. Trong chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân Người khẳng định: “Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ,
4
nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi
suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt
Nam sau này. Đây là một trong những bước chuẩn bị quan trọng về lực lượng vũ
trang của Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam.
Từ ngày 6 đến 10 tháng 8 năm 1945 khi biết thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền
đã gấn đến, Hồ Chí Minh thúc giục triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân
Trào
Ngày 13 tháng 8 Hồ Chí Minh tham gia hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào.
Hội nghị nhận định cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập dân tộc đã tới. Hội quyết định
mục đích của cuộc chiến đấu là giành quyền độc lập hoàn toàn cho đất nước, thành
lập chính quyền nhân dân, thi hành mười chính sách của Việt Minh. Thống nhất các
lực lượng vũ trang thành giải phóng quân Việt Nam.
Ngày 16 và 17 tháng 8 năm 1945 Người dự Đại hội quốc dân tại Tân Trào, người
được bầu làm chủ tịch Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam tức chính phủ lâm thời.
Cách mang tháng Tám nổ ra thành công, chủ tịch Hồ Chí Minh cùng chính phủ lâm
thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà xúc tiến mọi mặt cho lễ ra mắt và tuyên ngôn

độc lập. Trong đó có bản tuyên ngôn độc lập nổi tiếng.
5. kết luận
Cách mạng tháng Tám thành công với kết quả nhân dân đã giành được chính quyền
từ tay phong kiến thực dân là kết quả của bao nhiêu xương máu, tính mệnh, biết
bao nhiêu năm đau thương của nhân dân trong cảnh nô lệ lầm than. Đây cũng đỉnh
cao hoạt động của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trong suốt thời gian Người ra đi
tìm đường cứu nước.
Đối với cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh đóng vai trò to lớn. Người đã tìm đường
cứu nước, mở ra lối đi đúng đắn, sáng suốt và phù hợp với thực tiến hoàn cảnh nước
ta. Và cũng chính Người đã dày công chăm lo, vun đắp cho cách mạng. Người chuẩn
bị về nhiều mặt từ tư tưởng đến tổ chức, từ mối đoàn kết toàn dân đến đoàn kết
quốc tế, chuẩn bị từ lực lượng chính trị đến lực lượng võ trang, đến căn cứ địa;
chuẩn bị cho cả tương lai của đất nước từ nhiệm vụ trước mắt cũng như định hướng
lâu dài.
Giai đoạn từ 1911 đến tháng 8 năm 1945 là những mốc son đẹp nhất của Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
5

×